Bản án số 166/2024/DS-ST ngày 19/09/2024 của TAND huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương về tranh chấp hợp đồng đặt cọc

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 166/2024/DS-ST

Tên Bản án: Bản án số 166/2024/DS-ST ngày 19/09/2024 của TAND huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương về tranh chấp hợp đồng đặt cọc
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng đặt cọc
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Dầu Tiếng (TAND tỉnh Bình Dương)
Số hiệu: 166/2024/DS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 19/09/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: CHẤP NHẬN YÊU CẦU KHỞI KIỆN CỦA NGUYÊN ĐƠN
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN DẦU TIẾNG
TỈNH BÌNH DƯƠNG
Bản án số: 166/2024/DS-ST
Ngày: 19 - 9 - 2024
V/v tranh chấp hợp đồng
góp vốn, tranh chấp hợp đồng
đặt cọc, tranh chấp hợp đồng vay
tài sản
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN DẦU TIẾNG, TỈNH BÌNH DƯƠNG
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Ngô Nguyễn Minh Sơn
Các Hội thẩm nhân dân:
1. Bà Lê Thị Phương Dung;
2. Ông Đinh Quang Minh.
- Thư phiên tòa: Nguyễn Th Thảo Thư Tòa án nhân dân
huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương
tham gia phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Thanh Bình Kiểm sát viên.
Ngày 19 tháng 9 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Dầu Tiếng,
tỉnh Bình Dương mở phiên tòa xét xử thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số:
448/2023/TLST-DS ngày 06 tháng 10 năm 2023 về việc “Tranh chấp hợp đồng
đặt cọc, tranh chấp hợp đồng góp vốn, tranh chấp hợp đồng vay tài sản”, theo
Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 141/2024/QĐXXST-DS ngày 30 tháng 8
năm 2024, giữa các đương
1. Nguyên đơn: Thị H, sinh năm 1996; địa chỉ: Số F, thị trấn V,
huyện Đ, tỉnh Bình Thuận.
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Bà Trần Thị Thanh T, sinh năm
1981 Trần Thị Thanh T1, sinh năm 1994; cùng địa chỉ: Số B, tB, khu B
đường C, phường P, thành phố T, tỉnh Bình Dương; người đại diện theo ủy
quyền, văn bản ủy quyền ngày 22/8/2023.
2. Bị đơn: Ông Mai Bá T2, sinh năm 1991; địa chỉ: Ấp R, xã Đ, huyện D,
tỉnh Bình Dương.
3. Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Phạm Văn T3, sinh năm
1986; địa chỉ: Ấp T, xã M, huyện D, tỉnh Bình Dương.
2
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn, bị đơn, người quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan có đơn xin giải quyết vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Trong quá trình tố tụng, yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, ý kiến
trình bày của đại diện nguyên đơn được tóm tắt như sau:
Thị H hàng xóm, đồng hương với vông Mai T2 tại huyện
Đ, tỉnh Bình Thuận. Do ông T2 thời gian sinh sống tại nhà vợ Bình Thuận
nên H ông T2 quen biết với nhau. Trong quá trình quen biết thì ông T2
và bà H có trao đổi với nhau về việc đầu tư kinh doanh bất động sản. Năm 2022,
bà H và ông T2 có tham gia các giao dịch cụ thể như sau:
Lần thứ nhất: Ngày 14/8/2022 ông T2 gọi điện thông báo cho H để rao
bán phần đất giá đầu tốt sẽ sinh lời. Sau khi thoả thuận thống nhất giá
bán, ngày 16/8/2022, H ông T2 hợp đồng đặt cọc phần đất diện tích
521m
2
thửa đất số 433, tờ bản đồ số 03 toạ lạc tại ấp T, M, huyện D, tỉnh
Bình Dương theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CU 832591 do Sở Tài
nguyên Môi trường tỉnh B cấp ngày 11/02/2020. Giá hai bên thoả thuận
1.500.000.000 đồng. Tại thời điểm ký hợp đồng đặt cọc bà H đã đặt cọc cho ông
Thông số tiền 350.000.000 đồng. H giao tiền mặt tại nhà ông T2. Hai bên
thoả thuận thời hạn 45 ngày đến ngày 30/9/2022 thì tiến hành công chứng,
chuyển nhượng tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền và đăng ký biến động sang
tên H. Đến ngày 30/9/2022 ông T2 cho rằng H chậm trễ ngày thanh toán
nên yêu H giấy chịu mất số tiền cọc để ông T2 chuyển nhượng cho người
khác. Sau đó, bà H tìm hiểu thì biết được ông T2 không phải chủ sở hữu thửa
đất 433 đã ký đặt cọc với bà H. Bà H nhiều lần yêu cầu ông T2 trả lại số tiền cọc
đã nhận nhưng ông T2 tranh né không thực hiện.
Lần thhai: Ngày 27/8/2022, ông T2 rủ H hùn vốn mua phần đất
diện tích 1220m
2
thuộc thửa đất số 53, tờ bản đồ số 06, toạ lạc tại ấp T, M,
huyện D, tỉnh Bình Dương, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H01089.
H đồng ý, ông T2 yêu cầu H chuyển khoản số tiền 200.000.000 đồng vào số
tài khoản của ông T2 tại Ngân hàng Thương Mại Cổ Phần S1 số 050093341888.
Sau đó, ông T2 đã dùng số tiền 200.000.000 đồng nêu trên để đặt cọc với ông
T3, sinh năm 1986, scăn cước công dân 074019334095, trú tại ấp T, M,
huyện D, tỉnh Bình Dương. Tổng số tiền ông T2 đặt cọc trong hợp đồng với ông
T3 600.000.000 đồng. Đến tháng 10/2022, không thấy ông T2 thực hiện thủ
tục sang tên thửa đất, H liên lạc thì ông T2 tránh né.
3
Ngoài ra, lợi dụng mối quan hệ quen biết hùn vốn làm ăn như trên,
ông T2 còn vay tiền của H nhiều lần, với tổng số tiền 272.000.000 đồng, cụ
thể như sau:
Ngày 10/9/2022, theo yêu cầu của ông T2, bà H đã chuyển khoản cho ông
Phạm Văn T3, số tài khoản 65210001441738, Ngân hàng Thương Mại Cổ Phần
Đ (B1) số tiền 200.000.000 đồng với nội dung “Anh Thông C”; H chuyển
đến tài khoản 050010018002, Ngân hàng Thương Mại Cổ Phần S1 (S2) - Kiều
Thị Yến T4 số tiền 64.000.000 đồng với nội dung “Anh Thông C”;H chuyển
đến tài khoản 050010018002, Ngân hàng Thương Mại Cổ Phần S1 (S2) - Kiều
Thị Yến T4 số tiền 4.000.000 đồng với nội dung “Anh Thông C
Ngày 11/9/2022, theo yêu cầu của ông T2, H đã chuyển khoản đến số
tài khoản 050093341888 Ngân hàng Thương Mại Cổ Phần S1 (S2), tên Mai
Bá Thông S tiền 4.000.000 đồng.
H đã nhiều lần yêu cầu ông T2 trả lại các khoản tiền đã nhận từ hợp
đồng đặt cọc, việc thoả thuận góp vốn việc vay tài sản. Nhưng ông T2 không
thực hiện và tìm cách tránh né nên H khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết các
vấn đề sau:
Tuyên bố Hợp đồng đặt cọc ngày 16/8/2022 giữa bà Hông T2 hiệu,
buộc ông T2 trả lại số tiền cọc đã nhận là 350.000.000 đồng; Buộc ông T2 trả lại
số tiền đã nhận góp vốn là 200.000.000 đồng; buộc ông T2 trả lại số tiền đã vay
272.000.000 đồng. Tổng số tiền H yêu cầu ông T2 phải trả 822.000.000
đồng.
* Quá trình tham gia tố tụng, ý kiến của bị đơn ông Mai T2 được
thể hiện như sau:
Ông T2 nhận được văn bản tố tụng do Tán tống đạt. Tuy nhiên do
ông T2 bận công việc nên không đến Tòa án được. Đối với yêu cầu khởi kiện
của H về việc tuyên hợp đồng đặt cọc ngày 16/8/2022 hiệu buộc ông
T2 trả lại số tiền 350.000.000 đồng tông Thông đồng Ý. Đối với yêu cầu của
H về việc buộc ông T2 trả lại stiền 472.000.000 đồng gồm tiền vay, tiền
góp vốn thì ông T2 không đồng ý. Vì ông T2 và H mối quan hệ làm ăn
chung, ông T2 có vay tiền bà H nhiều lần, nhưng ông T2 cũng có trả lại tiền cho
H. Tuy nhiên, ông T2 không xác định được ông T2 còn nợ H bao nhiêu
tiền nên ông T2 không đồng ý với yêu cầu của bà H.
* Lời khai của người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Phạm Văn
T3 trong quá trình tham gia tố tụng như sau:
Thời điểm năm 2022, ông T3 làm công việc môi giới bất động sản
tôi bán một số đất của nhân ông T3. Ông T3 không nhớ Thị H
hay ông Mai T2. Do thời điểm năm 2022, ông T3 tham gia nhiều giao
4
dịch mua bán bất động sản và cũng có nhiều người chuyển tiền vào số tài khoản
của ông T3, ông T3 không nhớ được việc giao dịch với ông T2, H như thế
nào nên không thể trình bày với Toà án được. Ông T3 chi xác định được stài
khoản 65210001441738 Ngân hàng B1 của ông T3. Ngoài ra, việc tranh
chấp giữa H và ông T2 không liên quan đến ông T3 nên ông T3 xin vắng
mặt, không tham gia vụ án.
* Lời khai của người làm chứng Kiều Thị Yến T4 trong quá trình
tố tụng như sau:
T4 không biết Thị H là ai. Trước đây T4 ông Mai T2
quen biết, ông T2 vay tiền của T4. Sau đó, ông T2 nhờ người khác
chuyển tiền trả nợ cho ông T2. Hiện ông T2 đã trả hết nợ, giữa T4 và ông T2
không còn quan hệ gì với nhau. Việc tranh chấp giữa bà H và ông T2 không liên
quan gì đến bà T4, nên bà T4 đề nghị không đưa T4 tham gia vụ án.
Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Dầu Tiếng ý
kiến:
Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân và Tphiên tòa
đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật. Tòa án đã tiến hành thu thập chứng cứ,
tống đạt các văn bản tố tụng đầy đủ, đúng trình tự thủ tục, người tham gia tố
tụng đúng thành phần. Phiên tòa được tiến hành đúng trình tự. Nguyên đơn, đại
diện nguyên đơn, người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã tuân thủ đúng quy
định của pháp luật. Đối với bị đơn được triệu tập đến lần thứ hai nhưng vắng
mặt không do những đương sự đơn xin giải quyết vắng mặt, đề nghị
Hội đồng xét xử căn cứ Điều 227, 228, 238 Bộ luật Tố tụng dân sự xét xvắng
mặt các đương sự đó. Không kiến nghị khắc phục, bổ sung các thủ tục tố tụng.
Quan h pháp lut tranh chấp hợp đồng đặt cọc, hợp đồng góp vốn và tranh chấp
hợp đồng vay tài sản.
Về nội dung vụ án: Các tài liệu, chứng cứ được Hội đồng xét xử làm rõ tại
phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Từ những tài liệu chứng cứ đã thu thập trong hồ được thẩm tra tại
phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Nguyên đơn khởi kiện bị đơn về việc tranh chấp hợp đồng
đặt cọc, hợp đồng góp vốn, hợp đồng vay tài sản. Bị đơn nơi trú tại ấp R,
xã Đ, huyện D, tỉnh Bình Dương nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa
án nhân dân huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương theo quy định tại các Điều 26,
35, 39 của Bộ luật tố tụng dân sự. Quan hệ pháp luật của vụ án “Tranh chấp
hợp đồng đặt cọc, tranh chấp hợp đồng góp vốn, tranh chấp hợp đồng vay tài
sản”.
5
Tại phiên tòa, người đại diện hợp pháp của nguyên đơn, bị đơn, người
quyền lợi nghĩa vụ liên quan xin vắng mặt. Căn cứ Điều 227, 228, 238 Bộ luật
Tố tụng Dân sự tiến hành xét xử vụ án vắng mặt nguyên đơn, bị đơn, người
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
[2] Về pháp luật áp dụng: Các bên đương sự thực hiện giao dịch đặt
cọc, góp vốn vay tài sản vào năm 2022 nên áp dụng quy định của Bộ luật D
sựm 2015 và các văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết để giải quyết.
[3] V ni dung tranh chấp: Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu tuyên bố Hợp
đồng đặt cọc ngày 16/8/2022 giữa nguyên đơn và bị đơn vô hiệu, buộc bị đơn trả
lại số tiền cọc đã nhận là 350.000.000 đồng; B bị đơn trả lại số tiền đã nhận góp
vốn là 200.000.000 đồng; buộc bị đơn trả lại số tiền đã vay là 272.000.000 đồng.
[3.1] Xét hợp đồng đặt cọc ngày 16/8/2022 giữa nguyên đơn và bị đơn
nhận thấy: Vào ngày 16/8/2022, nguyên đơn bị đơn thoả thuận với nhau việc
đặt cọc nhằm cam kết chuyển nhượng quyền sử dụng đất thuộc thửa đất số 433,
tờ bản đồ số 03 toạ lạc tại ấp T, M, huyện D, tỉnh Bình Dương theo giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số CU832591, số vào sổ cấp giấy chứng nhận số
CS0295. Phần đất diện tích 521m
2
, giá thoả thuận chuyển nhượng
1.500.000.000 đồng. Nguyên đơn đặt cọc cho bị đơn số tiền 350.000.000 đồng,
số tiền còn lại 1.150.000.000 đồng được thanh toán khi hai bên đến phòng công
chứng. Thời hạn thoả thuận thực hiện việc ký hợp đồng chuyển nhượng tối đa
ngày 30/9/2022.
Về chủ thể tham gia giao dịch: Nguyên đơn, bị đơn đều đầy đủ năng
lực hành vi dân sự năng lực pháp luật dân sự. Ngoài ra, nội dung cuối hợp
đồng thhiện nội dung các bên hiểu quyền, nghĩa vụ của mình đồng ý
tên và lăn tay. Như vậy, đủ sở kết luận việc giao kết hợp đồng đặt cọc giữa
nguyên đơn, bị đơn là hoàn toàn tự nguyện.
Tuy nhiên tại thời điểm ngày 16/8/2022, đối tượng của hợp đồng đặt cọc
quyền sử dụng đất thuộc thửa đất số 433, tờ bản đồ s03 tọa lạc tại ấp T,
M, huyện D, tỉnh Bình Dương, được cấp cho bà Trần Thị Kim H1, sinh năm
1989 theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CU832591, số vào sổ cấp giấy
chứng nhận số CS02953 do Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh B cấp ngày
11/02/2020. Bị đơn ông Mai T2 không phải người được nhà nước công
nhận quyền sử dụng đất của thửa đất nêu trên nên bị đơn không quyền nhận
đặt cọc để chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho nguyên đơn theo quy định tại
Điều 168 Luật đất đai. Đồng thời, lời khai của bị đơn xác định đồng ý với yêu
cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc tuyên hợp đồng đặt cọc vô hiệu. Như vậy,
hợp đồng đặt cọc được lập ngày 16/8/2022 giữa nguyên đơn Thị H bị
đơn ông Mai T2 thửa đất số 433, tờ bản đồ số 03 tọa lạc tại ấp T, M,
huyện D, tỉnh Bình Dương theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số
CU832591, số vào sổ cấp giấy chứng nhận số CS02953 do Sở Tài nguyên
Môi trường tỉnh B cấp ngày 11/02/2020 bị hiệu ngay tthời điểm giao kết
theo quy định tại Điều 123 Bộ luật Dân sự.
6
Quá trình thực hiện hợp đồng: Nguyên đơn xác định đã giao cho bị đơn số
tiền cọc là 350.000.000 đồng. Tại mặt sau của hợp đồng đặt cọc ngày 16/8/2022,
nội dung viết tay thể hiện nguyên đơn đồng ý mất cọc bị đơn được quyền
chuyển nhượng thửa đất cho người khác. Tuy nhiên, như đã phân tích trên,
hợp đồng đặt cọc giữa nguyên đơn và bị đơn vô hiệu ngay từ khi giao kết. Đồng
thời ý kiến của bị đơn đồng ý việc giao trả số tiền 350.000.000 đồng. Như vậy,
yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc buộc bị đơn trả lại số tiền
350.000.000 đồng là có căn cứ chấp nhận.
[3.2] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc tranh chấp hợp đồng
góp vốn và buộc bị đơn trả lại số tiền 200.000.000 đồng.
Xét tài liệu nguyên đơn cung cấp hợp đồng đặt cọc ngày 28/8/2022
nhận thấy giữa bị đơn ông Phạm Văn T3 thoả thuận việc đặt cọc chuyển
nhượng thửa đất số 53, tờ bản đồ 06 toạ lạc tại ấp T, M, huyện D, tỉnh Bình
Dương, số tiền cọc bị đơn chuyển cho nguyên đơn 600.000.000 đồng. Trước
đó, lời khai của nguyên đơn thể hiện ngày 27/8/2022, bị đơn rủ nguyên đơn hùn
vốn mua đất nguyên đơn đã chuyển cho bị đơn số tiền 200.000.000 đồng
thông qua số tài khoản của bị đơn tại ngân hàng S2, lời khai của bị đơn xác định
quan hệ làm ăn chung với nguyên đơn nhưng không nhớ cụ thể như thế nào.
Đối chiếu với các sao do nguyên đơn cung cấp, ng văn số
16P/2024/CVPD-PGĐT ngày 09/7/2024 của Ngân hàng Thương Mại Cổ Phần
S1 (S2) Chi nhánh B2, Phòng G về việc xác định stài khoản của bị đơn.
đủ sở xác định, nguyên đơn đã chuyển cho bị đơn số tiền 200.000.000 đồng
vào ngày 27/8/2022. Bị đơn không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn về việc buộc bị đơn trả số tiền góp vốn 200.000.000 đồng nhưng bị đơn
không đưa ra được chứng cứ vviệc đã chuyển trả số tiền 200.000.000 đồng
hoặc đã thực hiện xong thoả thuận góp vốn với nguyên đơn. Như vậy, yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn về việc buộc bị đơn tra lại số tiền 200.000.000 đồng
đã nhận ngày 27/8/2022 là có cơ sở chấp nhận.
[3.3] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc buộc bị đơn trả tổng
số tiền đã vay 272.000.000 đồng gồm: Số tiền nguyên đơn chuyển khoản
cho bị đơn số tiền 4.000.000 đồng vào ngày 11/9/2022; nguyên đơn chuyển cho
ông Phạm Văn T3 số tiền 200.000.000 đồng ngày 10/9/2022; nguyên đơn
chuyển cho bà Kiều Thị Yến T4 hai lần vào ngày 10/9/2022, lần thứ nhất
64.000.000 đồng, lần thứ hai 4.000.000 đồng.
Đối với số tiền 200.000.000 đồng, quá trình làm việc, ông T3 xác định
đúng số tài khoản của ông T3 trong các giao dịch nguyên đơn cung cấp, tuy
nhiên ông T3 không nhớ được tại sao nhận tiền từ nguyên đơn, vì thời điểm năm
2022, ông T3 chuyển nhượng nhiều thửa đất và nhận tiền từ rất nhiều người nên
không thể nhớ chính xác được số tiền 200.000.000 đồng nguyên đơn chuyển
tiền gì. Nguyên đơn trình bày việc chuyển khoản số tiền 200.000.000 đồng cho
ông T3 là do bị đơn hỏi vay và đề nghị nguyên đơn chuyển vào số tài khoản của
ông T3. Xem xét, nội dung giao dịch nhận thấy nội dung chuyển khoản thể hiện
“Anh T5 ck” (anh T2 chuyển khoản), như vậy, mặc nguyên đơn người
7
chuyển khoản cho ông T3, nhưng nội dung thể hiện bị đơn là người chuyển tiền.
Sau khi chuyển khoản cho ông T3, nguyên đơn chụp hình giao dịch gửi
cho bị đơn thông qua ứng dụng ZALO. Lời trình bày của nguyên đơn về việc
cho bị đơn vay chuyển khoản thay cho bị đơn vào số tài khoản ông Phạm
Văn T3 cơ sở chấp nhận. Tương tự như trường hợp của ông T3, đối với bà
Kiều Thị Yến T4, bị đơn cũng nhờ nguyên đơn chuyển khoản hai lần với số tiền
64.000.000 đồng 4.000.000 ngày 10/9/2022. Quá trình làm việc, T4 xác
định do bị đơn nợ tiền T4 nên bị đơn nhờ người chuyển khoản cho
T4 đtrả nợ. Lời khai của bị đơn trong quá trình tham gia tố tụng thể hiện bị
đơn vay tiền của nguyên đơn. Như vậy, lời trình của nguyên đơn về việc bị
đơn vay nguyên đơn số tiền 272.000.000 căn cứ. Bị đơn trình bày việc
chuyển tiền ngược lại cho nguyên đơn nhưng không cung cấp chứng cứ để
chứng minh nên không có cơ sở xem xét.
[4] Ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Dầu Tiếng v phn
th tc t tng cũng như về nội dung vụ án là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp
nhận.
[5] Về án phí: Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn schấp nhận
nên bị đơn phải chịu án phí dân sự thẩm gồm án phí không giá ngạch đối
với yêu cầu tuyên hợp đồng dân sự hiệu án phí dân sự giá ngạch đối
với phần nghĩa vụ phải thực hiện hiện với nguyên đơn. Hoàn trả cho nguyên đơn
số tiền tạm ứng án phí đã nộp.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
- Căn cứ vào các Điều 5, 26, 35, 39, 71, 147, 227, 228, 238, 266, 271, 273
của Bộ luật Tố tụng dân sự; các Điều 19, 117, 122, 123, 131, 274, 275, 276, 328,
463, 466, 468 Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 168 Luật Đất đai năm 2014.
- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy
ban Thường vụ Quốc hội Khóa 14 quy định vmức thu, miễn, giảm, thu nộp,
quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Thị H đối
với bị đơn ông Mai Bá T2 về việc “Tranh chấp hợp đồng đặt cọc, tranh chấp hợp
đồng góp vốn, tranh chấp hợp đồng vay tài sản sản”
1.1.T6 hợp đồng đặt cọc về việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất tài
sản gắn liền với đất được kết ngày 16/8/2022 giữa ông Mai T2
Thị H đối với thửa đất số 433, tờ bản đồ số 03, tọa lạc tại ấp T, M, huyện D,
tỉnh Bình Dương vô hiệu.
Buộc ông Mai T2 phải trả cho Thị H stiền 350.000.000 đồng
(ba trăm năm mươi triệu đồng).
8
1.2. Buộc ông Mai T2 phải trả cho Thị H số tiền 200.000.000
đồng (hai trăm triệu đồng) đã nhận ngày 27/8/2022.
1.3. Buộc ông Mai T2 phải trả cho bà Thị H số tiền đã vay
272.000.000 đồng (hai trăm bảy mươi hai triệu đồng).
Sau khi Bản án hiệu lực pháp luật, kể từ ngàyThị H đơn yêu
cầu thi hành án, nếu ông Mai T2 không thanh toán số tiền trên, thì ông T2
còn phải chịu tiền lãi theo mức lãi suất được quy định tại khoản 2 Điều 468 của
Bộ luật dân sự năm 2015 tương ứng với thời gian và số tiền chưa thi hành án.
2. Về án phí dân sự sơ thẩm:
2.1. Ông Mai T2 phải chịu án phí dân sthẩm 36.960.000 đồng
(ba mươi sáu triệu chín trăm sáu mươi nghìn đồng).
2.2. Hoàn trả cho bà Vũ Thị H số tiền tạm ứng án phí sơ thẩm là
11.740.000 đồng (mười một triệu bảy trăm bốn mươi ngàn đồng) theo biên lai
thu tạm ứng án phí, lệ phí tòa án số AA/2021/0009427 ngày 27/9/2023 của Chi
cục Thi hành án dân sự huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương.
3. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan vắng mặt tại phiên tòa quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15
kể từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được tống đạt hợp lệ theo quy định.
Trường hợp Bản án được thi hành án theo quy định tại Điều 2 của Luật
Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án
dân sự quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tnguyện
thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7
Điều 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo
quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự./.
Nơi nhận:
- TAND tỉnh Bình Dương;
- VKSND huyện Dầu Tiếng;
- CC THA DS huyện Dầu Tiếng;
- Các đương sự;
- Lưu: Hồ sơ, VT.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THM
THM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Ngô Nguyễn Minh Sơn
Tải về
Bản án số 166/2024/DS-ST Bản án số 166/2024/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 166/2024/DS-ST Bản án số 166/2024/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất