Bản án số 602/2024/DS-PT ngày 29/11/2024 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp hợp đồng đặt cọc
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 602/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 602/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 602/2024/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 602/2024/DS-PT ngày 29/11/2024 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp hợp đồng đặt cọc |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng đặt cọc |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Bình Dương |
Số hiệu: | 602/2024/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 29/11/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH BÌNH DƯƠNG
Bản án số: 602/2024/DS-PT
Ngày 29-11-2024
V/v tranh chấp hợp đồng đặt cọc
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH DƯƠNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:
Các Thẩm phán:
Bà Ngô Thị Bích Diệp
Bà Huỳnh Thị Thanh Tuyền
Ông Lê Sỹ Trứ
- Thư ký phiên tòa: Bà Huỳnh Thảo Vy - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh
Bình Dương.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương tham gia phiên
tòa: Ông Trần Đức Thoại - Kiểm sát viên.
Trong các ngày 25 và 29 tháng 11 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân
tỉnh Bình Dương xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số
416/2024/TLPT-DS ngày 08 tháng 10 năm 2024 về việc “Tranh chấp hợp đồng
đặt cọc”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 69/2024/DS-ST ngày 14 tháng 6 năm 2024
của Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Bình Dương bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 418/2024/QĐ-PT,
ngày 29 tháng 10 năm 2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Hoàng Văn T, sinh năm 1987; địa chỉ: khu phố B,
phường T, thị xã B, tỉnh Bình Dương, có mặt.
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Phạm Văn T1, sinh
năm 1986; địa chỉ: số F, khu phố B, phường B, thành phố T, tỉnh Bình Dương
(Văn bản ủy quyền ngày 26/5/2021), có mặt.
- Bị đơn: Công ty Cổ phần Đ; địa chỉ: ô C, lô C, đường D, khu phố F,
phường T, thị xã B, tỉnh Bình Dương.
Người đại diện theo pháp luật của bị đơn: Ông Hoàng Đình T2 - Chức
danh: Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Giám đốc, có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
2
1. Ông Nguyễn Văn T3, sinh năm 1988; địa chỉ: xã T, huyện L, tỉnh
Quảng Bình; hiện đang chấp hành án tại: đội F, phân trại số A, Trại giam A, xã
D, huyện D, tỉnh Khánh Hòa, vắng mặt và có yêu cầu xét xử vắng mặt.
2. Ông Hoàng Đình T2, sinh năm 1988; địa chỉ: số B, đường N, khu phố
B, phường T, thị xã B, tỉnh Bình Dương, có mặt.
3. Ông Hoàng Văn T4, sinh năm 1982; địa chỉ: khu phố B, phường B,
thành phố T, tỉnh Bình Dương, vắng mặt và có yêu cầu xét xử vắng mặt.
4. Ông Võ Văn G, sinh năm 1981; địa chỉ: khu phố F, phường T, thị xã B,
tỉnh Bình Dương, có yêu cầu xét xử vắng mặt.
- Người kháng cáo: Nguyên đơn ông Hoàng Văn T.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện đề ngày 25/5/2021; đơn khởi kiện sửa đổi, bổ sung đề
ngày 02/4/2024; quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn và
người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày: Ngày 26/7/2020,
nguyên đơn ông T đặt cọc số tiền 50.000.000 đồng theo phiếu thu ngày
26/7/2020 cho Công ty Cổ phần Đ (sau đây gọi tắt là Công ty Đ) để nhận
chuyển nhượng thửa đất số 1468, tờ bản đồ 4, diện tích 108m
2
tại phường T,
thành phố B, tỉnh Bình Dương giá chuyển nhượng 845.000.000 đồng. Ông T
giao trực tiếp cho ông Nguyễn Văn T3 là nhân viên của Công ty Đ và là người
trực tiếp môi giới bán thửa đất cho ông T. Sau khi nhận tiền cọc của ông T, ông
T3 giao lại cho Công ty Đ và Công ty Đ đã ghi phiếu thu ngày 26/7/2020 có
đóng dấu và chữ ký của ông Hoàng Đình Thế L người đại diện theo pháp luật
của Công ty Đ và lập Giấy biên nhận đặt cọc ngày 26/7/2020 (ông T và Công ty
Đ mỗi bên giữ 01 bản).
Ngày 29/7/2020, ông T thanh toán thêm số tiền 430.000.000 đồng. Do
ông T3 nói rằng ông T2 đang đi du lịch nên không nhận số tiền này được. Ông
T3 có gọi điện thoại cho ông T2 và được ông T2 đồng ý để ông T3 nhận thay.
Vì vậy ông T đã giao số tiền này cho ông T3. Ông T3 ghi thêm nội dung xác
nhận đã nhận thêm số tiền này vào bản Giấy biên nhận đặt cọc ông T giữ và ông
T3 có ký tên lăn tay xác nhận, đồng thời thoả thuận đến đầu tháng 8/2020 thì
Công ty Đ có trách nhiệm hoàn thiện hồ sơ và ký hợp đồng chuyển nhượng lô
đất, ông T sẽ thanh toán số tiền còn lại để hoàn thiện các giấy tờ pháp lý sở hữu
thửa đất. Khoảng 02 ngày sau, ông T liên hệ với ông T3 thì được ông T3 cho
biết ông T3 đã giao toàn bộ số tiền 430.000.000 đồng cho Công ty Đ.
Ngày 15/8/2020, ông T liên hệ với ông T3 để thực hiện việc hoàn tất giấy
tờ, thủ tục sở hữu lô đất thì ông T3 cho biết Công ty Đ đã bán lô đất này cho
người khác nên không thể hoàn tất việc chuyển nhượng cho ông T và nói ông T
liên hệ Công ty Đ để nhận lại tiền cọc 50.000.000 đồng và số tiền 430.000.000
đồng đã thanh toán.
Sau đó, ông T đến Công ty Đ để liên hệ nhận lại số tiền thì ông Hoàng
Đình T2 - Giám đốc Công ty Đ chỉ đồng ý trả lại 50.000.000 đồng tiền cọc (trả
3
vào ngày 04/4/2021) và số tiền 300.000.000 đồng thanh toán mua đất (chuyển
khoản vào ngày 03/5/2021), không đồng ý trả lại số tiền 130.000.000 đồng, vì lý
do ông T3 không nộp số tiền này cho Công ty Đ.
Do đó, nguyên đơn ông T khởi kiện bị đơn Công ty Đ buộc Công ty Đ trả
lại cho nguyên đơn số tiền 130.000.000 đồng và chịu phạt số tiền 50.000.000
đồng tương đương với tiền đặt cọc do vi phạm hợp đồng và phải chịu lãi suất
chậm trả theo quy định của Ngân hàng N kể từ ngày bản án của Tòa án có hiệu
lực pháp luật.
Tại đơn rút một phần nội dung khởi kiện đề ngày 27/9/2022, người đại
diện hợp pháp của nguyên đơn tự nguyện rút một phần yêu cầu khởi kiện đối
50.000.000 đồng tương đương với tiền đặt cọc do vi phạm hợp đồng; chịu lãi
suất chậm trả theo quy định của Ngân hàng N kể từ ngày bản án của Tòa án có
hiệu lực pháp luật. Nội dung yêu cầu này đã được đình chỉ xét xử tại Bản án dân
sự sơ thẩm số 70/2022/DS-ST ngày 29/9/2022 của Tòa án nhân dân thị xã B và
Bản án dân sự phúc thẩm số 78/2023/DS-PT ngày 14/3/2023 của Tòa án nhân
dân tỉnh Bình Dương.
Ngày 02/4/2024, nguyên đơn ông T có đơn khởi kiện sửa đổi, bổ sung yêu
cầu Tòa án giải quyết: Buộc bị đơn Công ty Đ và cá nhân ông Hoàng Đình T2
có nghĩa vụ liên đới trả lại cho nguyên đơn số tiền 130.000.000 đồng.
Tại phiên tòa, ông T trình bày vào ngày 03/5/2021, ông T có nhận được số
tiền 300.000.000 đồng do ông Hoàng Đình T2 chuyển khoản vào tài khoản của
ông T. Ông T2 có gọi điện thoại cho ông T nói chuyển nhầm và yêu cầu ông T
chuyển trả lại số tiền trên cho ông T2. Ông T có liên hệ lại cho ông T2 và gửi vị
trí nhà để cho ông T2 đến nhận lại tiền tuy nhiên ông T2 không đến mà lại nộp
đơn tại Cơ quan Công an và thông báo với Ngân hàng về việc chuyển nhầm số
tiền trên. Nay do ông T2 đã xác định là 300.000.000 đồng là chuyển nhầm thì
nếu Công ty Đ và cá nhân ông T2 đồng ý trả lại cho ông T số tiền 430.000.000
đồng thì ông T sẽ trả lại 300.000.000 đồng đã nhận cho ông T2.
Vì vậy, nguyên đơn có yêu cầu khởi kiện bổ sung tại phiên tòa, yêu cầu
Tòa án giải quyết buộc bị đơn Công ty Đ và cá nhân ông Hoàng Đình T2 có
nghĩa vụ liên đới trả lại cho nguyên đơn số tiền 430.000.000 đồng.
Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa người đại diện theo pháp luật
của bị đơn là ông Hoàng Đình T2 trình bày: Ngày 26/7/2020, nguyên đơn ông T
có đặt cọc số tiền 50.000.000 đồng theo phiếu thu ngày 26/7/2020 cho Công ty
Đ để nhận chuyển nhượng đối với thửa đất số 1468, tờ bản đồ 4 tại phường T,
thành phố B, tỉnh Bình Dương, diện tích 108m
2
với giá chuyển nhượng
845.000.000 đồng.
Đối với nội dung nguyên đơn trình bày ngày 29/7/2020, nguyên đơn đã
thanh toán thêm số tiền 430.000.000 đồng cho ông Nguyễn Văn T3 là nhân viên
của Công ty Đ đồng thời hẹn nhau đến đầu tháng 8/2020, Công ty Đ có trách
nhiệm hoàn thiện hồ sơ và ký hợp đồng chuyển nhượng lô đất cho ông T và ông
T sẽ tiếp tục thanh toán số tiền còn lại để hoàn thiện các giấy tờ pháp lý sở hữu
4
thửa đất, nội dung này Công ty Đ hoàn toàn không biết vì thực tế ông Nguyễn
Văn T3 là người đứng ra môi giới và nhận từ chủ đất. Ông T3 chỉ là người hợp
tác môi giới, tìm và giới thiệu khách hàng cho Công ty Đ, không phải là nhân
viên của Công ty Đ. Sau khi các bên ký giấy biên nhận đặt cọc, Công ty Đ chỉ
nhận số tiền đặt cọc 50.000.000 đồng, Công ty Đ đã chuyển hết số tiền đặt cọc
cho ông T3 để ông T3 ký hợp đồng đặt cọc với chủ đất. Tuy nhiên sau khi Công
ty Đ bàn giao khách hàng là ông T cho ông T3, mọi giao dịch sau này liên quan
đến thửa đất Công ty Đ hoàn toàn không biết.
Vào ngày 04/4/2021, ông T2 đại diện Công ty Đ và ông T đã thống nhất
hủy bỏ hợp đồng đặt cọc theo văn bản thỏa thuận trả tiền đặt cọc, ông T2 cũng
đã thanh toán lại cho ông T đủ số tiền cọc 50.000.000 đồng và hai bên chính
thức không còn liên quan.
Vào ngày 03/5/2021, khi ông T2 chuyển tiền trên ứng dụng của ngân hàng
trong điện thoại di động để đặt cọc thửa đất số 2686 tại phường C của ông
Hoàng Văn K (sinh năm 1991; địa chỉ: số F, đường số E, khu phố B, phường B,
quận B, thành phố Hồ Chí Minh), do họ tên ông Hoàng Văn T và ông Hoàng
Văn K khá giống nhau nên khi ứng dụng ngân hàng hiện danh sách tên để lựa
chọn người nhận tiền thì ông T2 đã nhầm lẫn chọn nhầm tên của ông T (do trước
đó ông T2 có chuyển trả tiền cọc cho ông T nên ứng dụng có lưu thông tin của
ông T) dẫn đến việc ông T2 chuyển nhầm tiền vào số tài khoản của ông Hoàng
Văn T. Sau khi chuyển nhầm, ông T2 có thông báo cho Ngân hàng và liên hệ
với ông T yêu cầu chuyển trả lại tiền cho ông T2 nhưng ông T không đồng ý
chuyển trả. Ông T2 đã gửi đơn yêu cầu Công an thành phố B thụ lý giải quyết
yêu cầu ông T trả lại số tiền này cho ông T2 chứ không có việc ông T2 chuyển
trả lại 300.000.000 đồng cho ông T như lời trình bày của ông T.
Giao dịch đặt cọc giữa Công ty Đ và ông T đã chấm dứt theo văn bản thỏa
thuận trả tiền đặt cọc. Ông T2 đã trả lại đủ số tiền cọc 50.000.000 đồng cho ông
T và hai bên không còn liên quan, Công ty Đ và cá nhân ông T2 không nhận số
tiền 430.000.000 của ông T do ông T3 giao. Nên trước yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn, bị đơn Công ty Đ không đồng ý.
Đối với yêu cầu phản tố của bị đơn, bị đơn đã tự nguyện rút yêu cầu phản
tố và cũng đã được đình chỉ xét xử tại Bản án dân sự sơ thẩm số 70/2022/DS-ST
ngày 29/9/2022 của Tòa án nhân dân thị xã B và Bản án dân sự phúc thẩm số
78/2023/DS-PT ngày 14/3/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương.
Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan ông Hoàng Đình T2 trình bày: Số tiền ông T3 chuyển cho ông T2 vào
ngày 02/8/2020 gồm 211.046.420 đồng (vào tài khoản Ngân hàng V) và
279.000.000 đồng (vào tài khoản Ngân hàng M) là tiền ông T3 trả nợ cho ông
T2 và tiền ông T3 cho ông T2 vay nên ông T3 mới chuyển vào tài khoản cá
nhân của ông T2 chứ không phải tiền thanh toán tiền chuyển nhượng đất nên
không chuyển vào tài khoản của Công ty Đ.
Ông T2 xác định cá nhân ông T2 không nhận số tiền 430.000.000 đồng
của ông T do ông T3 chuyển khoản nên không có liên quan đến nội dung tranh
5
chấp và giao dịch đặt cọc giữa ông T, Công ty Đ và ông T3 nên ông T2 không
đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông T.
Quá trình tham gia tố tụng, ông Nguyễn Văn T3 trình bày: Trước đây ông
T3 là nhân viên của Công ty Đ nhưng không ký kết hợp đồng lao động mà chỉ
làm việc dưới hình thức hợp tác. Vì vậy, công việc của ông T3 cũng không cụ
thể. Ông T3 không được Công ty Đ giao nhiệm vụ hay được ủy quyền để giới
thiệu khách hàng nhận chuyển nhượng thửa đất số 1468, tờ bản đồ số 4, tại
phường T, thành phố B của ông Hoàng Văn T4.
Vào năm 2020, ông T3 có giới thiệu khách hàng Hoàng Văn T để nhận
chuyển nhượng đối với thửa đất số 1468, tờ bản đồ số 4, tại phường T, thành
phố B, người đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là ông Hoàng
Văn T4. Ngày 26/7/2020, ông T3 có dẫn ông T đến trụ sở của Công ty Đ đóng
50.000.000 đồng (có phiếu thu của Công ty Đ). Ông T và Công ty Đ có ký giấy
Biên nhận đặt cọc về việc chuyển quyền sử dụng đất. Giấy Biên nhận đặt cọc chỉ
có ông T và ông T2 ký tên đóng dấu Công ty Đ chứ ông T3 không có ký tên.
Ngày 29/7/2020, ông T liên hệ để đóng thêm tiền cọc nhưng Công ty Đ đi
du lịch không có ai làm việc. Do đó, ông T mang số tiền 430.000.000 đến nhà
của ông T3 tại phường T gửi cho ông T3. Ông T3 có gọi điện thoại báo cho ông
T2 biết sự việc này và ông T2 đồng ý cho ông T3 nhận tiền của ông T. Do ông
T2 và ông T3 là anh em bà con nên trước đây ông T2 vẫn cho ông T3 trực tiếp
nhận tiền từ khách hàng và về bàn giao lại cho Công ty Đ chứ ông T3 không lừa
đảo ông T, không chiếm đoạt số tiền này của ông T. Sau khi nhận số tiền
430.000.000 đồng của ông T, ông T3 là người trực tiếp ký, lăn tay và trực tiếp
ghi “đã nhận thêm 430 triệu ngày 29/7/2020, tổng số tiền đã nhận là
480.000.000đ” vào bản Giấy biên nhận đặt cọc của ông T.
Ngày 02/8/2020, ông T3 đã ra Ngân hàng nộp toàn bộ số tiền này vào tài
khoản của ông T3 và chuyển 02 lần toàn bộ số tiền này vào tài khoản của cá
nhân ông Hoàng Đình T2. Tổng cộng, ông T3 chuyển 490.000.000 đồng gồm
60.000.000 đồng là tiền của khách hàng khác và số tiền 430.000.000 đồng là tiền
của ông T giao cho ông T3. Vì là anh em bà con nên khi chuyển khoản ông T3
không có ghi nội dung chuyển khoản, còn 01 lệnh chuyển khoản có ghi “cho bac
mươn” là ông T3 ghi cho vui chứ không có sự việc ông T2 mượn tiền của ông
T3. Ông T3 đã chuyển đủ 430.000.000 đồng cho ông T2. Còn việc vì sao Công
ty Đ không ghi phiếu thu cho ông T thì ông T3 không biết. Tới ngày thỏa thuận
hai bên ra Văn phòng công chứng ký hợp đồng chuyển nhượng, do đất không có
thể hiện đường không ra bản vẽ kịp nên không thể ký kết hợp đồng. Ông T có
gọi điện thoại hỏi ông T3, thì ông T3 trả lời do hồ sơ đất bị vướng giấy tờ chưa
làm được còn giữa ông T và ông T2 có thỏa thuận như thế nào thì ông T3 không
biết vì ông chỉ có nhiệm vụ môi giới cho khách hàng.
Sau đó, Công ty Đ có trả lại 50.000.000 đồng cho ông Thường ngày
04/4/2021 tại trụ sở Công an tỉnh B. Ông T2 không thừa nhận việc ông T3 có
chuyển khoản số tiền 430.000.000 đồng mà ông T3 đã nhận của ông T cho ông
T2 và trình bày số tiền ông T3 chuyển khoản ông T2 vào ngày 02/8/2020 là số
6
tiền ông T3 chuyển tiền trả nợ là không đúng. Vì trước đó, ông T3 có vay của
ông T2 120.000.000 đồng nhưng ông T3 đã trả đủ cho ông T2. Ông T3 không
nhớ thời gian vay và trả lúc nào vì anh em không có làm văn bản nên không có
chứng cứ để cung cấp cho Tòa án, cũng không có ai làm chứng.
Việc ông T3 nhận số tiền 430.000.000 đồng của ông T, ông T2 biết và
đồng ý để ông T3 nhận, ông T3 không chiếm đoạt hay lừa đảo. Ông T3 đã
chuyển đủ số tiền 430.000.000 đồng cho ông T2 nên ông T3 không liên quan
đến khoản tiền này. Ông T3 không có ý kiến đối với yêu cầu của nguyên đơn và
không có yêu cầu trong vụ án.
Quá trình giải quyết vụ án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông
Hoàng Văn T4 trình bày: Ông T4 chỉ biết ông T3 thông qua việc ông T3 có ký
hợp đồng đặt cọc thửa đất số 1468, tờ bản đồ số 4, tại phường T, thành phố B,
tỉnh Bình Dương theo Hợp đồng đặt cọc ngày 21/10/2020. Đối với Công ty Đ,
ông T4 hoàn toàn không biết. Tại thời điểm ký hợp đồng đặt cọc với ông T3 thì
ông T4 là người đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và ông T3 đặt cọc
cho ông T4 số tiền cọc 50.000.000 đồng. Các bên có thỏa thuận với nhau ngày
hai bên ra ký hợp đồng chuyển nhượng, tuy nhiên vì đất không thể hiện đường,
Phòng T5 không cấp được trích lục thửa đất nên ông T4 phải nhờ ông T3 đi làm
thủ tục cập nhật tên đường vào giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Vì vậy, quá
thời gian các bên thỏa thuận trong hợp đồng đặt cọc về ngày ký kết hợp đồng
chuyển nhượng. Thời gian sau đó, khi nghe tin ông T3 bị bắt, giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất của ông T4 mới làm xong và cập nhật được tên đường.
Khoảng tháng 01/2021, ông T4 nhận được giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Ngoài việc nhận số tiền 50.000.000 đồng tiền cọc từ ông T3, ông T4
không nhận thêm khoản tiền nào khác từ ông T3.
Vì các bên không ký kết được hợp đồng chuyển nhượng nên ông T4 đã trả
lại đủ số tiền cọc 50.000.000 đồng cho ông T3. Hiện tại ông T4 đã chuyển
nhượng quyền sử dụng đất trên cho người khác.
Trước yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, ông T4 không có ý kiến hay yêu
cầu giải quyết vấn đề gì.
Quá trình tham gia tố tụng, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Võ
Văn G trình bày: Ông G là đồng sở hữu đối với thửa đất số 1468, tờ bản đồ số 4,
tại phường T, thành phố B, tỉnh Bình Dương. Mọi giấy tờ và giao dịch liên quan
đến việc chuyển nhượng thửa đất đều được sự đồng ý và có mặt của hai bên là
ông G và ông T4. Do việc chuyển nhượng không thực hiện được nên ông G và
ông T4 cũng đã trả lại tiền cọc cho ông T3. Vì vậy, hiện tại ông G xác định
không còn liên quan đến vụ án nên ông G không có ý kiến hay yêu cầu giải
quyết vấn đề gì.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 69/2024/DS-ST ngày 14/6/2024 của Tòa án
nhân dân thành phố B, tỉnh Bình Dương tuyên xử:
Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Hoàng
Văn T đối với bị đơn Công ty Cổ phần Đ và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
7
quan ông Hoàng Đình T2 về việc yêu cầu Công ty Cổ phần Đ và ông Hoàng
Đình T2 có nghĩa vụ liên đới thanh toán cho ông Hoàng Văn T số tiền
130.000.000 đồng (một trăm ba mươi triệu đồng).
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về quyền yêu cầu thi hành án, án phí
và quyền kháng cáo của các đương sự.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 01/7/2024, nguyên đơn kháng cáo toàn bộ
bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm các đương sự không thỏa thuận được với nhau về
việc giải quyết vụ án.
Ý kiến của Kiểm sát viên: Về thủ tục tố tụng những người tham gia tố
tụng và những người tiến hành tố tụng đã thực hiên đúng theo quy định của Bộ
luật Tố tụng dân sự. Tại phiên tòa phúc thẩm người kháng cáo không có nộp
chứng cứ nào mới. Về nội dung vụ án xét thấy Tòa án cấp sơ thẩm xử là có căn
cứ nên không có căn cứ để chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn nên đề
nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự giữ
nguyên bản án sơ thẩm.
Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào
kết quả tranh tụng và ý kiến của Kiểm sát viên.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về thủ tục tố tụng: Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông
Nguyễn Văn T3, ông Hoàng Văn T4, ông Võ Văn G có đơn yêu cầu xét xử vắng
mặt và phiên tòa được mở lần thứ hai nên Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử
theo quy định tại Điều 296 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Về nội dung vụ án: Theo tài liệu chứng cứ tại hồ sơ vụ án thể hiện
giấy biên nhận đặt cọc ngày 26/7/2020, nguyên đơn ông T có đặt cọc số tiền
50.000.000 đồng (theo phiếu thu ngày 26/7/2020) cho bị đơn Công ty Đ để nhận
chuyển nhượng phần đất 108m
2
thuộc thửa 1468, tờ bản đồ 4, tại phường T,
thành phố B, tỉnh Bình Dương với giá 845.000.000 đồng. Hai bên thỏa thuận
đến ngày 05/8/2020, ông T sẽ thanh toán cho Công ty Đ số tiền còn lại
795.000.000 đồng thì Công ty Đ ký hợp đồng chuyển nhượng cho ông T.
Ngày 29/7/2020, ông T thanh toán thêm số tiền 430.000.000 đồng, giao
cho ông T3, ông T3 có ký nhận vào giấy biên nhận đặt cọc ngày 26/7/2020.
Ngày 04/4/2021, ông T và Công ty Đ đã thỏa thuận hủy bỏ hợp đồng đặt
cọc theo văn bản thỏa thuận trả tiền đặt cọc không ghi ngày tháng năm và Công
ty Đ đã trả lại cho ông T số tiền cọc 50.000.000 đồng và ông T2 đại diện cho
Công ty Đ đã chuyển khoản trả cho nguyên đơn số tiền 300.000.000 đồng nên
nguyên đơn xác định bị đơn còn phải trả 130.000.000 đồng
Bị đơn cho rằng: Giữa nguyên đơn và bị đơn đã thỏa thuận hủy bỏ hợp
đồng đặt cọc nên hai bên không còn quyền lợi và nghĩa vụ với nhau. Việc
nguyên đơn cho rằng ông T3 có nhận của nguyên đơn số tiền 430.000.000 đồng
8
và chuyển khoản cho bị đơn là hoàn toàn không có, còn việc ông T2 chuyển
nhầm số tiền 300.000.000 đồng cho nguyên đơn chứ không phải là trả tiền cho
nguyên đơn nên bị đơn không đồng ý yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Xét thấy; các đương sự còn khai mâu thuẩn với nhau về số tiền
430.000.000 đồng. Nhận thấy số tiền 430.000.000 đồng nguyên đơn đưa cho
ông T3 là có thật được nguyên đơn và ông T3 thừa nhận và có ký tên xác nhận
vào phía dưới giấy đặt cọc ngày 26/7/2020 nhưng ông T3 cho rằng đã chuyển
khoản cho ông T2 làm hai lần, ngày 02/8/2020 gồm số tiền 211.046.420 đồng
(vào tài khoản Ngân hàng V) và số tiền 279.000.000 đồng (vào tài khoản Ngân
hàng M) nhưng ông T3 lại ghi là tiền ông T3 trả nợ cho ông T2 và tiền ông T3
cho ông T2 vay, như vậy không thể hiện nội dung ông T chuyển tiền mua đất
ông T2 không thừa nhận đồng thời số tiền ông T3 chuyển cho ông T2 không
đúng với số tiền 430.000.000 đồng nên không có căn cứ để xác định ông T3
nhận tiền của ông T, chuyển khoản cho ông T2.
Đối với số tiền 300.000.000 nguyên đơn cho rằng ông T2 chuyển khoản
để trả lại tiền cho nguyên đơn nhưng ông T2 cho rằng chuyển nhầm tên đúng ra
chuyển cho ông Hoàng Văn K nhưng chuyển cho Hoàng Văn T vào ngày
03/5/2021. Xét thấy theo sao kê ông T2 chuyển khoản số tiền 300.000.000 đồng
cho nguyên đơn thì có ghi nội dung mua phần đất thửa số 2686 tại phường C và
mặc khác trong hồ sơ có hợp đồng chuyển nhượng phần đất Chánh Phú Hòa
giữa ông T2 và ông K. Như vậy có thêm căn cứ để xác định ông T3 không có
chuyển khoản cho ông T2 số tiền ông T đưa cho ông T3 nên không có căn cứ để
buộc bị đơn Công ty Đ và ông T2 liên đới trả cho nguyên đơn ông T số tiền
130.000.000 đồng. Mặc khác ông T3 không phải là nhân viên hợp đồng của
Công ty Đ nên không có căn cứ buộc Công ty Đ trả lại tiền cho nguyên đơn.
Đối với số tiền 300.000.000 đồng ông T2 yêu cầu ông T trả nhưng ông T
không đồng ý nên ông T2 có đơn tố cáo tại Công an thành phố B, theo lời khai
của các đương sự khẳng định Công an thành phố B chờ kết quả xét xử của Tòa
án rồi mới giải quyết đơn tố cáo của ông T2 tại Công an thành phố B nên Tòa án
cấp sơ thẩm đưa vụ án ra xét xử vụ án là phù hợp.
Từ phântích trên không có căn cứ chấp nhận yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn, Tòa án cấp sơ thẩm xử có căn cứ.
Tại phiên tòa phúc thẩm người kháng cáo không cung cấp chứng cứ mới
nên không có căn cứ chấp nhận kháng cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Ý kiến của kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên bản án sơ
thẩm là có căn cứ.
Án phí dân sự phúc thẩm: Người kháng cáo phải nộp.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
- Căn cứ Điều 148, khoản 1 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự;
9
- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy
ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và
sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn ông Hoàng Văn
T.
2. Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 69/2024/DS-ST ngày 14/6/2024
của Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Bình Dương.
3. Án phí dân sự phúc thẩm: Nguyên đơn ông Hoàng Văn T phải nộp số
tiền 300.000 đồng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng theo Biên lai thu số
0000556 ngày 05/7/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố B, tỉnh Bình
Dương.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Bình Dương;
- Chi cục THADS thành phố B;
- TAND thành phố B;
- Tổ Hành chính tư pháp;
- Các đương sự (để thi hành);
- Lưu: Hồ sơ, Tòa Dân sự.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Ngô Thị Bích Diệp
Tải về
Bản án số 602/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 602/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 17/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 16/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 10/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 04/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 03/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 28/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 27/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 26/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 26/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 22/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 18/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 18/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 14/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 11/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 11/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 11/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 08/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 07/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 06/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm