Bản án số 01/2025/DS-PT ngày 06/01/2025 của TAND tỉnh Quảng Bình về tranh chấp đất đai

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 01/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 01/2025/DS-PT ngày 06/01/2025 của TAND tỉnh Quảng Bình về tranh chấp đất đai
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp đất đai
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Quảng Bình
Số hiệu: 01/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 06/01/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Trương Văn T- Trương Văn N Tranh chấp đất đai
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH QUẢNG BÌNH
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 01/2025/DS-PT
Ngày: 06 - 01- 2025
V/v: Tranh chấp quyền sử dụng đất
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG BÌNH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Ông Trần Trung Thành
Các Thẩm phán: Ông Dương Viết Hải và bà Hoàng Thị Thanh Nhàn.
- Thư phiên toà: Ông Hoàng Anh Việt - Thư Tòa án nhân dân tỉnh
Quảng Bình
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình tham gia phiên
tòa: Bà Chế Thị Bích Thủy - Kiểm sát viên.
Ngày 06 tháng 01 năm 2025 tại trụ sToà án nhân dân tỉnh Quảng Bình
mở phiên tòa phúc thẩm công khai xét xử vụ án dân sự thụ số:
59/2024/TLPT- DS ngày 15 tháng 10 năm 2024 về việc “Tranh chấp quyền sử
dụng đất”. Do kháng cáo của bị đơn ông Trương Văn N đối với Bản án dân
sự thẩm số: 10/2024/DS-ST ngày 29/8/2024 của Tòa án nhân dân huyện
Minh Hóa, tỉnh Quảng Bình. Theo quyếtđịnh đưa vụ án ra xét xử số:
468/2024/QĐ-PT ngày 12/12/2024 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Trương Văn T, sinh năm 1971 Trương Thị H,
sinh năm 1974; địa chỉ: Bản P, xã T, huyện M, tỉnh Quảng Bình; có mặt.
2. Bị đơn: Ông Trương Văn N, sinh năm 1971 và bà Trần Thị C, sinh năm
1969; địa chỉ: Bản P, xã T, huyện M, tỉnh Quảng Bình; có mặt.
3. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
- Ủy ban nhân dân huyện M, tỉnh Quảng Bình. Địa chỉ: Tổ dân phố D, TT
Q, huyện M, tỉnh Quảng Bình, vắng mặt;
- Ủy ban nhân dân T, huyện M, tỉnh Quảng Bình - Đại diện theo ủy
quyền: Ông Trần Đức T1 - Cán bộ địa chính xã T; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Tại đơn khởi kiện quá trình giải quyết vụ án đồng nguyên đơn ông
Trương Văn T và bà Trương Thị H thống nhất trình bày:
Theo chủ trương dồn điền, đổi thửa năm 2004, Hội đồng khoán đất bản
Phú Minh, T đã giao khoán đất sản xuất nông nghiệp cho gia đình ông. Đến
ngày 12/12/2016, gia đình ông được UBND huyện M cấp giấy chng nhận
quyền sử dụng đất số CDD đối với thửa đất số 410, tờ bản đồ số 24, diện tích
1482,6m
2
, mục đích sử dụng đất trồng cây hàng năm khác tại Bản P, T,
huyện T, tỉnh Quảng Bình. Sau khi được giao đất, gia đình ông đã canh tác trồng
cây màu trên đất được giao, còn ông N có trồng các cây lát, cây chè cây tràm
trên phần diện tích mà gia đình ông đã được cấp, cho nên gia đình ông đã ngăn
cản yêu cầu ông N không được trồng nhưng ông N không chịu. Sau khi kiểm
tra lại diện tích đất của gia đình đã được cấp thì mới phát hiện gia đình ông N đã
lấn chiếm khoảng 300m
2
. Sau đó, gia đình ông đã làm đơn khiếu nại lên UBND
xã T và cán bộ địa chính xuống thực địa để đo cắm mốc lại nhưng ông N tiếp tục
ngăn cản. vậy, ông khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc gia đình ông N
phải trả lại toàn bộ diện tích đất đã lấn chiếm tại thửa đất số 410 thuộc quyền sở
hữu hợp pháp của gia đình ông.
- Tại các bản tự khai trong quá trình giải quyết vụ án đồng bị đơn ông
Trương Văn N Trần Thị C thống nhất trình bày: Năm 1990 gia đình ông
làm một ngôi nhà gỗ dựng trên phần đất hiện tại gia đình ông đang
trồng các cây mít, cây lát, cây xoan, cây xoài, cây chè, cây keo chuồng lợn.
Năm 2018, gia đình ông được UBND huyện M cấp GCNQSDĐ số CL544218
đối với thửa đất số 411, tờ bản đồ số 24, diện tích 1517,2m
2
(800m
2
đất
712m
2
đất trồng cây hàng năm khác) tại Bản P, T, huyện M, tỉnh Quảng
Bình. Đối với toàn bộ diện tích đất mà ông T khởi kiện nguồn gốc gia đình
ông đã khai hoang sử dụng liên tục từ năm 1990 cho đến nay. vậy, ông
không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của gia đình ông T về việc trả lại đất.
- Tại Công văn số 78/TM MT, ngày 13/11/2024 của Phòng Tài nguyên và
Môi trường huyện M trình bày:
Theo hsơ cấp Giấynhận quyền sử dụng đất đối với hộ Trương Văn T
Trương Thị H, thì nguồn gốc sử dụng đất được giao theo Nghị đinh 64/CP.
Đến năm 2016, hộ ông T, H được UBND huyện M cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất tại thửa đất số 410, diện tích 1482,6m², sử dụng vào mục
đích: Sản xuất nông nghiệp, số vào số cấp GCN: CH 05146, số phát hành
675314 vào ngày 12/12/2016.
Theo hồ sơ cấp giấynhận quyền sử dụng đất đối với ông Trương Văn N
Trần Thị C nguồn gốc sdụng đất tự khai phá và sử dụng từ 6/1992. Đến
năm 2018, ông NC được UBND huyện M cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất tại thửa đất số 411, diện tích 1.517,2 m², mục đích sử dụng: Đất
tại nông thôn: 800 m², đấttrồng cây hàng năm khác: 717,2 m², cấp ngày
05/10/2018, số vào sổ cấp GCN: CH 04630, số phát hành CL 544218.
Qua kiểm tra các hồ sơ lưu trữ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
cho các hộ gia đình trên thì về trình tự, thủ tục cấp GCNQSD đất được thực hiện
đảm bảo theo quy định của Luật Đất đai 2013; Nghị định số 43/2014/NĐ-CP
ngày 15/5/2014 của Chính phủ các văn bản hiện hành liên quan. Việc ông T
và bà H khởi kiện, yêu cầu ông N và bà C trả lại diện tích lấn chiếm tại thửa đất
số 410, tờ bản đồ số 24 thuộc bản P, T, huyện M, tỉnh Quảng Bình, UBND
huyện đề nghị Toà án thẩm định tại chỗ, kiểm tra hiện trạng sử dụng đất của hai
hộ gia đình và xem xét giải quyết theo đúng quy định của pháp luật.
- Tại bản tự khai đề ngày 22/5/2024, ông Trần Đức T1 - n bộ địa chính
đại diện cho UBND xã T trình bày (BL:23): Sau khi nhận được đơn đề nghị giải
quyết tranh chấp đất đai của các hộ dân, UBND đã tiến hành thẩm tra trên
thực địa và các hồ sơ giấy tờ liên quan đến việc cấp đất cho các bên cho thấy đối
tượng đất tranh chấp đất trồng cây hàng năm, vị trí tranh chấp tại thửa đất số
410, tờ bản đồ số 24 thuộc bản P, xã T, nguồn gốc đất là thửa đất số 410, tờ bản
đồ số 24 được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ ông T H
vào năm 2016. Tại sổ mục sổ địa chính lưu tại xã đều thể hiện quyền sử
dụng đất của ông T H. Nguyên nhân dẫn đến việc tranh chấp do gia
đình ông N sản xuất trên diện tích của gia đình ông T. Việc cấp giấy chứng nhận
QSDĐ thửa 410 và tờ bản đồ số 24 đúng quy trình, trình tự thủ tục của Luật Đất
đai các hướng dẫn liên quan. vậy, đề nghị Toà án giải quyết theo pháp
luật.
- Theo kết quá xem xét thẩm định tại chỗ ngày 04/7/2024 do Tòa án nhân
dân huyện Minh Hóa thực hiện thể hiện (Từ BL 42- 47)
Tổng diện tích đất các bên đang tranh chấp 243,6m
2
trong đó 57,3
m
2
thuộc UBND T quản lý. Toàn bộ diện tích đất đang tranh chấp đều năm
trong diện tích đất đã được cấp GCNQSDĐ cho gia đình ông T tại thửa đất số
410, tờ bản đồ số 24, địa chỉ thửa đất: Bản P, T, huyện M, tỉnh Quảng Bình;
Có tứ cận cụ thể: Cạnh phía Bắc giáp đường nông thôn từ điểm 1 đến điểm 2 dài
2,71 mét; Cạnh phía Nam giáp đất UBND quản từ điểm 4 đến điểm 7 dài
4,81mét; Cạnh phía Đông giáp đất ông N từ điểm 2 đến điểm 3 dài 48,08 mét và
điểm 3 đến điểm 4 dài 6,24 mét; Cạnh phía Tây giáp đất ông T từ điểm 1 đến
điểm 7 dài 55 mét.
Trên diện tích tranh chấp các tài sản giá trị như sau: 60 bụi chè
giá 3.720.000 đồng; 01 cây xoan phi 60 giá 52.680 đồng; 06 cây bưởi
trồng khoảng 2 đến 3 năm giá trị 949.200 đồng; 40 cây chuối chưa buồng
có giá 1.012.000 đồng và 05 cây chuối đã có buồng có giá 577.500 đồng; 18 cây
tràm phi 10 cm có giá 432.000 đồng; Hàng rào cọc gỗ dây kẽm gai cao dưới 1,4
mét giá mỗi mét 66.000 đồngx57,71m = 3.808.000 đồng; 01 nhà vệ sinh kết
cấu khung gỗ vách ván gỗ, mái lợp fibroximang có diện tích 3m
2
giá 259.000
đồng; 01 chuồng lợn kết cấu khung gỗ, vách gỗ nền tráng xi măng mái lợp
fibroximang, diện tích 10m
2
có giá 2.280.000 đồng.
Đối với kết quả xem xét thẩm định tại chỗ trên, bị đơn ông Trương Văn N
thống nhất nội dung biên bản thẩm định tại chỗ và định giá tài sản nhưng từ chối
ký vào biên bản.
- Tại Bản án số: 10/2024/DS-ST ngày 29 tháng 8 năm 2024 của Tòa án
nhân dân huyện Minh Hóa, tỉnh Quảng Bình; Xử:
Căn cứ khoản 9 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều
39, Điều 147, 157, 165, 235, 266, 271 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự
năm 2015; các Điều 158, 163, 164, 166, 175, 176 và Điều 189 của Bộ luật Dân
sự năm 2015; các Điều 131, 166, 170, 179 và Điều 203 Luật đất đai năm 2013;
khoản 2 Điều 26, điểm a khoản 2 Điều 27 nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14
ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn,
giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của đồng nguyên đơn ông Trương
Văn T và bà Trương Thị H về việc tranh chấp quyền sử dụng đất (đòi lại đất lấn
chiếm) đối với đồng bị đơn ông Trương Văn N và bà Trần Thị C.
2. Buộc ông Trương Văn N Trần Thị C trả lại đất đã lấn chiếm
186,3m
2
tại thửa đất số 410, tờ bản đồ số 2, địa chỉ thửa đất: Bản P, T,
huyện M, tỉnh Quảng Bình cấp ngày 12/12/2016, số vào sổ cấp GCN 05148 cho
ông Trương n T Trương Thị H. Tứ cận thửa đất buộc ông N C
trả lại cho ông T và bà H cụ thể như sau:
Cạnh phía Bắc giáp đường nông thôn từ điểm 1 đến điểm 2 dài 2,71 mét;
Cạnh phía Nam giáp đất UBND quản từ điểm 4 đến điểm 7 i
4,81mét ;
Cạnh phía Đông giáp đất ông T từ điểm 2 đến điểm 3 dài 48,08 mét
điểm 3 đến điểm 4 dài 6,24 mét;
Cạnh phía Tây giáp đất ông Trương Văn T từ điểm 1 đến điểm 7 dài 55
mét.
(Có đồ tọa độ kèm theo, sơ đồ một bộ phần không tách rời bản
án)
3. Buộc ông Trương Văn T Trương Thị H phải trả lại giá trị cây
trồng trên diện tích đất tranh chấp cho ông Trương Văn N Trần Thị C số
tiền 6.743.380 đồng (Sáu triệu bảy trăm bốn mươi ba nghìn ba trăm tám mươi
đồng). Ông Trương Văn T và bà Trương Thị H được sở hữu: 60 bụi chè; 01 cây
xoan phi 60; 06 cây bưởi trồng khoảng 2 đến 3 năm tuổi; 40 cây chuối chưa
buồng 05 cây chuối đã buồng; 18 cây tràm phi 10cm trên diện tích đất
tranh chấp.
Buộc ông Trương Văn N Trần Thị C phải phá dỡ di dời hàng
rào cọc gỗ dây kẽm gai cao dưới 1,4 mét dài 57,71m (từ điểm 7 đến điểm 1 đến
điểm 2); 01 nhà vệ sinh kết cấu khung gỗ ch ván gỗ, mái lợp fibroximang
diện tích 3m
2
; 01 chuồng lợn kết cấu khung gỗ, vách gỗ nền tráng xi măng mái
lợp fibroximang có diện tích 10m
2
ra khỏi diện tích đất tranh chấp.
4. Về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ, định giá tài sản: Buộc ông Trương
Văn N Trần Thị C phải hoàn trả lại cho ông Trương Văn T số tiền
2.000.000 đồng (hai triệu đồng) chi phí tố tụng.
Ngoài ra bản án thẩm còn tuyên nghĩa vụ phải chịu chi phí tố tụng, án
phí và quyền kháng cáo của đương sự.
- Ngày 09/9/2024, bị đơn ông Trương Văn N kháng cáo toàn bộ bản án sơ
thẩm đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm sửa án sơ thẩm theo hướng bác yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn.
* Trong thời gian thụ lý phúc thẩm: Theo yêu cầu xem xét thẩm định tại
chỗ định giá tài sản lại tài sản của bị đơn vào ngày 12/11/2024; kết quả
như sau:
- Về đất: Phần diện tích đất các bên tranh chấp theo GCNQSDĐ đã được
cấp cho các bên tổng diện tích 295,5m
2
đất (từ các điểm 2, A, B, C trên
đồ) đều nằm trong thửa đất 410, tờ bản đồ số 24, diện tích 1482,6m² đã được
cấp GCNQSĐ cho Trương Văn T Trương Thị H vào ngày 12/12/2016; có
tứ cạnh như sau:
- Cạnh phía Bắc giáp đường giao thông, rộng 3,47m (tính từ điểm A-2 trên
sơ đồ)
- Cạnh phía Tây giáp thửa đất số 411 (đất ông T), dài 55,09m (tính từ
điểm A đến điểm trên sơ đồ);
- Cạnh phía Nam giáp hành lang đường giao thông, rộng 7,36m (tính t
điểm B-C trên sơ đồ);
- Cạnh Phía Đông giáp thửa 411 (đất ông N) dài 53,95m (tính từ điểm C
đến điểm 2 trên sơ đồ);
- Về tài sản trên đất: Trên diện tích tranh chấp có các tài sản có giá trị như
sau: 60 bụi chè, giá trị 3.720.000 đồng; 01 cây xoan, giá trị 52.680 đồng;
06 cây bưởi, giá trị 949.200 đồng; 40 cây chuối chưa buồng, giá
1.012.000 đồng 05 cây chuối đã buồng, giá trị 577.500 đồng; 18 cây
tràm, giá trị 432.000 đồng; Hàng rào cọc gỗ dây kẽm gai cao dưới 1,4m,
giá trị 66.000 đồng/01m; 01 nvệ sinh kết cấu khung gỗ vách ván gỗ, mái lợp
fibroximang, diện tích 3m
2
giá 259.000 đồng; 01 chuồng lợn kết cấu khung
gỗ, vách gnền tráng xi măng mái lợp fibroximang, diện tích 7,4m
2
giá trị
2.280.000 đồng; 01 nhà để củi đốt, diện tích 13,7m
2
.
Tuy nhiên, tại biên bản xem xét thẩm định tại chỗ bị đơn ông Trương Văn
N đã dẫn đạc cho rằng diện tích đất do gia đình khai hoang từ năm 1990
bao gồm toàn bộ thửa đất số 410 thửa đất số 411 diện tích đất thuộc hành
lang đường giao thông do UBND xã quản lýtổng diện tích 3501,7m
2
(tính từ
các điểm 1-3-4-6 trên sơ đồ).
- Tại phiên tòa phúc thẩm: Nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, bị
đơn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo không cung cấp thêm các tài liệu, chứng
cứ mới. Tuy nhiên, các bên đương sự thống nhất sử dụng kết quả xem xét
thẩm định tại chỗ, đo vẽ ngày 12/11/2024 do Tòa án cấp phúc thẩm thực hiện để
làm căn cứ giải quyết vụ án
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình phát biểu quan điểm
về việc giải quyết vụ án:
Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký
phiên tòa của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ
khi thụ cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử phúc thẩm nghị án đảm bảo
đúng quy định của pháp luật tốtụng dân sự;
Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 308 của Bộ
luật Tốdân sự; không chấp nhận kháng cáo của bị đơn ông Trương n N, giữ
nguyên Bảnán thẩm về phần tranh chấp đất đai. Tuy nhiên đề nghị sửa án
thẩm về phần án phí giá ngạch đối với số tiền nguyên đơn phải nghĩa vụ
trả lại giá trị cây trồng cho bị đơn.
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có tại hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên
toà; căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa phúc thẩm; ý kiến của đại diện
Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về tố tụng: Kháng cáo của bị đơn được làm trong hạn luật định và
đảm bảo vềnội dung hình thức tho quy định tại các Điều 272, Điều 273 của Bộ
luật Tố tụng dân sự, cho nên được xem xét thụ giải quyết theo trình tự phúc
thẩm.
[2] Về nội dụng: Xét kháng cáo của bị đơn ông Trương Văn N và bà Trần
Thị C (gọi là bị đơn) thấy rằng:
[2.1] Về nguồn gốc đất: Căn cứ Công văn số 78/TM-MT ngày 13/11/2024
của Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện M; sổ mục kê các thửa đất và hồ sơ
cấp GCNQSDĐ cho các bên đương sự thể hiện:
Ngày 12/12/2016, UBND huyện M cấp GCNQSDĐ số 675314, số
vào số cấp GCN: CH 05146 đối với thửa đất số 410, tờ bản đồ số 24 diện tích
1482,6m² đất trồng cây hàng năm khác tại T, huyện M, tỉnh Quảng nh
mang tên ông Trương Văn T Trương Thị H (sau đây gọi thửa đất số
410).
Ngày 05/10/2018, UBND huyện M cấp GCNQSDĐ CL 544218, số vào s
cấp GCN: CH 04630 đối với thửa đất số 411, tờ bản đồ số 24, diện tích
1.517,2m² nguồn gốc từ đất khai phá (trong đó 800m² đất nông thôn
717,2m² , đấtcây hàng năm khác) tại Bản P, T, huyện M, tỉnh Quảng Bình
cho ông Trương Văn N và bà Trần Thị C. (sau đây gọi là thửa đất số 411).
[2.2] Xét thủ tục cấp GCNQSDĐ cho các bên thấy rằng:
- Đối với thửa đất số 410, nguyên đơn đã thực hiện việc đăng khai
lần đầu vào ngày 14/10/2015 được UBND huyện M cấp GCNQSDĐ vào
ngày 12/12/2016 để sử dụng vào mục đích sản xuất ng nghiệp. Quy trình cấp
GCNQSDĐ đối với thửa đất số 410 cho nguyên đơn đã được các quan nhà
nước thẩm quyền về quản đất đai thực hiện việc đo đạc trên thực tế, niêm
yết danh sách đủ điều kiện cấp đất theo đúng trình tự quy định của pháp luật
(BL: 130-131-132-133-134).
- Đối với thửa đất số 411 của bị đơn thì sau khi nguyên đơn đã được cấp
GCNQSDĐ vào năm 2016 thì đến ngày 25/11/2017 bị đơn mới làm đơn xin cấp
đất đối với thửa đất số 411, với diện tích đất xin cấp 1517,2m
2
, trong đó bị
đơn đã khai nhận diện tích đất xin cấp nguồn gốc từ khai phá, sử dụng từ
tháng 6/1992, trong đó quyền sử dụng hạn chế đối với diện tích 495,8m
2
thuộc hành lang đường giao thông (BL: 139). Căn cứ nguồn gốc đất do bị đơn
khai; phiếu ý kiến của khu dân vnguồn gốc thời điểm sử dụng đất
(BL:138); trích bản đồ địa chính về thửa đất (BL:137); danh sách đủ điều kiện
cấp đất (BL:140); ngày 05/10/2018 bị đơn được UBND huyện M đã cấp
GCNQSDĐ cho bđơn theo đúng diện tích đất đã khai. Đồng thời tkhi
được cấp GCNQSDĐ từ năm 2018 cho đến nay, bị đơn không bất cứ ý kiến
phản đối nào về diện tích đất đã được cấp.
[2.3] Về hiện trạng sử dụng đất của các bên: Theo biên bản xem xét thẩm
định tại chổ ngày 12/11/2024 thể hiện ngoài diện tích đất đã được cấp tại thửa
411, gia đình bđơn đã làm hàng rào thép gai, trồng cây, xây dựng chuồng lợn,
nhà vsinh, nhà chứa củi nằm chồng lấn trên diện tích 295,5m
2
(tính từ các
điểm B-A-2-C trên đồ) thuộc thửa đất số 410 đã được cấp GCNQSDĐ cho
nguyên đơn; cụ thể như sau:
- Phía Bắc giáp đường giao thông, tình từ điểm A-2 có chiều rộng 3,47m;
- Phía Tây giáp thửa đất số 410 của nguyên đơn, tính từ điểm A đến điểm
B có chiều dài 55,09m;
- Phía Nam giáp hành lang đường giao thông, tình từ điểm B-C, chiều
rộng là 7,36m;
- Phía Đông giáp thửa 411 của bị đơn, tính từ điểm C đến điểm 2, có chiều
dài là 53,95m;
[3] Từ những căn cứ được nêu tại mục [2] đã có đủ cơ sở xác định tại thời
điểm cấp đất cho các bên, UBND huyện M đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục
được quy định tại Luật Đất đai 2013 Nghị định số: 43/2014/NĐ-CP ngày
15/5/2014 của Chính phủ về hướng dẫn thi hành Luật đất đai về nguồn gốc sử
dụng đất, diện tích đất trên thực tế. Do đó, căn cứ kết quả xem xét thẩm định tại
chỗ đã có đủ cơ sở xác định bị đơn đã có hành vi lấn chiếm đất và làm hàng rào,
trồng cây cối và làm một số công trình phục trợ khác nằm trên diện tích 295,5m
2
đất thuộc thửa đất số 410 đã được cấp GCNQSDĐ cho nguyên đơn là vi phạm
quy định tại Điều 170 Luật đất đai về sử dụng đất, cho nên Tòa án sơ thẩm chấp
nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn buộc bđơn trả lại toàn bộ diện tích
đất lấn chiếm căn cứ, đúng quy định của pháp luật. Bị đơn kháng o
nhưng không cung cấp tài liệu, chứng cứ gì mới để chứng minh cho yêu cầu của
mình, cho nên Hội đồng xét xử phúc thẩm không căn cứ để thỏa mãn kháng
cáo của bị đơn cần giữ nguyên bản án thẩm theo như đề nghị của đại diện
Viện kiểm sát tại phiên tòa.
[4] Đối với các tài sản có trên phần diện tích đất tranh chấp các bên đương
sự đều thừa nhận do bđơn tạo lập, nhưng tại các thời điểm bị đơn trồng cây,
làm các ng trình phụ trợ khác thì nguyên đơn không đưa ra được chứng cứ
để chứng minh đã phản đối việc lấn chiếm đất của bị đơn trong một thời gian
dài. vậy, việc bị đơn đã trồng cây trên phần đất lấn chiếm cũng một phần
lỗi của nguyên đơn trong việc quản lý, sử dụng diện tích đất đã được cấp, cho
nên Tòa án cấp thẩm đã giao toàn bộ cây do bị đơn đã trồng cho nguyên đơn
sở hữu buộc nguyên đơn phải nghĩa vụ trả lại giá trị bằng tiền cho bị đơn
theo như kết luận định giá là phù hợp với thực tế sử dụng đất của các bên. Riêng
các công trình xây dựng gồm hàng rào, chuồng heo, nhà vệ sinh, nhà chứa củi
đốt bị đơn đã làm trên diện tích đất trồng cây hàng năm khác thuộc thửa đất
số 410 của nguyên đơn là vi phạm về mục đích sử dụng đất, cho nên Tòa án cấp
thẩm buộc bị đơn phải tháo dđối với các công trình này để trả lại nguyên
trạng thửa đất cho nguyên đơn là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.
[5] Về chi phí tố tụng: Tổng số chi phí tố tụng trong quá trình giải quyết
vụ án hết 11.000.000 đồng. Trong đó tại cấp sơ thẩm hết 4.000.000 đồng do mỗi
bên đương sự thảo thuận tạm nộp ½ chi phí với số tiền 2.000.000 đồng; Tại cấp
phúc thẩm bị đơn đã nộp đủ 7.000.000 đồng đyêu cầu xem xét thẩm định lại.
Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận, kháng cáo của bị đơn
không được chấp nhận, nên bị đơn phải chịu nộp toàn bộ chi phí tố tụng của vụ
kiện với tổng số tiền 11.000.000 đồng. Quá trình giải quyết vụ án bị đơn đã
nộp 9.000.000 đồng, cho nên phải có nghĩa vụ trả lại số tiền 2.000.000 đồng
nguyên đơn đã tạm nộp chi phí tố tụng theo quy định tại các Điều 157, 158, 165,
166 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[6] Về án phí:
- Về án phí thẩm: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp
nhận, cho nên Tòa án thẩm đã trả lại số tiền tạm ứng án pcho nguyên đơn
buộc bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm không có giá ngạch đúng quy
định pháp luật. Tuy nhiên, án thẩm đã buộc nguyên đơn phải nghĩa vụ trả
lại cho bị đơn số tiền 6.743.380 đồng về cây trồng, nhưng không buộc nguyên
đơn phải chịu án phí giá ngạch đối với số tiền này còn thiếu sót, cần rút
kinh nghiệm. Vì vậy, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát đề nghị sửa lại một phần
án phí sơ thẩm là có căn cứ, đúng pháp luật, nên cần chấp nhận.
- Về án phí phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị đơn
phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.
[7] Các quyết định khác của bản án thẩm không bị kháng cáo, kháng
nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết kháng cáo kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tốdân sự; không chấp nhận kháng cáo
của bị đơn ông Trương n N và Trần Thị C; ginguyên bản án dân sự
thẩm số: 10/2024 DS-ST ngày 29/8/2024 của Tòa án nhân dân huyện Minh Hóa,
tỉnh Quảng Bình.
Căn cứ các Điều 26, 37, 147, 157, 165 Bộ luật Tố tụng dân sự; các Điều
166, 175, 189 Bộ luật Dân2015; các Điều 96, 100, 135, 170, 203 Luật Đất đai
năm 2013; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban
Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Toà án; Xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Trương Văn T
Trương Thị H về tranh chấp quyền sử dụng đất.
Buộc bị đơn ông Trương Văn N Trần Thị C trả lại cho ông Trương
Văn T Trương Thị H 295,5m
2
đất lấn chiếm (tính từ các điểm A-2-B-C
trên đồ) tại thửa đất số 410, tờ bản đồ số 24 diện tích 1482,6m² tại T,
huyện M, tỉnh Quảng Bình đã được UBND huyện M, tỉnh Quảng Bình cấp giấy
GCNQSDĐ số CĐ 675314, số vào số cấp GCN: CH 05146 cho ông Trương Văn
T và bà Trương Thị H vào ngày 12/12/2016; có các cạnh như sau:
- Cạnh phía Bắc giáp đường giao thông, rộng 3,47m (tính từ điểm A-2 trên
sơ đồ)
- Cạnh phía Tây giáp thửa đất số 410, dài 55,09m (tính từ điểm A đến
điểm trên sơ đồ);
- Cạnh phía Nam giáp hành lang đường giao thông, rộng 7,36m (tính t
điểm B-C trên sơ đồ);
- Cạnh Phía Đông giáp thửa 411, dài 53,95m (tính từ điểm C đến điểm 2
trên sơ đồ);
2. Buộc ông Trương Văn N Trần Thị C phải di dời, phá bỏ toàn bộ
hàng rào làm bằng cọc gỗ, dây kẽm gai cao dưới 1,4m, dài 55,09m; 01 nhà vệ
sinh kết cấu khung gỗ, vách ván gỗ, mái lợp fibroximang, diện tích 3m
2
; 01
chuồng lợn kết cấu khung gỗ, vách gỗ nền tráng xi măng mái lợp fibroximang,
diện tích 7,4m
2
01 nhà chứa củi, diện tích 13,7m
2
ra khỏi diện tích 295,5m
2
đất đã lấn chiếm để trả lại nguyên trạng thửa đất cho ông Trương Văn T
Trương Thị H.
3. Giao cho ông Trương Văn T Trương Thị H được sở hữu 60 bụi
chè; 01 cây xoan; 06 cây bưởi; 40 cây chuối chưa buồng, 05 cây chuối
buồng; 18 cây tràm có tổng giá trị thành tiền 6.743.380 đồng do ông Trương
Văn N Trần Thị C đã trồng trên diện tích đất lấn chiếm. Ông Trương Văn
T Trương Thị H phải nghĩa vụ trả lại giá trị cây trồng cho ông Trương
Văn N và bà Trần Thị C với số tiền 6.743.380 đồng.
4. Về chi phí tố tụng: Buộc ông Trương Văn N Trần Thị C phải trả
lại cho ông Trương Văn T và bà Trương Thị H số tiền 2.000.000 đồng chi phí tố
tụng
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, bên được thi hành án có đơn yêu
cầu thi hành án, bên phải thi hành án hàng tháng còn phải chịu khoản tiền lãi
của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều
468 Bộ luật Dânsự 2015.
5. Về án phí:
5.1. Án phí dân sự sơ thẩm:
- Ông Trương Văn T Trương Thị H phải chịu 337.169 đồng án p
dân sự thẩm giá nghạch, nhưng được trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm
ứng án phí đã nộp tại Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số: 0000547,
ngày 14/3/2024 của C1 cụcThi hành án dân sự huyện M, tỉnh Quảng Bình. Như
vậy, số tiền án phí dân sự thẩm ông Trương Văn T Trương Thị H còn
phải nộp tiếp là 37.169 đồng.
- Buộc ông Trương Văn N Trần Thị C phải chịu 300.000 đồng án
phí dân sự sơ thẩm.
5.2. Án phí dân sự phúc thẩm: Buộc ông Trương Văn N và bà Trần Thị C
phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm, nhưng được trừ vào số tiền
300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp tại Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa
án số 0000619 ngày 29/3/2024 của Chi cụchành án dân sự huyện M, tỉnh Quảng
Bình (Xác định đương sự đã nộp đủ án phí phúc thẩm).
6. Các quyết định khác của bản án thẩm hiệu lực pháp luật kể từ
ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm.
7. Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án (ngày 06/01/2025).
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2
Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành
án dân sự quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự
nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,
7, 7a, 7b 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện
theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.
Nơi nhận:
- Các đương sự;
- VKSND tỉnh Quảng Bình;
- TAND huyện Minh Hóa;
- Cục THADS tỉnh Quảng Bình;
- Chi Cục THADS huyện Minh Hóa;
- Lưu hồ sơ, Tòa DS, VP.
T.M HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN-CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã Ký)
Trần Trung Thành
Tải về
Bản án số 01/2025/DS-PT Bản án số 01/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 01/2025/DS-PT Bản án số 01/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất