Bản án số 19/2025/DS=PT ngày 09/01/2025 của TAND tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp liên quan đến yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 19/2025/DS=PT

Tên Bản án: Bản án số 19/2025/DS=PT ngày 09/01/2025 của TAND tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp liên quan đến yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp liên quan đến yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Đắk Lắk
Số hiệu: 19/2025/DS=PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 09/01/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: 17/8/2011 bà HT nhờ bà HB thế chấp 2 thửa đất vay ngân hàng 180.000.000 bằng nhà đất của bà HT.và bà HT vẫn quản lý sử dụng đến nay.nhưng sổ đỏ sang tên bà HB nay bà HB bán xảy ra tranh chấp
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TOÀ ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỈNH ĐẮK LẮK Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 19/2025/DS-PT
Ngày: 09-01-2025
V/v: Tranh chấp hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất.
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Ông Nguyễn Đình Triết
Các Thẩm phán: Ông Trần Duy Tuấn
Ông Nguyễn Huờn
- Thư phiên toà: Bà Vũ Thị Hồng Phúc - Thư ký Toà án nhân dân tỉnh
Đắk Lắk.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lk: Trương Thị Thu
Thủy - Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.
Ngày 09 tháng 01 năm 2025, tại trụ sToà án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét
xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ số: 346/2024/TLPT-DS ngày 13
tháng 11 năm 2024 về việc: “Tranh chp hợp đồng tặng cho quyn sử dụng đất
Do Bản án dân sự thẩm số: 37/2024/DSST ngày 11/9/2024 của Tòa án nhân
dân huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk bị kháng o.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 412/2024/QĐ-PT
ngày 10 tháng 12 năm 2024 quyết định hoãn phiên tòa số 394/2024/QĐ-PT
ngày 27/12/2024 giữa các đương sự:
*Nguyên đơn: H T Ayũn, sinh năm 1979; địa chỉ: Buôn P, EY,
huyện KP, tỉnh Đắk Lắk, vắng mặt.
Người đại diện theo ủy quyền cho nguyên đơn: Ông Nguyễn Thanh T;
sinh năm 1973; địa chỉ: Thôn TH, xã ĐG, huyện ĐM, tỉnh Đắk Nông, có mặt.
*Bị đơn: Bà H B Niê, sinh năm 1986, có đơn xin xét xử vắng mặt;
Ông Lê Kim U, sinh năm 1984, có mặt.
Cùng địa chỉ: Buôn P, xã EY, huyện KP, tỉnh Đắk Lắk.
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho H B Niê: Luật sư Đặng
Ngọc H Văn phòng luật sư Tín Nghĩa, Đoàn luật sư tỉnh Đắk Lắk.
Địa chỉ: 59 TĐT, Tp. BMT, tỉnh Đắk Lắk, có mặt.
2
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Y G Niê, sinh năm 1975 (chồng H T); địa chỉ: Buôn P, xã EY,
huyện KP, tỉnh Đắk Lắk, vắng mặt.
Người đại diện theo ủy quyền cho ông Y G Niê: Ông Nguyễn Thanh T;
sinh năm 1973; địa chỉ: Thôn TH, xã ĐG, huyện ĐM, tỉnh Đắk Nông, có mặt.
2. Phòng công chứng số 2 tỉnh Đắk Lắk; địa chỉ: 33 NTMK, thị trấn PA,
huyện KP, tỉnh Đắk Lắk. Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Quốc S
Chức vụ: Phó trưởng phòng – phụ trách, có đơn xin xét xử vắng mặt.
3. Văn phòng công chứng TN; địa chỉ: 139 GP, thị trấn PA, huyện KP,
tỉnh Đắk Lắk. Người đại diện theo pháp luật: Ông Chè Nại K Chức vụ:
Trưởng văn phòng, vắng mặt.
4. Sở tài nguyên môi trường tỉnh Đắk Lắk; địa chỉ: 46 PBC, thành phố
BMT, tỉnh Đắk Lắk.
Người đại diện ủy quyền: Ông Lăng Trọng D Chức vụ; Giám đốc Chi
nhánh văn phòng đăng ký đất đai huyện KP, vắng mặt.
5. Ông Nguyễn Văn C, sinh năm 1971 Nguyễn Thị H, sinh năm
1973; cùng địa chỉ: Tổ dân phố 1, thị trấn PA, huyện KP, tỉnh Đắk Lắk, vắng
mặt.
6. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập: Bà Nguyễn
Thị Thanh P, sinh năm 1975, có mặt;
Ông Mạc Văn L, sinh năm 1966, vắng mặt.
Cùng địa chỉ: 1013/35 BVH, khu phố 7, phường LB, TP. BH, tỉnh Đồng
Nai.
NI DUNG VỤ ÁN:
Người đại diện ủy quyền cho nguyên đơn H T Ayũn, đồng thời
đại diện ủy quyền cho người quyền lợi, nghĩa vliên quan ông Y G Niê
ông Nguyễn Thanh T trình bày:
H T Ayũn, H B Niê, ông Kim U sống cùng buôn nên quen biết
nhau. Ngày 17/08/2011, H T nhờ H B làm thủ tục vay tiền ngân hàng
giùm 180.000.000 đồng. Để đảm bảo cho khoản tiền vay trên, H B Niê
yêu cầu vợ chồng H T hợp đồng thế chấp QSD đất cho Ngân hàng tại nhà
H B Niê đối với 02 thửa đất gồm: Thửa đất 380, tờ bản đồ số 33, diện tích
1.504m
2
và thửa đất 411, tờ bản đồ số 15, diện tích 5.100m
2
.
Ngày 18/01/2012, H B giao cho H T 180.000.000 đồng, lãi suất
theo thỏa thuận miệng 2,25%/tháng, thời hạn vay 05 năm. H T đưa tiền cho
H B trả lãi cho Ngân hàng đến năm 2014, thì ông U đến nhà buộc vợ chồng
3
H T phải bàn giao thửa đất số 411 với do vợ chồng H T đã tặng cho
H B thửa đất 411 trên. tại thời điểm này ông U làm cán bộ Đội CSĐT Công
an huyện KP, nên vợ chồng H T phải bàn giao thửa đất số 411 cho ông U
tránh tội chống người thi hành công vụ. Sau đó, bà H T được biết ngày
17/08/2011, H B Niê lợi dụng vợ chồng H T người dân tộc thiểu số
thiếu hiểu biết, H B hướng dẫn cho vợ chồng H T hợp đồng thế chấp
QSD đất cho Ngân hàng nhưng thực tế H B lừa dối vợ chồng H T ký hợp
đồng tặng cho QSD đất cho H B. Sau đó, H B mang hợp đồng đến Phòng
công chứng số 2, tỉnh Đắk Lắk ghép trang lời chứng, đóng dấu giáp lai thành
hợp đồng tặng cho QSD đất hợp pháp, nên trên các trang hợp đồng đều không
chữ giáp lai của vchồng H T bà H B. Để hợp thức hóa hợp đồng
tặng cho QSD đất ngày 24/08/2011, H B làm yếu lịch mối quan hệ
nhân thân, bà H B em ruột của ông Y G nộp cho Phòng công chứng số 2, tỉnh
Đắk Lắk đhoàn tất hợp đồng tặng cho QSD đất vợ chồng H T không
biết. Như vậy, hợp đồng tặng cho QSD đất ngày 17/08/2011 giữa vợ chồng bà H
T Ayũn và H B Niê không phù hợp về mặt hình thức theo quy định tại
khoảng 6 Điều 35 mục 1 Chương IV của Luật công chứng năm 2006, không phù
hợp về mặt nội dung nên vô hiệu là có căn cứ.
Đến khoảng tháng 06/2019, H T làm đơn tố cáo H B đến Công an
tỉnh Đắk Lắk. Ngày 28/06/2019, Phòng PX05 Công an tỉnh Đắk Lắk chuyển đơn
đến Công an huyện KP giải quyết, thì ông Kim U viết giấy cam kết nội dung
Ngày 18/01/2012, ông Kim U mua của vợ chồng H T Ayũn thửa đất
s 380 thửa đất s 411 với giá 180.000.000 đồng, đến ngày 16/01/2013, nếu
vợ chồng H T Ayũn trả cho ông Kim U 180.000.000 đồng lãi suất
2,25% thì ông Kim U sẽ hoàn trả lại tài sản cho vợ chồng H T Ayũn”.
Theo đó, ngày 02/12/2019, Công an huyện KP công văn số 1293 trả lời cho
Phòng PX05 được biết kết quả xác minh, H B không dấu hiệu phạm tội
hình sự. Xét thấy, ông U tự viết giấy cam kết làm căn cứ giải quyết đơn tố cáo,
nên không chữ viết chữ ký của vợ chồng H T, không căn cứ để xác
định vợ chồng H T bán 2 thửa đất cho ông U, không căn cứ để xác định
180.000.000 đồng là tiền vay hay là tiền chuyển nhượng QSD đất. Hơn nữa, ông
U không có giao giấy cam kết cho vợ chồng bà H T, nên vợ chồng bà H T không
biết gì về việc ông U và bà H B cho vợ chồng bà H T chuộc lại tài sản trong thời
hạn 1 năm. Dẫn đến việc, bà H B tự khai tại Công an huyện KP, ông U viết giấy
cam kết có nội dung mâu thuẫn với hợp đồng tặng cho QSD đất ngày 17/8/2021,
căn cứ chứng minh hợp đồng tặng cho QSD đất này che dấu một giao dịch
khác, nên vô hiệu.
Sau đó H T khởi kiện H B ra Tòa án nhân dân huyện Krông Pắc
ngày 20/8/2021. Ngày 13/9/2021 tại Tòa, H B khai: Ngày 10/08/2011, vợ
chng H T thỏa thuận chuyển nhượng thửa đất số 411 thửa đất số 380
cho H B, vợ chồng H T sẽ chịu các khoản thuế lệ phí, nên H T đề
nghị lập hợp đồng tặng cho để giảm tiền thuế, toàn bộ thủ tục do H T lo,
H B chỉ hợp đồng nhận sang tên giấy chứng nhận QSD đất qua tên
H B. Theo đó, vợ chồng H T hợp đồng tặng cho QSD đất cho H B tại
4
Phòng công chứng số 2 Đắk Lắk. Sau khi hợp đồng, H B đã thanh toán
tiền chuyển nhượng QSD đất cho vợ chồng H T đầy đủ, H T đã giao 02
giấy chứng nhận QSD đất cho H B Niê. Sau đó, H B Niê chuyển nhượng
QSD đất sang cho người khác, H T Ayũn không ý kiến gì. Cho thấy lời
khai của H B Niê hoàn toàn mâu thuẫn đối với giấy cam kết của ông U ngày
18/01/2012, mâu thuẫn đối với hợp đồng tặng cho QSD đất ngày 17/08/2011.
Bởi lẽ căn cứ theo giấy cam kết ngày 18/01/2012, thể hiện về việc vợ chồng
H T hợp đồng chuyển nhượng QSD đất cho ông U để thế chấp cho khoản
tiền vay 180.000.000 đồng, do đó ông U mới cam kết cho vợ chồng H T trả
180.000.000 đồng lãi suất 2.25% chuộc lại 2 thửa đất trong thời hạn 1 năm,
dẫn đến việc bà H B Niê khai tại Tòa ngày 13/09/2021, vợ chồng bà H T bán đất
cho H B không căn cứ. Bởi lẽ căn cứ theo hợp đồng tặng cho QSD đất
ngày 17/08/2011, thì bên nhận tặng cho là bà H B chịu tiền thuế, theo đó H B
mới làm yếu lịch em của ông Y G đđược tặng cho QSD đất, H B
Niê người viết phiếu yêu cầu Phòng công chứng số 2, tỉnh Đắk Lắk lập hợp
đồng tặng cho QSD đất vợ chồng bà H T không biêt, nên H B không
trả tiền chuyển nhượng QSD đất cho vợ chồng H T, chứng minh hợp đồng
tặng cho QSD đất ngày 17/08/2011 che đậy 1 giao dịch khác, nên vô hiệu.
Căn cứ theo biên bản lấy lời khai ngày 14/08/2023, H B khai: Do vợ
chồng H T Ayũn nợ H B Niê 1 khoản tiền cần phải trả, nên nhu cầu
chuyển nhượng QSD đất của gia đình. Nếu hợp đồng chuyển nhượng QSD
đất thì bà H T phải chịu 1 khoản thuế lớn, vì vậy hai bên thống nhất là hợp đồng
tặng cho QSD đất, nhưng thực tế giao dịch của hai n là hợp đồng chuyển
nhượng QSD đất. Sau khi thống nhất, H B Niê đã vay Ngân hàng Nông
nghiệp phát triển nông thôn Việt Nam, chi nhánh Đắk Lắk - Phòng giao dịch
Hòa Bình 900.000.000 đồng. Cho thấy, 02 thửa đất của bà H T Ayũn, năm 2011
trị gkhoản 1,5 tỷ đồng, thì không do vợ chồng H T bán 2 thửa
đất trên cho H B 180.000.000 đồng. như vợ chồng bà H T nbà H B
180.000.000 đồng, thì chỉ cần bán đi 1 phần đất đủ trả nợ cho bà H B, không
do vợ chồng H T để cho H B ông U lấy 2 thửa đất của vợ
chồng H T trị giá 1,5 tỷ đồng trừ nợ 180.000.000 đồng không căn cứ,
chứng minh bà H B lừa dối vợ chồng bà H T ký hợp đồng tặng cho QSD đất cho
H B căn cứ, chứng minh hợp đồng tặng cho QSD đất ngày 17/08/2011
giữa vợ chồng bà H T và bà H B là giao dịch bị lừa dối, nên vô hiệu.
Do vợ chồng bà H T không bán, tặng, cho, nhận tiền, bàn giao đất cho
H B, cho nên ngày 17/08/2011, vợ chồng H T hợp đồng tặng cho QSD
đất cho H B rồi vchồng H T vẫn quản sử dụng dất, H B không
yêu cầu vợ chồng bà H T bàn giao đất. Mãi đến năm 2014, ông U lợi dụng
chức vụ quyền hạn Công an huyện Krông Păc, ép vợ chồng H T phải
bàn giao thửa đất số 411, buộc vợ chồng bà H T phải giao đất tránh chống người
thi hành công vụ, còn thửa đất 380, ngôi nhà gtài sản duy nhất của gia
đình H T, hiện thời vợ chồng bà H T đang sinh sống cho đến nay bà H B
không tranh chấp QSD đất, chứng minh vợ chồng H T không tặng cho
QSD đất cho bà H B là có căn cứ.
5
Vì vậy, nguyện vọng của bà H T Niê đề nghị Tòa án xem xét, giải quyết:
- Tuyên bố hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất 17/08/2011 giữa bên tặng
cho H T Ayũn, ông Y G Niê n nhn tặng cho H B Niê, ng chng số
5724, quyền s01/2011 TP/CC-SCC/GD của Phòng công chứng số 02 tỉnh
Đắk Lắk hiệu một phần đối với tha đất số 380, tbản đsố 33, diện ch
1.504m
2
(diệnch thc tế 1.477,7m
2
), giải quyết hậu quả đối với hợp đồng này.
Đối với yêu cầu khởi kiện độc lập của Nguyễn Thị Thanh P ông
Mạc Văn L về việc tuyên buộc H T Ayũn, ông Y G Niê ông Nguyễn Văn
C, Nguyễn Thị H phải trách nhiệm bàn giao tài sản là: Quyền sử dụng đất
số CQ 485609, thửa đất số 380, tờ bản đồ 33, diện tích 1504m
2
, tọa lạc tại: Buôn
P, EY, huyện KP cho gia đình trên thực tế thì bà H T Ayũn ông Y G
Niê không đồng ý, bởi vì: P, ông L nhận chuyển nhượng đất của của ông C,
H thì P, ông L phải yêu cầu ông C, H phải bàn giao đất, bà H T và ông
Y G không có nghĩa vụ bàn giao đất.
Về giá trị tài sản tranh chấp: Nguyên đơn thống nhất theo kết quả định giá
ngày 28/7/2023 của Tòa án nhân dân huyện Krông Pắc và không đề nghị Tòa án
tiến hành định giá lại. Ngoài ra, không có yêu cầu gì khác.
Tại bản tự khai bđơn H B Niê trình bày: H T Ayũn, ông Y G
Niê H B sống cùng buôn (ông Y G Niê họ hàng với H B). Do vợ
chồng bà H T Ayũn nợ một khoản nợ đã đến hạn phải trả nên có nhu cầu chuyển
nhượng quyền sử dụng đất của gia đình. Nếu kết hợp đồng chuyển nhượng
thì H T phải chịu một khoản lớn vậy hai bên thống nhất hợp đồng tặng
cho quyền sử dụng đất, nhưng thực tế giao dịch của hai bên hợp đồng chuyển
nhượng. Sau khi thống nhất bà H B đã vay Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển
nông thôn Việt Nam chi nhánh Đắk Lắk phòng giao dịch Hoà Bình để vay
900.000.000 đồng, hai bên thoả thuận giá chuyển nhượng 180.000.000 đồng.
Hai bên cũng thống nhất nếu trong thời hạn 01 năm mà gia đình H T trả lại
tiền thì bà H B nhất trí chuyển lại quyền sử dụng đất cho gia đình bà H T và tính
theo lãi suất ngân hàng mà bà H B đã vay.
vậy ngày 17/08/2011 giữa bà H B và vợ chồng H T Ayũn đã đến
Phòng công chứng số 02, tỉnh Đắk Lắk để kết hợp đồng tặng cho đối với 02
thửa đất: thửa đất số 380, tờ bản đồ số 33, diện tích 1504m
2
thửa đất số 411,
tờ bản đồ số 15, diện tích 5100m
2
.
Từ khi hai bên kết hợp đồng tặng cho vào năm 2011 mặc dù H B
người đứng tên các Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng bà H B vẫn cho
gia đình H T sử dụng, canh tác. Nhưng thời gian đã quá một năm, mặc
H B vẫn nhắc gia đình H T về việc thanh toán lại tiền để H B trả lại quyền
sử dụng đất nhưng gia đình H T không khả năng mua lại. Sự việc kéo dài
rất nhiều năm, do H B cần phải thanh toán nợ ngân hàng vậy H B đã
chuyển nhượng thửa đất số 380, tờ bản đồ số 33, diện tích 1504m
2
cho ông
Nguyễn Văn C Nguyễn Thị H vào năm 2019. Sau đó H B được biết
ông C, H cũng đã chuyển nhượng thửa đất này cho vợ chồng Nguyễn Thị
Thanh P.
6
Sau khi P nhận chuyển nhượng không biết do vợ chồng bà
H T, Y G m đơn tố cáo vchồng bà H B đến quan cảnh sát điều tra cho
rằng H B lừa đảo chiếm đoạt tài sản, cho vay nặng lãi. Vụ việc cũng đã được
quan điều tra xác minh, làm vic rất nhiều lần kết luận không sviệc
cho vay nặng lãi, lừa đảo. Vì vậy vợ chồng H T đã khởi kiện bà H B đến Toà
án rất nhiều lần cho đến nay.
Nay bà H T Ayũn khởi kiện yêu cầu T án giải quyết: Tuyên bố hợp
đồng tặng cho quyền sử dụng đất 17/08/2011 giữa bên tặng cho H T Ayũn,
ông Y G Niê và bên nhận tặng cho H B Niê, công chứng số 5724, quyền số
01/2017 TP/CC-SCC/HĐGD của Phòng công chứng số 02, tỉnh Đắk Lắk
hiệu một phần đối với thửa đất số 380, tờ bản đồ số 33, diện tích 1504m
2
giải
quyết hậu quả đối với hợp đồng này thì bà H B không chấp nhận hợp đồng tặng
cho ngày 17/08/2011 đã thc hiện theo đúng quy định của pháp luật hoàn toàn
hợp pháp. Nếu H T cho rằng không bất cứ ch nào trong hợp đồng
tặng cho thì H T quyền giám định ch của mình.
Đối với yêu cầu độc lập của P, ông L về việc buộc H T Ayũn, ông Y
G Niê và ông Nguyễn Văn C, bà Nguyễn Thị H phải có trách nhiệm bàn giao tài
sản là: Quyền sử dụng đất số CQ 485609, thửa đất số 380, tờ bản đồ 33, có diện
tích 1.504m
2
, tọa lạc tại: Buôn P, EY, huyện KP cho P, ông L trên thực
tế thì bà H B đồng ý.
Người quyền lợi nghĩa vụ liên quan yêu cầu độc lập (bà
Nguyễn Thị Thanh P) trình bày:
Theo đơn khởi kiện của bà H T yêu cầu Tòa án: Tuyên hợp đồng tặng cho
Quyền sử dụng đất ngày 17/8/2011 giữa H T Ayũn, ông Y G Niê với H B
Niê hiệu giải quyết hậu quđối với hợp đồng hiệu nói trên. Thì ý kiến
của P như sau: Quyền sử dụng đất đối tượng của hợp đồng tặng cho, hiện
nay đã được gia đình P nhận chuyển nhượng từ H, ông C vào ngày
14/01/2019, hợp đồng chuyển nhượng đã được công chứng, chứng thực đúng
theo quy định của pháp luật. Sau khi kết hợp đồng, P, ông L đã được cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CQ 485609 vào ngày 14/02/2019, thửa
đất số 380, tbản đồ 33, diện tích 1.504m
2
, tọa lạc tại: Buôn P B, EY,
huyện KP. Kể từ thời điểm nhận chuyển nhượng đến nay, bà H, ông C muốn bàn
giao đất trên thực địa cho gia đình bà P thì không lí do tại sao mà người đang
quản đất vào thời điểm này là H T, ông Y G Niê lại cố tình chiếm giữ đất,
không chịu bàn giao đất. Sau đó, H T, ông Y G Niê liên tục làm thủ tục khởi
kiện bà H B Niê tại Tòa án và liên quan đến quyền sử dụng diện tích đất này,
nên cho đến nay, gia đình P vẫn chưa được sử dụng và quản diện tích đất
nói trên. Giá trị của tài sản nói trên tại thời điểm nhận chuyển nhượng
700.000.000 đồng. Do đó, yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn thì gia đình P
không đồng ý gia đình P nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất nói trên
đúng theo trình tự, quy định của pháp luật.
Đồng thời, bà P, ông L khởi kiện độc lập yêu cầu Tòa án giải quyết:
Tuyên buộc H T Ayũn, ông Y G Niê và ông Nguyễn n C, bà Nguyễn ThH
7
phải có trách nhiệmn giao tài sản là: Quyền s dụng đất số CQ 485609, thửa đất
số 380, tờ bn đồ 33, diện tích 1.504m
2
, tọa lạc tại: Bn P, xã EY, huyện KP, tỉnh
Đắk Lắk cho P, ông L trên thực tế để P, ông L tiến nh quản sử dụng
i sản nói trên theo quy định.
Về giá trị tài sản tranh chấp: P vẫn thống nhất theo kết quả định giá
ngày 28/7/2023 của Tòa án và không đề nghị Tòa án tiến hành định giá lại.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị H trình bày:
H chồng là ông Nguyn Văn C không mối quan hệ với bà H B Niê,
H T Ayũn, ông Y G N và vợ chồng ông Mạc Văn L Nguyn Thị Thanh P.
Sau khi được biết Tòa án thông báo về nội dung khởi kiện của bà H T Ayũn
H B Niê, H trình bày về nội dung giao dịch gia chúng gia đình H vợ
chồng H B N, ông Lê Kim U như sau:
Xuất phát từ nhu cầu của gia đình nên khi biết người muốn chuyển
nhượng quyền sử dụng đất tại buôn Pan, xã Ea Yông, huyện Krông Pắc, qua tìm
hiểu thì người quyền sử dụng đất trên H B Niê ông Kim U, xét
thấy quyền sử dụng đất này phù hợp với nhu cầu của gia đình nên gia đình H
đã tiến hành giao dịch. Vào tháng 12/2018 vợ chồng H đã hợp đồng nhận
chuyển nhượng quyền sử dụng đất diện tích 1.504m
2
, thuộc thửa đất số 380,
tờ bản đồ số 33. Khi kết hợp đồng thì quyền sdụng đất này đứng tên vợ
chồng H B Niê và ông Kim U, xét thấy diện tích đất cụ thể, giấy tờ pháp
lý rõ ràng, không có tranh chấp với ai nên các bên đã tiến hành giao dịch. Sau đó
diện tích đất này đã được cấp giấy chứng nhận cho vợ chồng bà H.
Đến tháng 01/2019 do gia đình H không còn nhu cầu sử dụng nữa nên
đã chuyển nhượng diện ch đất trên cho vợ chồng Nguyễn Thị Thanh P, ông
Mạc Văn L, hiện nay giao dịch này đã hoàn tất, giấy tờ pháp lý cũng đã được
chuyển sang tên cho P, ông L, hiện nay P, ông L cũng đã tiến hành các thủ
tục tách thửa đối với diện tích đất trên. vậy việc P cho rằng P, ông L
chưa được nhận đất trên thực tế là không đúng.
Đối với yêu cầu khởi kiện hủy hợp đồng tặng cho của bà H T Ayũn với bà
H B Niê ông Kim U thì H, ông C không liên quan, hiện nay vợ chồng
H, ông C cũng không còn quản lý đối với quyền sử dụng đất này nữa, tại thời
điểm nhận chuyển nhượng thì giấy tờ pháp của đất đang là của bà H B Niê sử
dụng lúc đó cũng không tranh chấp với ai. vậy đề nghị Tòa án giải
quyết vụ án theo quy định của pháp luật.
Người đại diện của người quyền lợi nghĩa vụ liên quan Sở tài
nguyên và môi trường tỉnh Đắk Lắk trình bày:
Trong đơn khởi kiện của nguyên đơn H T Ayũn yêu cầu, giải quyết:
“Tuyên bố Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất ngày 17/8/2011, công chứng
số 5724, quyển s01/2011 TP/CC-SCC/HĐGD của Phòng công chứng số 02
tỉnh Đắk Lắk giữa bên tặng cho H T Ayũn, ông Y G Niê và bên nhận tặng
cho bà H B Niê đối với Quyền sử dụng đất theo giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, quyền sở hữu nhà tài sản khác gắn liền trên đất số CQ 485609 do Sở L
8
nguyên Môi trường tỉnh Đắk Lắk cấp ngày 14/01/2019, thửa đất số 380, tờ
bản đồ số 33, tổng diện tích là 1.504m
2
, toạ lạc tại Buôn P, EY, huyện KP,
tỉnh Đắk Lắk là vô hiệu và giải quyết hậu quả đối với hợp đồng vô hiệu”.
Người quyền lợi nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thị Thanh P
ông Mạc Văn L có yêu cầu khởi kiện độc lập, tuyên buộc bà H T Ayũn, ông Y G
Niê ông Nguyễn Văn C, Nguyễn Thị H phải trách nhiệm bàn giao tài
sản là: Quyền sử dụng đất số CQ 485609, thửa đất s380, tờ bản đồ 33, diện
tích 1504m
2
, tọa lạc tại: Buôn P, EY, huyện KP, tỉnh Đắk Lắk cho ông
trên thực tế đông tiến hành quản sử dụng tài sản nói trên theo quy
định.
Đối với các yêu cầu khởi kiện trên Chi nhánh văn phòng đăng đất đai
có ý kiến như sau:
Đối với yêu cầu tuyên bố Hợp đồng tặng cho quyền sdụng đất ngày
17/8/2011, công chứng số 5724, quyển số 01/2011 TP/CC-SCC/HĐGD của
Phòng công chứng số 02 tỉnh Đắk Lắk giữa bên tặng cho bà H T Ayũn, ông Y G
Niê n nhận tặng cho bà H B Niê đối với Quyền sử dụng đất theo giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền trên
đất số CQ 485609 do Sở L nguyên Môi trường tỉnh Đắk Lắk cấp ngày
14/01/2019, thửa đất số 380, tờ bản đồ số 33, tổng diện tích 1.504m
2
cấp cho
bà Nguyễn Thị Thanh P và ông Mạc Văn L:
Căn cứ vào Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất ngày 17/8/2011, công
chứng số 5724, quyển số 01/2011 TP/CC-SCC/HĐGD của Phòng công chứng
số 02 tỉnh Đắk Lắk giữa bên tặng cho H T Ayũn, ông Y G Niê bên nhận
tặng cho H B Niê về việc H T Ayũn tặng cho H B quyền sử dụng đất
theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số D 0406952 do UBND huyện Krông
Pắc cấp ngày 14/02/1998. Xét thấy hợp đồng tặng cho đã được công chứng đầy
đủ, đúng quy định của pháp luật, vậy đến ngày 18/10/2011 Uban nhân dân
huyện Krông Pắc đã cấp đổi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa đất số
380, tờ bản đồ số 33 cho H B Niê theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
số BE 862811 (đã thay đổi người sử dụng đất là H B Niê Kim U). Ngày
25/7/2018 Chi nhánh văn phòng đăng đất đai huyện KP đã chỉnh biến
động về sử dụng đất với nội dung: Chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho
Nguyễn Thị H.
Ngày 18/01/2019 Chi nhánh văn phòng đăng đất đai huyện KP nhận
được đơn đăng biến động đất đai, tài sản gắn liền với đất của Nguyễn Thị
H ông Nguyễn Văn C đối với thửa đất số 380, tờ bản đsố 33, diện tích
1504m
2
, lý do biến động là chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông Mạc Văn
L Nguyễn Thị Thanh P. Xét thấy hồ thủ tục đã được công chứng đầy
đủ, đúng theo quy định của pháp luật nên Chi nhánh văn phòng đăng đất đai
huyện KP đã thực hiện thủ tục đăng biến động, đổi tên người sử dụng thửa
đất ông Mạc Văn L Nguyễn Thị Thanh P. Đến ngày 14/02/2019 ông Mạc
Văn L Nguyễn Thị Thanh P đã được Sở tài nguyên môi trường tỉnh
9
Đắk Lắk cấp chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác
gắn liền với đất số CQ 485609.
Toàn bộ hồ sơ, thủ tục biến động vviệc sử dụng đất từ Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số D 0406952 ngày 14/02/1998, đến số BE 862811 ngày
18/10/2011 và sCQ 485609 ngày 14/02/2019 đã được Chi nhánh văn phòng
đăng đất đai huyện KP thực hiện đầy đủ, đúng theo quy định của pháp luật.
Việc tranh chấp của các đương sự đề nghị Toà án căn cứ vào các quy định của
pháp luật để giải quyết.
Đối với việc người quyền lợi nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thị
Thanh P ông Mạc Văn L yêu cầu khởi kiện độc lập, tuyên buộc H T
Ayũn, ông Y G N ông Nguyễn Văn C, Nguyễn Thị H phải trách
nhiệm bàn giao tài sản là: Quyền sử dụng đất số CQ 485609, thửa đất số 380, tờ
bản đồ 33, diện tích 1.504m
2
, đây tranh chấp giữ các bên trong quá trình bàn
giao, quản quyền sdụng đất đã chuyển nhượng cho nhau, Chi nhánh văn
phòng đăng đất đai huyện KP không ý kiến gì, đnghị Toà án giải quyết
theo quy định của pháp luật.
Tại công văn số 08/CV-VPCCTN ngày 24/5/2024 người đại diện của
người quyền lợi nghĩa vụ liên quan Văn phòng công chứng TN trình
bày:
Ngày 12/5/2023 Văn phòng Công chứng TN nhận được Thông báo số
(4a/TBTL-VA ngày 10/5/2023 về việc thụ vụ án (Đối với yêu cầu khởi kiện
độc lập) của Tòa án nhân dân huyện Krông Pắc, tỉnh Dăk Lăk giữa nguyên đơn
H T Ayũn ông Y G Niê, dịa chỉ: Buôn P, EY, huyện KP, tỉnh Đăk
Lăk và bị đơn H B Niê và ông Kim U, địa chỉ: Buôn P, EY, huyện
KP, tỉnh Dăk Lăk. Văn phòng Công chứng TN với tư cách là người có quyền lợi
và nghĩa vụ liên quan trọng vụ án dân sự.
Sau khi nhận được Thông báo số 04a/TBTL-VA của Tòa án nhân dân
huyện Krông Pắc, tỉnh Dăk Lăk thông báo đã thụ vụ án dân sự số
04/2023/TLST-DS về việc: “Tranh chấp hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất”,
Văn phòng công chứng TN đã soát, kiểm tra lại toàn bộ hồ lưu trữ tại văn
phòng nhận thấy rằng: Việc Văn phòng Công chứng TN đã thực hiện việc
giao dịch hợp đồng nêu trên là hoàn toàn dúng theo quy định của pháp luật. Văn
phòng Công chứng TN từ chối tham gia với cách người quyền lợi
nghĩa vụ liên quan.
Vậy, Văn phòng công chứng TN ý kiến của mình đến Tòa án nhân dân
huyện Krông Pắc, tỉnh Đăk Lăk để giải quyết vụ việc theo quy định của pháp
luật.
Người đại diện của người quyền lợi nghĩa vụ liên quan Phòng
công chứng số 2 tỉnh Đắk Lắk trình bày:
Phòng công chứng số 2 nhận được thông báo về việc thụ vụ án số
04/2023/TBTL-VA ngày 03/01/2023 của Tòa án nhân dân huyện Krông Pắc
10
giữa nguyên đơn H T Ayũn bị đơn H B Niê, ông Kim U, địa chỉ
Buôn P, EY, huyện KP,tỉnh Đắk Lắk đối với Văn bản công chứng ngày
17/8/2011 của Phòng công chứng số 2, tỉnh Đắk Lắk giữa bên tặng cho là ông Y
G Niê, bà H T Ayũn, bên nhận tặng cho là bà H B Niê.
Qua kiểm tra, đối chiếu, rà soát nội dung thông báo về việc thụ lý vụ án số
04/2023/TBTL-VA ngày 03/01/2023 Hợp đồng tặng cho ngày 17/8/2011tại
hồ lưu trữ văn bản công chứng. Đồng thời, Phòng công chứng số 2 đã làm
việc trực tiếp với công chứng viên Nguyễn Ngọc K, là người chứng nhận hợp
đồng tặng cho ngày 17/8/2011 (hiện tại công chứng viên Nguyễn Ngọc K đã
thôi việc theo chế độ nên không còn thuộc biên chế của Phòng công chứng số 2).
Phòng công chứng số 2 ý kiến như sau: Ngày 17/8/2011 Phòng Công
chứng số 2 chứng nhận hợp đồng tặng cho giữa bên tặng cho là ông Y G Niê,
bà H T Ayũn, bên nhận tặng cho là bà H B Niê.
Về thủ tục công chứng: Nội dung, hình thức, mục đích của hợp đồng tặng
cho ngày 17/8/2011 đã được công chứng đúng theo quy định Luật công chứng
hiện hành, không vi Phạm pháp luật, không trái đạo đức hội; tại thời điềm
công chứng các bên giao kết mặt, cung cập đầy đủ các giấy tờ liên quan đến
việc tặng cho, đã đồng ý toàn bộ nội dung trong hợp đồng và ký Hợp đồng trước
mặt công chứng viên. C vậy, Hợp đồng tặng cho ngày 17/8/2011 được công
chứng đúng theo quy định pháp luật. Vậy, Phòng công chứng số 2 không đồng ý
với u cầu tuyên bố vô hiệu Hợp đồng tặng cho ngày 17/8/2011.
Tại Bản án n sự sơ thẩm số 37/2024/DS-ST ngày 11/9/2024 của Tòa án
nhân dân huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk đã quyết định:
Áp dụng khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều
39, Điều 157, Điều 165, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 271,
Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
- Áp dụng Điều 121, Điều 122, Điều 124, Điều 465, Điều 467, Điều
722 Bộ luật dân sự năm 2005;
- Áp dụng Điều 106 Luật đất đai năm 2003 (sửa đổi, bổ sung năm 2009 -
2010).
- Áp dụng Điều 116, Điều 117, Điều 119, Điều 500, Điều 501, Điều 502,
Điều 503 Bộ luật dân sự năm 2015;
- Áp dụng Điều 166, Điều 167, 188 Luật đất đai năm 2013;
- Áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12, Điều 26 Nghị quyết s
326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ
Quốc Hội.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn H T Ayũn;
- Tuyên bố: Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất ngày 17/8/2011, công
chứng số 5724, quyển số 01/2011 TP/CC-SCC/HĐGD của Phòng công chứng
11
số 02 tỉnh Đắk Lắk giữa bên tặng cho H T Ayũn, ông Y G Niê với bên nhận
tặng cho H B Niê đối với thửa đất số 380, tờ bản đồ số 33, diện tích 1.504m
2
theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số D 0406952 do UBND huyện Krông
Pắc cấp ngày 14/02/1998 bị vô hiệu.
- Buc H B Niê ông Kim U phải thanh toán cho H T Ayũn,
ông Y G Niê stiền là 1.084.518.200 đồng (Một tỷ, không trăm tám mươi bốn
triệu, năm trăm mười tám nghìn, hai trăm đồng).
Kể từ ngày đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho
đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án
còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất
quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.
2. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện độc lập của người quyền lợi và nghĩa
vụ liên quan ông Mạc Văn L và bà Nguyễn Thị Thanh P.
Buộc ông Nguyễn Văn C Nguyễn Thị H, ông Y G Niê H T
Ayũn phải bàn giao thửa đất số 380, tờ bản đồ 33, diện tích 1.504m
2
(theo đo
đạc thực tế 1477,7m
2
) được Sở tài nguyên môi trường tỉnh Đắk Lắk cấp giấy
chứng nhận quyền sdụng đất, quyền shữu nhà tài sản khác gắn liền với
đất số CQ 485609 ngày 14/02/2019 cho ông Mạc Văn L Nguyễn Thị
Thanh P. giao toàn bộ tài sản trên đất gồm: 85 cây sầu riêng vối trồng năm
2016; 07 cây sầu riêng Dona ghép trồng năm 2016; 02 cây mít thái ghép trồng
năm 2018; 01 cây hồng xiêm trồng năm 2018; 01 cây dừa xiêm trồng năm 2018;
01 cây dừa thường; 01 giếng nước đào đường kính 1,5m, sâu 24m, nắp đậy
và thành giếng xây; 01 phần căn nhà gỗ, mái lợp tôn, nền xi măng, vách gỗ diện
tích 54,3m
2
, tứ cận: phía Bắc, phía Nam, phía đông thuộc thửa đất số 380, tờ
bản đồ số 33 các cạnh dài lần lượt là 3,68m + 5,37m + 12m, phía Tây giáp đất
ông Y Khăn Ayũn cạnh dài 12,12m.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn gii quyết về chi phí tố tụng, về án phí
quyn kháng cáo cho các đương sự theo quy định của pháp luật.
Ny 26/9/2024, bà H B Niê kháng cáo Bn án thẩm s 37/2024/DS-ST
ngày 13/5/2024 của Tòa án nhân dân huyện Kông Pắc, tỉnh Đk Lk vi ni dung:
Đề nghị cấp phúc thẩm bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Ngày 26/9/2024, ông Nguyễn Thanh T đại diện theo ủy quyền của nguyên
đơn kháng o mt phần Bản án sơ thẩm số 37/2024/DS-ST ngày 13/5/2024 của
Tòa án nhân dân huyện Kông Pắc, tỉnh Đk Lk với nội dung: Đề nghị cấp phúc
thẩm bác toàn b yêu cầu độc lp ca Nguyn ThThanh P ông Mạc n L.
Tại phiên tòa đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn giữ nguyên nội dung
đơn khởi kiện, người quyền lợi nghĩa vliên quan yêu cầu độc lập giữ
nguyên yêu cầu, người kháng cáo giữ nguyên nội dung đơn kháng cáo.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho H B Niê luật Đặng
Ngọc H trình bày:
12
Vchồng H T làm thủ tục chuyển quyền sử dụng hai thửa đất cho
v chồng H B để nhờ vợ chồng H B đứng ra vay tiền. H T cam kết
trong thời hạn một năm từ khi nhận tiền nếu không thanh toán được nợ thì sẽ
đồng ý giao hai thửa đất cho vchồng H B. Do không khả năng thanh
toán nên vợ chồng bà H T đã tự nguyện bàn giao hai thửa đất cho vợ chồng bà H
B theo như các tài liệu bị đơn đã cung cấp tại cấp phúc thẩm. Giá trị thời điểm
chuyển nhượng hai thửa đất tương đương với số tiền vay. Như vậy, đây hợp
đồng điều kiện chứ không phải che giấu một giao dịch dân sự khác. Cấp
thẩm cho rằng hình thức của hợp đồng không đảm bảo do không giáp lai
các trang. Tôi xác định hợp đồng vi phạm về hình thức do lỗi của công chứng
viên không phải lỗi của gia đình H B, ông T cho rằng bị đơn lừa nguyên đơn
hợp đồng thế chấp sau đó ghép trang lời chứng đóng dấu giáp lai thành hợp
đồng tặng cho quyền sử dụng đất chỉ là là suy diễn, không cung cấp được i liệu
chứng cứ chứng minh. Do đó, bản án thẩm tuyên hợp đồng tặng cho hiệu,
buộc vợ chồng H B thanh toán lại ½ giá trị tài sản cho H T không
sở. Đề nghị cấp phúc thẩm bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Tại phiên tòa, đại din Vin kim sát nhân n tnh Đắk Lắk phát biểu quan
đim về v án:
Về tố tụng: Trong quá trình thụ lý giải quyết vụ án Thẩm phán, Hội đng t
x, T ký, c đương sự đã chp hành đúng quy đnh ca Bluật ttụng dân sự.
Về nội dung: Tòa án cấp thẩm chưa tiến hành xác minh, thu thập đầy
đủ chứng cứ để giải quyết vụ án làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của
đương sự. Đề nghị HĐXX căn cứ khoản 3 Điều 308, Điều 310 Bộ luật tố tụng
dân sự năm 2015 hủy bản án dân sự thẩm số 37/2024/DS-ST ngày 11/9/2024
của Tòa án nhân dân huyện Kông Pắc, tỉnh Đk Lk.
NHẬN ĐỊNH CA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các i liệu có trong hồ sơ v án đã đưc thẩm tra tại phn a,
căn cứ o kết qutranh luận tại phiên a trên sở xem t đầy đ c i liệu
chng cứ, li trình bày củac đương s, ý kiến của Kimt vn, Hi đồng xét xử
nhn định:
[1] Về th tục t tụng: Đơn khángo của ông Nguyn Thanh T, H B N
trong hn lut định, đã nộp tạmng án phí dân s pc thẩm là hợp l nên đưc xem
xét theo trình t phúc thẩm.
[2]t nội dung kháng cáo ca ông Nguyn Thanh T, bà H B N, Hi đng
xét xthấy rng:
[2.1] Quá trình giải quyết vụ án H T cho rằng nhờ H B làm thủ
tục vay 180.000.000 đồng, bà H B yêu cầu bà H T hợp đồng thế chấp cho
H B Niê thửa đất số 380, tờ bản đồ số 22 thửa đất số 411 tờ bản đồ số 15, do
13
tin tưởng nên H T hợp đồng. H T đã nhận 180.000.000 đồng từ
H B, lãi suất thỏa thuận miệng 2,25%/tháng, thời hạn vay 5 năm. Sau này
H T mới biết H B lừa dối bà H T hợp đồng tặng cho hai thửa đất trên cho
H B chứ không phải hợp đồng thế chấp. H B cho rằng do vợ chồng H
T nợ bà H B một khoản tiền nhưng không trả được nên thỏa thuận chuyển
nhượng thửa đất số 380, tờ bản đồ số 22 thửa đất số 411 tờ bản đồ số 15 cho
H B với g180.000.000 đồng, đồng thời thoả thuận trong thời hạn 01 năm
gia đình H T trả lại số tiền đã nhận của H B tH B chuyển lại
quyền sử dụng đất cho H T cho H B. Tuy nhiên, các bên thống nhất lập
hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất để tránh phải chịu các khoản thuế. Tuy
nhiên, các bên đương sự đều không đưa ra được chứng cứ chứng minh.
Quá trình tham gia tố tụng tại cấp thẩm bđơn chỉ cung cấp giấy cam
kết đề ngày 18/01/2012 với nội dung “Ông Kim U mua của vợ chồng ông
Y G Niê và bà H T Ayũn thửa đất diện tích 5100m
2
thửa đất diện tích 1504m
2
với giá 180.000.000 đồng. Đến ngày 16/01/2013, nếu vợ chồng ông Y G Niê
H T Ayũn trả lại cho ông Kim U 180.000.000 đồng lãi suất 2,25% thì
ông U sẽ hoàn lại tài sản trên cho vợ chồng H T Niê” nhưng không chữ
ký xác nhận của nguyên đơn.
Tại cấp phúc thẩm bị đơn ông Kim U cung cấp tài liệu chứng cứ mới
giấy biên nhận xác nhận của ban tự quản thôn và giấy thỏa thuận ngày
20/06/2013 thể hiện nội dung vợ chồng H T sang tên cho vợ chồng H B
hai thửa đất để H B đứng ra vay vốn ngân hàng, H T đã nhận 180.000.000
đồng từ vợ chồng H B vào ngày 17/01/2012 và cam kết đến ngày 16/01/2013
sẽ hoàn trả khoản vay, nếu sai hẹn sẽ đồng ý giao tài sản cho vợ chồng H B để
phát mãi trả ngân hàng. Đến ngày 20/6/2013 các bên viết giấy thỏa thuận thể
hiện gia đình H T không đủ điều kiện thanh toán cho ngân hàng nên tự
nguyện bàn giao i sản. Tại phiên tòa phúc thẩm nguyên đơn không mặt, đại
diện theo ủy quyền của nguyên đơn không xác định được chữ chữ viết trong
các tài liệu có phải do nguyên đơn viết và ký ra không.
Xét thấy, đây tài liệu chứng cứ mới chưa được xem xét cấp thẩm
nên cần cần hủy bản án thẩm chuyển vụ án về cấp thẩm để tiến hành điều
tra, đối chất và giám định chữ ký chữ viết trong trường hợp cần thiết để xác định
có hay không việc thỏa thuận chuyển giao quyền sử dụng đất giữa các bên, từ đó
mới làm căn cứ để đánh giá tính hợp pháp của hợp đồng tặng cho quyền sử dụng
đất, giải quyết hậu quả của hợp đồng xem xét yêu cầu độc lập của người
quyền lợi nghĩa vụ liên quan.
[2.2] Hợp đồng tặng cho quyền sdụng đất ngày 17/8/2011 thể hiện vợ
chồng H T tặng cho vợ chồng ông U thửa đất 380, thửa đất 411 nhưng
trong vụ án đương sự chỉ yêu cầu tuyên bố hiệu đối với thửa 380 nên cấp
thẩm tách ra giải quyết bằng một v án khác khi có yêu cầu đối với số tiền
180.000.000 đồng. Tại cấp phúc thẩm nguyên đơn cung cấp thông báo thụ lý số
369/2024/TLST-DS ngày 06/12/2024 thể hiện Tòa án nhân dân huyện Krông
Pắc đang thụ lý giải quyết đối với yêu cầu khởi kiện của ông Y G Niê và bà H T
14
Ayũn về việc tuyên bố hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất đối với thửa đất số
411, tờ bản đồ số 15 hiệu nên cần nhập hai vụ án để giải quyết triệt để, toàn
diện vụ án đối với khoản tiền 180.000.000 đồng bị đơn đã giao cho nguyên đơn.
Từ những phân tích, nhận định nêu trên xét thấy đơn kháng cáo của H
B Niê ông Nguyễn Thanh T sở nên cần chấp nhận đơn kháng cáo -
hủy toàn bộ Bản án sơ thẩm s37/2024/DS-ST ngày 11/9/2024 của Tòa án nhân
dân huyện Kông Pắc, tnh Đk Lk, giao hồ vụ án cho Toà án cấpthẩm giải
quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm.
[3] Về án phí sơ thẩm và chi phí tố tụng: Sẽ được xác định khi vụ án được
giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm.
[4] Về án p dân sự phúc thm: Do đơn kháng cáo được chấp nhận nên
H B Niê, bà H T Nkhông phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.
Hoản trả cho H B Niê 300.000 đồng tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm
đã nộp theo biên lai số AA/2023/0006058 ngày 03/10/2024 (ông Kim U nộp
thay) tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện KP, tỉnh Đắk Lắk.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 3 Điều 308, Điều 310 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
[1] Chấp nhận kháng cáo của ông Nguyễn Thanh T bà H B Niê - Hủy
Bản án thẩm số 37/2024/DS-ST ngày 11/9/2024 của Tòa án nhân dân huyện
Kông Pắc, tnh Đk Lk, chuyển hồ vụ án cho Toà án cấp thẩm giải quyết
lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm.
[2] Về án phí sơ thẩm và chi phí tố tụng: Sẽ được xác định khi vụ án được
giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm.
[3] Về án p dân sự phúc thm: Do đơn kháng cáo được chấp nhận nên
H B Niê, bà H T Niê không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.
Hoản trả cho H B Niê 300.000 đồng tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm
đã nộp theo biên lai số AA/2023/0006058 ngày 03/10/2024 (ông Kim U nộp
thay) tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện KP, tỉnh Đắk Lắk.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận: TM.HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
- VKSND tỉnh Đắk Lắk; Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà
- TAND huyện Kông Pắc; (Đã ký)
- Chi cục THADS huyện KP;
- Đương sự;
- Lưu hồ sơ.
Nguyễn Đình Triết
15
Tải về
Bản án số 19/2025/DS=PT Bản án số 19/2025/DS=PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 19/2025/DS=PT Bản án số 19/2025/DS=PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất