Bản án số 18/2025/HC-PT ngày 07/01/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 18/2025/HC-PT

Tên Bản án: Bản án số 18/2025/HC-PT ngày 07/01/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM
Quan hệ pháp luật:
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND cấp cao tại TP.HCM
Số hiệu: 18/2025/HC-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 07/01/2025
Lĩnh vực: Hành chính
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án: Sửa Bản án hành chính sơ thẩm
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Bản án số: 18/2025/HC-PT
Ngày 07 tháng 01 năm 2025
V/v: “Khiếu kiện quyết định hành
chính và hành vi hành chính trong
lĩnh vực quản lý đất đai về cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:
Các Thẩm phán:
Bà Đinh Ngọc Thu Hương
Ông Đặng Văn Ý
Ông Ngô Mạnh Cường
- Thư phiên tòa: Nguyễn Thị Châu Loan - Thư Tòa án nhân dân
cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
tham gia phiên toà: Ông Đặng Quốc Hoàng - Kiểm sát viên.
Ngày 07 tháng 01 năm 2025 tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành
phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ số: 773/2024/TLPT-
HC ngày 04 tháng 10 năm 2024 về “Khiếu kiện quyết định hành chính hành vi
hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất”.
Do Bản án hành chính thẩm số 76/2024/HC-ST ngày 26 tháng 3 năm 2024
của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh bị kháng cáo, kháng nghị.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 3250/2024/QĐ-PT ngày
25 tháng 11 năm 2024; Quyết định hoãn phiên toà số: 896/2024/QĐH-PT ngày
10 tháng 12 năm 2024 Quyết định đưa v án ra xét xử phúc thẩm số:
3618/2024/QĐ-PT ngày 23 tháng 12 năm 2024 giữa các đương sự:
- Người khởi kiện:
1. Ông Trần Anh D, sinh năm 1966 (có mặt);
2. Bà Huỳnh Thị C, sinh năm 1970 (vắng mặt);
Cùng địa chỉ: Số B ấp H, xã L, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh;
2
Người đại diện theo hợp pháp của người khởi kiện:
+ Ông Nguyễn Minh H, sinh năm 1970 (có mặt);
+ Bà Nguyễn Thị Thúy T, sinh năm 1974 (có mặt);
Cùng địa chỉ liên lạc: CD6, Khu phố A, phường L, thành phố T, Thành phố
Hồ Chí Minh.
+ Ông Lê Hữu C1, sinh năm 1970 (có đơn xin xét xử vắng mặt);
Địa chỉ: Số A đường K, Khu phố A, phường L, thành phố T, Thành phố Hồ
Chí Minh.
(Theo Giấy ủy quyền số công chứng 001087, quyển sổ 01/2022TP/CC-
SCC/GUQ ngày 30/3/2022 tại Văn phòng C2)
- Người bị kiện: Ủy ban nhân dân huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh;
Địa chỉ: Đường L, khu phố G, thị trấn C, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh;
Người đại diện hợp pháp của người bị kiện: Ông Hữu T1 - Chức vụ: P
Chủ tịch (có đơn xin xét xử vắng mặt);
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kiện: Nguyễn Thị
Linh P - Chức vụ: Phó Trưởng phòng Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện C
(theo Văn bản số: 8877/UBND ngày 08/12/2024 - có mặt).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chủ tịch Ủy ban nn dân huyện
C, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt);
Người đại diện hợp pháp của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện C: Ông
Hữu T1 - Chức vụ: Phó Chủ tịch (có đơn xin xét xử vắng mặt);
Địa chỉ: Đường L, khu phố G, thị trấn C, huyện C, Thành phố HChí Minh.
- Người kháng cáo: Người bị kiệnỦy ban nhân dân huyện C.
- Kháng nghị: Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo bản án sơ thẩm, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Theo Đơn khởi kiện ngày 28/4/2022, Đơn khởi kiện bổ sung ngày 16/6/2022,
Bản tkhai, Biên bản đối thoại trong quá trình giải quyết vụ án, người khởi
kiện ông Trần Anh D bà Huỳnh Thị C Nguyễn Thị Thúy T ông
Nguyễn Minh H trình bày có nội dung như sau:
Người khởi kiện yêu cầu Tòa án tuyên hủy:
- Văn bản số 2877/UBND ngày 11/6/2021 (gọi tắt là: Văn bản số 2877) của
Ủy ban nhân dân huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh vviệc trả hồ cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà tài sản khác gắn liền với
3
đất.
- Buộc Ủy ban nhân dân huyện C thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định
về giải quyết việc nhận lại hồ xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà tài sản khác gắn liền với đất đối với diện tích 419,4m
2
thuộc thửa đất số 486, 487 tờ bản đồ số 50 (BĐĐC năm 2005) L, huyện C,
Thành phố Hồ Chí Minh.
Với các lý do sau:
Gia đình ông D, C sdụng phần diện tích 419,4m
2
(thuộc thửa đất số 486,
487, tờ bản đồ s50 (BĐĐC lập năm 2005) để trồng rau, chăn nuôi gia cầm
nguồn gốc từ ông Lê Văn X cho một phần và một phần do gia đình khai hoang từ
năm 1997.
Năm 1999, gia đình ông D cất 01 (một) căn nhà trên phần đất này sử dụng
ổn định, không có tranh chấp từ đó đến nay.
Khi làm hồ xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà
ở và tài sản khác gắn liền với đất thì Ủy ban nhân dân huyện C ban hành Văn bản
số 2877/UBND ngày 11/6/2021 về việc từ chối trả lại hồ xin cấp giấy chứng
nhận với do phần diện tích đất không đủ điều kiện để cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, quyền shữu ntài sản khác gắn liền do hộ gia đình
ông D, bà C lấn chiếm đất năm 2003 và bị xử phạt vi phạm hành chính.
Năm 2003, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện C xử phạt vi phạm hành chính
với hình thức cảnh cáo hành vi lấn chiếm đất đối với ông Trần Anh D chồng
của C không đúng. Bởi lẽ, nhà đất do ông bà tự tạo dựng, khai hoang, không
lấn chiếm đất công. Các quyết định xử phạt vi phạm hành chính, ông D, C đã
biết nhưng không khởi kiện chỉ xây dựng nhà bị phạt cảnh cáo. Do đó, đề
nghị Tòa án chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông D và bà C.
Người bị kiện là Ủy ban nhân dân huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh có văn
bản đề nghị xét xử vắng mặt, tại Văn bản ý kiến số 5419/UBND ngày 09/9/2022
có bà Nguyễn Thị Linh P trình bày có những nội dung như sau:
Khu đất ông Trần Anh D, Huỳnh Thị C có đơn yêu cầu Ủy ban nhân dân
huyện C cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất gắn liền
với đất thuộc thửa đất số 486, 487, tờ bản đồ số 50 (BĐĐC năm 2005) diện tích
419,4 m
2
, tọa lạc tại xã L, huyện C.
Theo xác nhận của Ủy ban nhân dân L tại danh sách kết quả công khai
ngày 26/4/2002, nguồn gốc sử dụng đất: Đất công do Nhà nước quản năm 2003,
ông Trần Anh D lấn chiếm. Ủy ban nhân dân huyện C ban hành Quyết định số
556/QĐ-UB ngày 18/7/2003 vxử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai
Quyết định số 1400/QĐ-UB ngày 17/12/2003 về việc sửa đổi Quyết định số
556/QĐ-UB với hình thức phạt cảnh cáo.
4
Căn cứ khoản 2 Điều 19 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của
Chính phủ về các trường hợp không cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và
quyền sử dụng đất gắn liền với đất quy định: “Người đang quản lý, sử dụng đất
nông nghiệp thuộc quỹ đất công ích của xã, phường, thị trấn” nên Ủy ban nhân
dân huyện C đã có Văn bản số 2877/UBND ngày 11/6/2021 trả lời cho ông D, bà
C về việc khu đất không đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và
yêu cầu nhận lại hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận.
Người đại diện hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Chủ
tịch Ủy ban nhân dân huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh trình bày:
Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 556/QĐ-UB ngày 18/7/2003
Quyết định số 1400/-UB ngày 17/12/2003 về việc sửa đổi Quyết định s
556/QĐ-UB là đúng pháp luật và đã hết thời hiệu khởi kiện. Do đó, đề nghị Tòa
án bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện.
Tại Bản án hành chính thẩm số 76/2024/HC-ST ngày 26/3/2024 của
Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã tuyên xử:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện - ông Trần Anh D
Huỳnh Thị C về hủy Văn bản số 2877/UBND ngày 11/6/2021 của Ủy ban nhân
dân huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh.
Buộc Ủy ban nhân dân huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh thực hiện nhiệm
vụ, công vụ theo quy định pháp luật về giải quyết việc nhận lại hồ xin cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà tài sản khác gắn liền với
đất cho ông Trần Anh D Huỳnh Thị C theo quy định của pháp luật về đất
đai.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo theo quy
định pháp luật.
Ngày 09/4/2024, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí
Minh ban hành Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 2173/QĐ-VKS-HC đề nghị
sửa bản án thẩm theo hướng không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của người
khởi kiện.
Ngày 19/7/2024, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh nhận được đơn
kháng cáo của người b kin là Ủy ban nhân dân huyện C kháng cáo toàn bộ bản
án sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm,
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh vẫn
giữ nguyên Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 2173/QĐ-VKS-HC ngày
09/4/2024; người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho Ủy ban nhân dân huyện
5
C, Thành phố Hồ Chí Minh vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo. Người khởi kiện
vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho Ủy ban nhân dân huyện C,
Thành phố Hồ Chí Minh trình bày: Đề nghị sửa bản án sơ thẩm vì phần diện tích
đất nguồn gốc đất công, do UBND L đăng quyết định xử phạt
vi phạm hành chính.
Nguyễn Thị Thúy T ông Nguyễn Minh H thống nhất ý kiến trình bày:
Theo tài liệu bản đồ 2006, thửa cũ 57, thửa cũ 58 và thửa cũ 59 thì không có các
thửa đất công, đất thuộc quỹ đất công ích của xã quy hoạch công trình công
cộng. Theo Bản đồ trích đo được đo vẽ ngày 17/7/2006 ngày 04/8/2006, Trung
tâm Dịch vụ Hành chính nhà đất huyện C xác nhận ngày 14/8/2007 diện tích 419,8
m
2
, tại thửa đất số 59-1, 59-2; tờ bản đồ số 50, L không thể hiện phần đất do
Nhà nước quản lý. Thửa đất tranh chấp không đúng bản đồ địa chính giáp ranh.
Người bảo vquyền, lợi ích hợp pháp của UBND huyện C cho rằng thửa 99, thửa
100 đã cấp giấy chứng nhận quyền sdụng đất cho ông Văn X. Thửa 98 do
UBND đăng ký. Nhưng Ủy ban nhân dân huyện C Văn bản số 1234/UBND
xác định: Theo tài liệu bản đồ Chỉ thị 02/CT-UB (tỉ lệ 1/2000) ngày 18/01/1992
của Ủy ban nhân dân Thành phố H thì vị trí khu đất ông D, bà C thuộc một phần
thửa số 58, tờ bản đồ số 1, mục đích sử dụng thổ tập trung (TTT); phần diện tích
đất thuộc các thửa đất số 486, 487, tờ bản đồ số 50 của ông D và bà C chưa được
phê duyệt diện tích đất do Nhà nước trực tiếp quản lý. Theo kế hoạch sử dụng đất
năm 2030, khu đất nêu trên thuộc nhóm đất tại đô thị; đất hạ tầng cấp quốc gia,
cấp tỉnh, cấp xã; đất thương mại dịch vụ. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử chấp
nhận yêu cầu của người khởi kiện, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho Ủy ban nhân dân huyện C,
Thành phố Hồ Chí Minh trình bày: Theo tài liệu 299 thì phần diện tích đất tranh
chấp do UBND đăng ký. Năm 2003 đã Quyết định số 1400/QĐ-UB ngày
17/12/2003 về xphạt cảnh cáo do lấn chiếm đất công. Tài liệu của người khởi
kiện trình bày tài liệu của thành phố nhưng theo quy định của pháp luật thì phải
căn cứ tài liệu 299. Sau này, khi bị thu hồi đất thì ông D và bà C sđược xem xét
bồi thường. Còn UBND huyện C không cấp giấy chứng nhận được vì nguồn gốc
sử dụng đất liên quan đến đất công. UBND huyện C đã xphạt UBND L
đã đăng đất do Nnước quản lý. Quy hoạch đất từ năm 2021-2030 khu đất
thuộc nhóm đất tại đô thị; đất hạ tầng cấp quốc gia, cấp tỉnh, cấp xã; đất thương
mại dịch vụ.
Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc
tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án ở giai đoạn phúc thẩm:
6
V t tng: Thm phán - Ch ta phiên tòa và Hội đồng xét x đã thực hin
đúng theo quy định ca pháp luật; các đương sự tham gia t tng chp hành đúng
quyền và nghĩa vụ theo quy định ca Lut T tng hành chính.
V ni dung: Xét Quyết định kháng ngh phúc thm ca Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh kháng cáo của người b kin là y
ban nhân dân huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh:
Tính có căn cứ ca Quyết định kháng ngh phúc thm ca Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh kháng cáo của người b kin là y
ban nhân dân huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh đúng quy định pháp lut.
Ông D, bà C cho rằng phần đất sử dụng có nguồn gốc từ ông Lê Văn X cho
một phần một phần do gia đình khai hoang từ năm 1997. UBND huyện C không
cấp giấy là không đúng quy định pháp luật. Phần diện tích đất mà ông D, bà C sử
dụng là 419,4m
2
do UBND xã L đăng ký, nguồn gốc đất công do Nhà nước quản
lý. Năm 2003, ông D, C lấn chiếm đất công bị xử phạt. Quyết định số
1400/QĐ-UB ngày 17/12/2003 xử phạt cảnh cáo do lấn chiếm đất công. Quyết
định này không bị người khởi kiện khiếu nại, khởi kiện đã hiệu lực thi hành.
Tại phiên toà, người bảo vcủa người khởi kiện trình bày khi thu hồi đất, Nhà
nước sẽ hỗ trợ, bồi thường cho người đang sử dụng đất. Toà án cấp sơ thẩm căn
cứ biên lai nộp tiền thuế đất nhưng không thể hiện vị trí đất tranh chấp để làm cơ
sở buộc UBND huyện C cấp giấy chứng nhận là không đúng quy định pháp luật.
UBND huyện C trả lại hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông
D, bà C là đúng quy định pháp luật. Toà án cấp sơ thẩm cho rằng ông D và bà C
đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận không đúng. Do đó, đnghị Hội đồng xét xử
chấp nhận kháng cáo của UBND huyện C Quyết định kháng nghị của Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, sửa bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem
xét tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét
đầy đủ ý kiến của các bên đương sự quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân
dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về quan hệ pháp luật, thời hiệu khởi kiện:
Ngày 11/6/2021, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện C, Thành phố Hồ Chí
Minh ban hành Văn bản số 2877/UBND.
Ngày 18/5/2022, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh Giấy xác nhận
đã nhận đơn số 876/GXN-TA vviệc xác nhận đã nhận được đơn khởi kiện đề
ngày 28/4/2022 do tổ chức Dịch vụ Bưu chính chuyển đến ngày 04/5/2022.
Ngày 01/6/2022, Tòa án nhân dân thành phHồ Chí Minh có Thông báo sửa
đổi bổ sung đơn số 876/TB-TA.
7
Ngày 15/7/2022, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh lập biên bản giao
nhận Thông báo nộp tạm ứng án phí, lệ phí. Cùng ngày, ông D, C nộp tiền tạm
ứng án phí 300.000 đồng theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số:
AA/2021/0002349 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh do tổ
chức Dịch vụ Bưu chính chuyển phát nhanh trong nước và quốc tế chuyển đến
ngày 18/7/2022.
Theo quy định tại Điều 116; Điều 30 Điều 32 Luật Tố tụng hành chính,
thời hiệu khởi kiện vẫn còn và Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh thụ
và giải quyết là đúng thẩm quyền.
[2] Xét kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ
Chí Minh và kháng cáo của Ủy ban nhân dân huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh,
Hội đồng xét xử nhận thấy:
[2.1] Về nguồn gốc đất ông Trần Anh D Huỳnh Thị C xin giấy
chứng nhận. Tại Công văn số 5419/UBND ngày 09/9/2022 của Ủy ban nhân dân
huyện C đã có ý kiến:
“Theo xác nhận của Ủy ban nhân dân L khu đất trên nguồn gốc do
Nhà nước trực tiếp quản lý, ông D lấn chiếm năm 2003, Ủy ban nhân dân huyện
B Quyết định số 556/QĐ-UB ngày 30 tháng 7 năm 2003 về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực đất đai Quyết định số 1400/QĐ-UB ngày 17 tháng 12 năm
2003 của Ủy ban nhân dân huyện C về việc sửa đổi quyết định xử phạt vi phạm
hành chính.
Căn cứ khoản 2 Điều 19 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm
2014 của Chính phủ về các trường hợp không cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất quy định thì trường hợp
của ông D C thuộc đối tượng: “Người đang quản lý, sử dụng đất nông nghiệp
thuộc quỹ đất công ích của phường, xã, thị trấn”.
Hiện nay, Ủy ban nhân dân huyện C đang tổ chức rà soát cắm mốc các khu
đất do Nhà nước trực tiếp quản lý, trong đó thửa đất số 486, 487, tờ bản đồ số
50 (BĐĐC năm 2005), diện tích 419,4m
2
của ông D đang khởi kiện tại Tòa án
nhân dân Thành phố. ”
[2.2] Việc xử phạt vi phạm hành chính do ông Trần Anh D và bà Huỳnh Thị
C lấn chiếm đất công ng được phía ông Trần Anh D Huỳnh Thị C thừa
nhận không khiếu nại hay khiếu kiện (thể hiện tại Đơn khởi kiện ngày
28/4/2022, Bản tự khai ngày 07/8/2023, Biên bản đối thoại ngày 07/8/2023
thừa nhận tại phiên tòa). Đến thời điểm hiện tại, các quyết định xử phạt vi phạm
hành chính đã có hiệu lực thi hành.
Theo quy định tại Điều 19 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của
Chính phủ không thuộc trường hợp được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
8
quyền sở hữu nhà tài sản khác gắn liền với đất nguồn gốc đất trên đất
công.
[2.3] Ông Trần Anh D Huỳnh Thị C đóng thuế nhà nhưng trong
biên lai thu thuế mà ông Trần Anh D Huỳnh Thị C cung cấp không thể hiện
diện tích đất đóng thuế là phần diện tích đất ông Trần Anh D và bà Huỳnh Thị C
xin cấp giấy.
[3] Từ những phân tích nhận định nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm đã nhận
thức, đánh giá chứng cứ và xét xử không đúng pháp luật. Quyết định kháng ngh
ca Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh và kháng cáo
ca Ủy ban nhân dân huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh cơ sở. Do đó, Hội
đồng xét xử chấp nhận Quyết định kháng ngh ca Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh kháng cáo ca Ủy ban nhân dân huyện C,
Thành phố Hồ Chí Minh, sửa bản án thẩm như đại diện Viện kiểm sát nhân
dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đề nghị.
[4] Về án phí: Do sửa án nên Ủy ban nhân dân huyện C, Thành phố Hồ Chí
Minh không phải chịu án phí phúc thẩm.
Ông D, bà C phải chịu án phí hành chính sơ thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ các Điều 30; 32; 116; 193; khoản 2 Điều 241; Điều 348 và Điều 349
của Luật Tố tụng hành chính;
Căn cứ vào khoản 2, 3 Điều 3; khoản 1 Điều 30; khoản 4 Điều 32; Điều 55;
Điều 58; khoản 1 Điều 115; điểm a khoản 2 Điều 116; Điều 157; Điều 158; điểm
b khoản 2 Điều 193 Luật Tố tụng hành chính;
Căn cứ Luật Đất đai năm 2013;
Căn cứ Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ hướng
dẫn thi hành Luật Đất đai; Nghị định số 01/2017/NĐ-CP ngày 06/01/2017 của
Chính phủ;
Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án;
Chp nhn kháng ngh ca Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố
Hồ Chí Minh kháng cáo ca Ủy ban nhân dân huyện C, Thành phố Hồ Chí
Minh. Sửa Bản án hành chính thẩm số 76/2024/HC-ST ngày 26/3/2024 của
Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, cụ thể như sau:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của của người khởi kiện - ông Trần
Anh D Huỳnh Thị C về hủy Văn bản số 2877/UBND ngày 11/6/2021 của
9
Ủy ban nhân dân huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh và yêu cầu buộc Ủy ban nhân
dân huyện C thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định về giải quyết việc nhận
lại hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà và tài
sản khác gắn liền với đất đối với diện tích 419,4 m
2
thuộc thửa đất số 486, 487, tờ
bản đồ số 50 (BĐĐC năm 2005) xã L, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh.
2. Về án phí hành chính thẩm: Ông D C phải chịu án phí hành chính
thẩm 300.000 đồng nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp
300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng chẵn) ông Trần Anh D và bà Huỳnh Thị C đã
nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số: AA/2021/0002349 ngày
15 tháng 7 năm 2022 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh.
3. Về án phí hành chính phúc thẩm: Ủy ban nhân dân huyện C, Thành phố
Hồ Chí Minh không phải chịu. Hoàn lại cho Ủy ban nhân dân huyện C, Thành
phố Hồ Chí Minh số tiền tạm ứng án pđã nộp 300.000 đồng theo Biên lai thu
số 0041087 ngày 16/8/2024 của Cục Thi nh án dân sự Thành phố HChí Minh.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- Tòa án nhân dân tối cao;
- VKSNDCC tại TP. Hồ Chí Minh;
- TAND TP. Hồ Chí Minh;
- VKSND TP. Hồ Chí Minh;
- Cục THADS TP. Hồ Chí Minh;
- Đương sự;
- Lưu (Án - NTCL).
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký tên và đóng dấu)
Đinh Ngọc Thu Hương
Tải về
Bản án số 18/2025/HC-PT Bản án số 18/2025/HC-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 18/2025/HC-PT Bản án số 18/2025/HC-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất