Bản án số 26/2024/DS-PT ngày 13/01/2025 của TAND TP. Đà Nẵng về tranh chấp liên quan đến yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 26/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 26/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 26/2024/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 26/2024/DS-PT ngày 13/01/2025 của TAND TP. Đà Nẵng về tranh chấp liên quan đến yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp liên quan đến yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND TP. Đà Nẵng |
Số hiệu: | 26/2024/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 13/01/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | bà Nguyễn Thị H khởi kiện đối với bà Trương Thị T1, ông Mai M và bà Nguyễn Thị K |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
Bản án số: 26/2024/DS-PT
Ngày: 24/01/2024
V/v Tranh chấp giao dịch dân sự
vô hiệu và giải quyết hậu quả.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do- Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Nguyễn Hữu Thị Hảo Hảo
Các Thẩm phán: Ông Trương Chí Trung
Bà Mai Vương Thảo
- Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Mỹ Ngân - Thư ký Tòa án nhân dân
thành phố Đà Nẵng.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng: Bà Lương Thị
Chung - Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.
Ngày 24 tháng 01 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng
xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 196/2023/TLPT-DS ngày 07
tháng 11 năm 2023, về việc “Tranh chấp giao dịch dân sự vô hiệu và giải quyết
hậu quả của nó”.
Do Bản án sơ thẩm số: 73/2023/DS-ST ngày 28 tháng 9 năm 2023 của Tòa
án nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 284/2023/QĐ-PT ngày
14 tháng 12 năm 2023; Quyết định hoãn phiên tòa phúc thẩm số: 301/2023/QĐ-
PT ngày 29 tháng 12 năm 2023 và Thông báo v/v thay đổi thời gian mở phiên tòa
số: 302/TB-TA ngày 12 tháng 01 năm 2023, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1980; địa chỉ: A P, phường H,
quận L, thành phố Đà Nẵng. (Có mặt).
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Luật sư Nguyễn
Văn T, sinh năm 1979, thẻ luật sư số 9230/LS thuộc Đoàn luật sư tỉnh T, thuộc
Công ty L, địa chỉ: Số C đường Đ, phường T, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên
Huế. (LS T có mặt).
2. Bị đơn: - Bà Nguyễn Thị K, sinh năm 1960; ông Mai M, sinh năm 1967;
Nơi ĐKHKTT: Tổ F phường H, quận L, thành phố Đà Nẵng; địa chỉ tạm trú: Tổ
F thôn C, xã H, huyện H, thành phố Đà Nẵng. (Bà K vắng mặt; ông M có mặt).
- Bà Trương Thị T1, sinh năm 1984; địa chỉ: Số F đường Đ,
phường H, quận L, thành phố Đà Nẵng. (Có mặt).
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
2
- Văn phòng C; địa chỉ: Lô D, Khu B, đường Đ, thôn A, xã H, huyện H,
thành phố Đà Nẵng. (Vắng mặt).
- Bà Phạm Thị N, sinh năm 1964; địa chỉ: Tổ D phường H, quận L, thành
phố Đà Nẵng. (Vắng mặt).
4. Người kháng cáo: Bà Trương Thị T1, là bị đơn (bà T1 có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo Bản án sơ thẩm, nội dung vụ án như sau:
* Theo đơn khởi kiện đề ngày 30/6/2022 và trong quá trình giải quyết vụ
án, nguyên đơn bà Nguyễn Thị H trình bày:
Tháng 3/2020, bà Nguyễn Thị H có nhu cầu mua 1 mảnh đất để làm nhà ở, qua
giới thiệu nên biết bà Trương Thị T1 làm bên dịch vụ bất động sản. Bà T1 có dẫn
bà H đi xem vài lô đất, bà H đã đồng ý mua thửa đất số 12, tờ bản đồ 20, diện
tích 100m
2
đường M, phường H, quận L, thành phố Đà Nẵng với giá
500.000.000đ. Bà Nguyễn Thị H có đặt cọc cho bà T1 số tiền 150.000.000đ và có
thỏa thuận số tiền còn lại sẽ trả góp hàng tháng 10.000.000đ, hai bên có ký Hợp
đồng đặt cọc về việc chuyển nhượng lô đất theo thỏa thuận.
Ngày 24/3/2020, bà T1 hẹn bà H lên Văn phòng C để làm thủ tục chuyển nhượng
lô đất trên sang tên bà H. Lúc này, bà H mới biết ông Mai M và bà Nguyễn Thị K
là người trực tiếp ký Hợp đồng ủy quyền cho bà H theo Hợp đồng ủy quyền số
0463, quyển số 10 TP/CC – SCC/HĐGD ngày 24/3/2020 tại Văn phòng C. Tại
phòng công chứng, ông Mai M và bà Trương Thị T1 đã nhận đủ số tiền
150.000.000đ của bà H. Bà H và bà Trương Thị T1 có viết Giấy nợ tiền đề ngày
24/3/2020, theo đó, bà T1 xác nhận đã nhận của bà H số tiền 150.000.000đ, số
tiền còn lại bà H sẽ trả cho bà T1 hàng tháng 10.000.000đ.
Tuy nhiên, sau khi ký Hợp đồng ủy quyền xong, bà Nguyễn Thị H có xuống lại
thửa đất trên xem thì có thấy Biển cấm giao dịch liên quan đến các thửa đất này,
lúc đó mới biết giấy tờ bà T1, ông Mai M, bà K bán cho bà H hoàn toàn là giả
mạo. Nhiều lần bà Nguyễn Thị H liên hệ yêu cầu ông Mai M, bà K và bà T1 phải
trả lại số tiền trên nhưng các ông bà vẫn không có thiện chí trả lại. Bà Nguyễn
Thị H có gửi đơn tố cáo đến Công an quận L, theo Thông báo số 120/CSĐT ngày
08/3/2021 và số 35/CSĐT ngày 23/6/2021 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công
an quận L đã xác định hồ sơ giấy tờ thửa đất số 12, tờ bản đồ 20, diện tích 100m
2
đường M, phường H, quận L, thành phố Đà Nẵng là giả mạo.
Nay bà Nguyễn Thị H yêu cầu Tòa án tuyên bố Hợp đồng ủy quyền số 0463,
quyển số 10 TP/CC-SCC/HĐGD ngày 24/3/2020 tại Văn phòng C, thành phố Đà
Nẵng được ký giữa bà Nguyễn Thị H và ông Mai M, bà Nguyễn Thị K là vô hiệu
do hồ sơ, giấy tờ đất thửa đất số 12, tờ bản đồ số 20 là giả mạo và xử lý hậu quả
pháp lý: Buộc bà Trương Thị T1, ông Mai M và bà Nguyễn Thị K phải trả lại số
tiền đã nhận 150.000.000đ (Một trăm năm mươi triệu đồng) và tiền lãi phát sinh.
3
Trường hợp bà Trương Thị T1, ông Mai M và bà Nguyễn Thị K không trả lại tiền
thì bà Nguyễn Thị H đề nghị Tòa án chuyển toàn bộ hồ sơ sang Cơ quan Công an
để làm rõ hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản và hành vi làm giả giấy tờ đất đai
của bà Trương Thị T1, ông Mai M và bà Nguyễn Thị K để đảm bảo quyền lợi
cho bà H.
* Bị đơn ông Mai M trình bày:
Ông Mai M xác nhận giữa vợ chồng ông Mai M, bà Nguyễn Thị K và bà Nguyễn
Thị H có thực hiện việc ký kết Hợp đồng ủy quyền số 0463, quyển số 10 TP/CC-
SCC/HĐGD ngày 24/3/2020 tại Văn phòng C, thành phố Đà Nẵng. Tuy nhiên,
ông Mai M và bà Nguyễn Thị K cũng là nạn nhân của vụ lừa đảo liên quan đến
thửa đất trên. Ông M xác nhận nguyên nguồn gốc của thửa đất số 12, tờ bản đồ
20, diện tích 100m
2
đường M, phường H, quận L, thành phố Đà Nẵng là của bà
Phạm Thị N, là tổ trưởng tổ F, phường H, quận L, thành phố Đà Nẵng. Vì tin
tưởng nên khi bà N có đến đề cập nhờ ông Mai M và bà Nguyễn Thị K đứng tên
khai hoang làm giấy tờ thửa đất này thì ông bà đồng ý, bà N có dẫn ông bà đi đến
xem đất, đã có cắm mốc đầy đủ, có hứa hẹn gửi phí bồi dưỡng, mọi thủ tục giấy
tờ liên quan đến lô đất này bà N lo hết, ông bà không biết gì. Tại thời điểm đó, bà
N đưa cho ông Mai M và bà Nguyễn Thị K xem hồ sơ trong đó có giấy tờ đất đai
có dấu đỏ, có biên lai nộp thuế cũng có dấu đỏ. Vì chỉ nhờ đứng tên dùm và do
không am hiểu pháp luật nên mới đồng ý. Trong vụ việc này, ông Mai M và bà
Nguyễn Thị K chỉ biết ký giấy tờ, ngoài ra không biết gì hết.
Lúc đó, bà Trương Thị T1 quen biết với bà N đồng ý mua lại lô đất này với giá
khoảng 300.000.000đ, việc giao dịch giữa hai bên thì ông bà không biết, chỉ biết
hai bên có trao đổi qua lại với nhau. Sau đó bà N hẹn ông Mai M và bà Nguyễn
Thị K đến Văn phòng C ở H để công chứng đất ủy quyền cho bà T1. Tại đó, ông
M và bà K có ký giấy nhận tiền nhưng toàn bộ bà N lấy hết tiền mang về, bà N có
cho ông Mai M và bà Nguyễn Thị K tiền bồi dưỡng 4 triệu đồng.
Sau đó, được biết bà Trương Thị T1 có bán lại thửa đất này cho bà Nguyễn Thị
H, hai bên có trao đổi mua bán đất đai như thế nào thì ông bà không biết, bà N và
bà T1 lại nhờ ông Mai M và bà Nguyễn Thị K ký Hợp đồng ủy quyền cho bà H.
Trong ngày hôm đó, ông M, bà K và bà Trương Thị T1 phải ký hủy Hợp đồng ủy
quyền cũ đã ký với bà T1 thì mới ký Hợp đồng ủy quyền mới bán cho bà H được.
Như vậy, đối với thửa đất trên bà N, bà T1 nhờ ông M, bà K ký 02 Hợp đồng ủy
quyền, một lần ký với bà T1 và một lần ký với bà H. Ngày 24/3/2020, khi ký Hợp
đồng ủy quyền cho bà H thì không có bà N, chỉ có con bà N đi theo, bà H cũng
giao tiền cho bà T1.
Nay bà H khởi kiện thì ông Mai M thừa nhận có ký Hợp đồng ủy quyền với bà H,
tuy nhiên, ông bà chỉ là nạn nhân bị bà Phạm Thị N lừa đảo. Do ông Mai M và bà
Nguyễn Thị K không nhận tiền của bà H, chỉ đứng tên dùm bà N nên không có
khả năng trả lại cho bà H số tiền 150.000.000đ và tiền lãi.
* Bị đơn bà Trương Thị T1 trình bày:
4
Bà Trương Thị T1 xác nhận có mua lại của bà Phạm Thị N 01 thửa đất số 12, tờ
bản đồ 20, diện tích 100m
2
đường M, phường H, quận L, thành phố Đà Nẵng, hai
bên có thỏa thuận giá là 320.000.000đ, tuy nhiên lúc đó chưa đủ tiền nên mới chỉ
giao cho bà N 270 triệu, còn nợ lại số tiền 50 triệu vẫn chưa trả.
Thời gian sau đó, bà H nhiều lần nói bà T1 bán lại lô đất trên, bà T1 cũng cân
nhắc và nói lại với bà H là đất này thủ tục chưa rõ, phải đi gặp bà N để tìm hiểu
về việc có xây nhà được không. Tuy nhiên bà H năn nỉ nhượng lại nên bà Trương
Thị T1 đã đồng ý chuyển nhượng cho bà H với giá 500.000.000đ. Bà T1 đã nhận
của bà H số tiền 150.000.000đ và có thỏa thuận số tiền còn lại 350.000.000đ cho
bà H trả dần hàng tháng 10.000.000đ. Tuy nhiên, bà H hầu như không làm việc
với bà Trương Thị T1 mà chỉ gặp bà N để trao đổi. Khi giao tiền cũng không tin
bà T1 mà phải có mặt bà N mới giao tiền 150.000.000đ, khi bà H giao tiền thì bà
N nhận hết số tiền, tuy nhiên bà Trương Thị T1 là người đứng ra ký nhận toàn bộ.
Ngày 24/3/2020, bà T1 và bà H cùng lên Văn phòng C để làm thủ tục ủy quyền
về việc chuyển nhượng lô đất trên cho bà H, do đất này giấy tờ chưa rõ ràng nên
buộc phải ký Hợp đồng ủy quyền mà không được ký Hợp đồng chuyển nhượng
như thông thường, thực tế đây là ủy quyền về việc mua bán đất. Đồng thời trong
ngày, bà Trương Thị T1 và ông Mai M, bà Nguyễn Thị K cũng hủy Hợp đồng ủy
quyền trước đây đã ký khi bà Thu mua B đất với bà N. Bà Trương Thị T1 có giao
cho bà H hồ sơ đất là bản chính Đơn xin giao đất để xây dựng nhà ở đứng tên ông
Mai M, sơ đồ vị trí khu đất, biên lai thu thuế nhà đất.
Nay bà H khởi kiện thì bà T1 không đồng ý và cho rằng không liên can gì trong
vụ án này, cũng chỉ là nạn nhân bị bà Phạm Thị N lừa đảo. Thực tế khi xảy ra sự
việc biết toàn bộ giấy tờ đất đai này là giả mạo, bà T1 cũng gặp bà H để yêu cầu
bà H hợp tác đi đòi tiền lại từ bà N nhưng bà H không đồng ý vì cho rằng chỉ giao
dịch với bà T1 và ông M, bà K và bắt ông bà phải chịu trách nhiệm thì bà T1
không đồng ý.
* Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu đã tiến
hành tống đạt hợp lệ các thông báo, văn bản tố tụng cho bị đơn bà Nguyễn Thị K
và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Văn phòng C, bà Phạm Thị N theo
quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự nhưng các đương sự này đều vắng mặt
không có lý do, không có lời khai tại Tòa án.
Với nội dung vụ án như trên, tại Bản án số 73/2023/DS-ST ngày 28 tháng 9 năm
2023 của Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng đã tuyên xử:
- Áp dụng Điều 117, 122, 123, 131, 407, 408 và Điều 562 của Bộ luật Dân sự
năm 2015; khoản 2 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, Điều 266, 273 của Bộ luật
Tố tụng dân sự;
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị H đối với bà Trương Thị T1,
ông Mai M và bà Nguyễn Thị K. Xử:
5
- Tuyên Hợp đồng ủy quyền số 0463, quyển số 10/TP/CC-SCC/HĐGD ngày
24/3/2020 công chứng tại Văn phòng C được ký kết giữa ông Mai M, bà Nguyễn
Thị K và bà Nguyễn Thị H vô hiệu.
- Buộc bà Trương Thị T1 phải trả cho bà Nguyễn Thị H số tiền 150.000.000đ
(Một trăm năm mươi triệu đồng).
Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí, quyền kháng cáo, nghĩa vụ thi hành án của
các đương sự.
Sau khi xét xử sơ thẩm: Ngày 28/9/2023, bị đơn bà Trương Thị T1 kháng cáo
toàn bộ Bản án sơ thẩm số 73/2023/DS-ST ngày 28 tháng 9 năm 2023 của Tòa án
nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng đề nghị cấp phúc thẩm xét xử lại
vụ án, với lý do: Không đồng ý với quyết định của bản án sơ thẩm tuyên buộc bà
T1 phải trả cho bà Nguyễn Thị H số tiền 150.000.000 đồng vì trong quá trình lấy
lời khai tại Cơ quan Công an quận L bà Nguyễn Thị H thừa nhận số tiền
150.000.000 đồng đã đưa tận tay bà N chứ không phải đưa cho bà T1, nên buộc
bà T1 trả là không đúng.
Tại phiên tòa phúc thẩm, người kháng cáo vẫn giữ nguyên nội dung kháng
cáo. Các đương sự không cung cấp thêm tài liệu, chứng cứ mới và không thoả
thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng có ý kiến: Quá trình
thụ lý giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký và các đương sự đã
chấp hành đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Về hướng giải quyết vụ
án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân
sự, không chấp nhận kháng cáo của bị đơn, giữ nguyên Bản án sơ thẩm số
73/2023/DS-ST ngày 28 tháng 9 năm 2023 của Tòa án nhân dân quận Liên
Chiểu, thành phố Đà Nẵng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại
phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận
định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu giải quyết hợp
đồng uỷ quyền vô hiệu và giải quyết hậu quả yêu cầu bị đơn trả lại tiền. Xét thấy,
giao dịch dân sự do các bên xác lập là giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng
đất thông qua hợp đồng ủy quyền nên xác định quan hệ tranh chấp là “Tranh chấp
giao dịch dân sự vô hiệu và giải quyết hậu quả” nên Tòa án nhân dân quận Liên
Chiểu, thành phố Đà Nẵng thụ lý giải quyết theo thủ tục sơ thẩm là đúng thẩm
quyền phù hợp với quy định tại khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35 và
điểm c khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Sau khi xét xử sơ thẩm, bị đơn bà Trương Thị T1 kháng cáo trong hạn luật định
và đã nộp tiền tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm nên hợp lệ.
[2] Về nội dung: Xét kháng cáo của bị đơn bà Trương Thị T1 thì thấy:
6
[2.1] Ngày 24/3/2020, bà Trương Thị Thu N1 tiền cọc của bà Nguyễn Thị
H để thực hiện việc chuyển nhượng cho bà H thửa đất số 12, tờ bản đồ số 20,
diện tích 100m
2
địa chỉ: phường H, quận L, thành phố Đà Nẵng. Các bên thoả
thuận giá trị chuyển nhượng là 500.000.000 đồng, đặt cọc 150.000.000đ, số tiền
còn lại trả dần hàng tháng 10 triệu đồng. Cùng ngày 24/3/2020, bà Trương Thị
T1 và bà Nguyễn Thị H viết giấy nợ tiền. Để thực hiện giao dịch chuyển nhượng
thửa đất số 12 tờ bản đồ số 20 này, cùng trong ngày 24/3/2020, ông Mai M, bà
Nguyễn Thị K làm hợp đồng ủy quyền số 0463 cho bà Nguyễn Thị H để hợp thức
hoá giao dịch mua bán đất giữa bà Trương Thị T1 với bà Nguyễn Thị H.
[2.2] Để tạo niềm tin về giá trị pháp lý của thửa đất số 12, tờ bản đồ số 20,
bên chuyển nhượng đã cung cấp: “Đơn xin giao đất để xây dựng nhà ở” và “Sơ
đồ vị trí khu đất xin giao để xây dựng nhà ở” đứng tên ông Mai M có xác nhận
của UBND phường H ngày 16/4/2000. Tuy nhiên, theo kết luận giám định số
39/GĐ-TL ngày 19/4/2021 của Phòng K1, Công an thành phố Đ xác định các
giấy tờ nói trên là giả mạo, hiện ông Mai M và bà Trương Thị T1 bị Bản án hình
sự sơ thẩm số 113/2023/HS-ST ngày 26/9/2023 của Toà án nhân dân quận Liên
Chiểu và Bản án phúc thẩm số 05/HSPT ngày 17/01/2024 của Toà án nhân dân
thành phố Đà Nẵng buộc tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức”. Do
thửa đất đất số 12, tờ bản đồ số 20 không phải của ông Mai M và bà Nguyễn Thị
K, giấy tờ đất là giả mạo nên giao dịch dân sự của các bên là vi phạm pháp luật
do đó cần tuyên: Hợp đồng uỷ quyền số 0463 ngày 24/3/2020; Hợp đồng đặt cọc
ngày 24/3/2020 và Giấy nhận tiền ngày 24/3/2024 giữa các bên là vô hiệu do vi
phạm điều cấm của pháp luật theo quy định tại Điều 123 của Bộ luật dân sự. Tuy
nhiên, bản án dân sự sơ thẩm chỉ đề cập đến Hợp đồng uỷ quyền vô hiệu mà
không đề cập đến các giao dịch đặt cọc, nhận tiền vô hiệu là chưa giải quyết triệt
để vụ án nên cần rút kinh nghiệm. Do đó cần điều chỉnh phần quyết định của Bản
án cho phù hợp.
[2.3] Trong trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu, các bên phải hoàn trả cho
nhau những gì đã nhận và bên nào có lỗi thì bên đó phải bồi thường, xét thấy: ông
Mai M và bà Nguyễn Thị K chỉ ký giấy uỷ quyền để hợp thức hoá giao dịch
chuyển nhượng đất giữa bà Trương Thị T1 với bà Nguyễn Thị H. Bà T1 là người
quyết định toàn bộ giao dịch chuyển nhượng, cụ thể là bà T1 quyết định giá
chuyển nhượng, phương thức thanh toán cho trả góp hàng tháng và là người trực
tiếp nhận tiền của bà H số tiền 150.000.000 đồng thể hiện tại Giấy nợ tiền ngày
24/3/2020, nên bà T1 phải có trách nhiệm hoàn trả lại cho bà H số tiền này là phù
hợp với Điều 131 của Bộ luật dân sự.
[4] Về phần yêu cầu tính lãi của bà H, do bà H cũng có lỗi trong giao dịch
nên cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu của bà H về bồi thường tiền lãi phát
sinh là phù hợp với Điều 131 của Bộ luật dân sự. Tuy nhiên, đáng lý ra cấp sơ
thẩm phải yêu cầu bà H sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện làm rõ số tiền lãi là bao
nhiêu, trong trường hợp nguyên đơn không cung cấp số tiền lãi cụ thể thì không
7
xem xét giải quyết theo quy định tại khoản 2 Điều 193 của Bộ luật tố tụng dân sự.
Trong trường hợp nhận định bác yêu cầu khởi kiện về việc tính lãi của nguyên
đơn thì phải buộc nguyên đơn chịu án phí phần không chấp nhận theo quy định
tại khoản 1 Điều 147 của Bộ luật dân sự, đây là sai sót của cấp sơ thẩm cần rút
kinh nghiệm.
[5] Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm không chấp
nhận kháng cáo của bà Trương Thị T1, giữ nguyên án sơ thẩm.
[6] Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng tại
phiên tòa phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.
[7] Do không chấp nhận kháng cáo nên bà Trương Thị T1 phải chịu án phí
dân sự phúc thẩm theo quy định tại Điều 147, 148 của Bộ luật Tố tụng Dân sự.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Áp dụng:
Khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Điều 117, 122, 123, 131 của Bộ luật Dân sự năm 2015;
Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ
ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và
sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
I. Không chấp nhận kháng cáo của bà Trương Thị Thu .
II. Giữ nguyên Bản án sơ thẩm số: 73/2023/DS-ST ngày 28 tháng 9 năm
2023 của Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng.
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị H đối với bà Trương Thị
T1, ông Mai M và bà Nguyễn Thị K.
Xử:
1. Tuyên Hợp đồng ủy quyền số 0463, quyển số 10/TP/CC-SCC/HĐGD
ngày 24/3/2020 công chứng tại Văn phòng C được ký kết giữa ông Mai M, bà
Nguyễn Thị K và bà Nguyễn Thị H; Hợp đồng đặt cọc ngày 24/3/2020 và Giấy
nhận tiền ngày 24/3/2024 giữa bà Trương Thị T1 và bà Nguyễn Thị H vô hiệu.
2. Buộc bà Trương Thị T1 phải trả cho bà Nguyễn Thị H số tiền
150.000.000đ (Một trăm năm mươi triệu đồng).
3. Về án phí dân sự sơ thẩm:
- Ông Mai M và bà Nguyễn Thị K phải chịu số tiền án phí dân sự sơ thẩm là
300.000 đồng. Bà Trương Thị T1 phải chịu 7.500.000 đồng.
- Hoàn trả cho bà Nguyễn Thị H số tiền tạm ứng án phí đã nộp là
3.750.000đ (Ba triệu bảy trăm năm mươi nghìn đồng) theo biên lai thu tạm ứng
án phí số 0005543 ngày 13/11/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Liên
Chiểu, thành phố Đà Nẵng.
8
III. Án phí dân sự phúc thẩm là 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) bà
Trương Thị T1 phải chịu, nhưng được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng bà T1
đã nộp tại biên lai thu số 0002306 ngày 11/10/2023 của Chi cục Thi hành án dân
sự quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng. Bà Trương Thị T1 đã thi hành xong
nghĩa vụ nộp án phí phúc thẩm.
IV. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi
hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự
có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành
án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi
hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30
Luật Thi hành án dân sự.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
- Đương sự; THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- VKSND Tp Đà Nẵng;
- CCTHADS quận Liên Chiểu, ĐN;
- TAND quận Liên Chiểu, ĐN;
- Lưu hồ sơ vụ án.
Nguyễn Hữu Thị Hảo Hảo
9
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 17/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 16/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 13/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 10/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 09/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 13/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 15/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 26/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 25/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 24/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 19/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 13/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 10/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 07/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 05/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 27/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 23/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 14/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 07/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm