Bản án số 321/2024/DS-PT ngày 02/12/2024 của TAND tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp hợp đồng đặt cọc

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 321/2024/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 321/2024/DS-PT ngày 02/12/2024 của TAND tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp hợp đồng đặt cọc
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng đặt cọc
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Đắk Lắk
Số hiệu: 321/2024/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 02/12/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Không chấp nhận kháng cáo của ông Trịnh Công S người đại diện theo uỷ quyền của bị đơn. Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 118/2024/DS-ST ngày 12/7/2024 của Toà án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH ĐẮK LẮK
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh Phúc
Bản án số: 321/2024/DS-PT
Ngày: 02 - 12 - 2024
“Tranh chấp hợp đồng đặt cọc”
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Nhung.
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Văn Bằng và bà Nguyễn Thị Hạnh Vân.
- Thư ký phiên tòa: Ông Nguyễn Cao Huế - Thẩm tra viên Tòa án nhân dân
tỉnh Đắk Lắk.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân n tỉnh Đắk Lắk tham gia phiên toà:
Lê Thị Bích Thuỷ - Chức vụ: Kiểm sát viên.
Ngày 02 tháng 12 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử
công khai vụ án dân sự phúc thẩm thụ s242/2024/TLPT-DS ngày 07/10/2024
về việc “tranh chấp hợp đồng đặt cọc”, do Bản án dân sự sơ thẩm số 118/2024/DS-
ST ngày 12/7/2024 của Toà án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk
bị kháng cáo, theo Quyết định đưa vụ án ra xét x số 274/2024/QĐ-PT ngày
23/10/2024 Quyết định hoãn phiên toà số 284/2024/QĐ-PT ngày 13/11/2024,
giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Châu Thị Thanh Y, sinh năm 1980 (có mặt); Địa chỉ: A
N, phường E, thành phố B, T.Đắk Lắk;
2. Bị đơn: Trần Thị Nhã P, sinh năm 1987 (vắng mặt).
Địa chỉ: Hẻm E P, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.
Người đại diện theo uỷ quyền: Ông Trịnh Công S, sinh năm 1992; địa chỉ: C
Y, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk (có mặt).
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn: Ông Đỗ Xuân N - Luật
Công ty Trách nhiệm Hữu hạn Một thành viên N1 - Chi nhánh Đ1 - Địa chỉ: G
N, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk (có mặt).
3. Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Thị Thu T, sinh năm
1994 (vắng mặt).
Địa chỉ: Số G thôn T, xã T, huyện D, tỉnh Lâm Đồng.
Người đại diện theo uỷ quyền: Ông Trịnh Xuân Đ, sinh năm 1991 (vắng
mặt); địa chỉ: G N, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.
4. Người làm chứng: Ông Trương Minh L; địa chỉ: A Đ, phường T, thành
phố B, tỉnh Đắk Lắk (có mặt).
5. Người kháng cáo: ông Trịnh Công S người đại diện theo uỷ quyền của bị
đơn.
2
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo trình bày của các đương sự các tài liệu, chứng cứ trong hồ vụ
án, nội dung vụ án thể hiện như sau:
Vũ Thị Thu T có 02 quyền sử dụng đất là thửa đất số 230, diện tích 248,5
m
2
thửa đất số 231, diện tích 248,5 m
2
, đều thuộc tờ bản đồ số 64, địa chỉ C,
thị B, tỉnh Đắk Lắk, được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số
244088 và DĐ 244089 ngày 01/4/2022 đứng tên bà Vũ Thị Thu T. Ngày 09/4/2022
Trần Thị Nhã P kết hợp đồng đặt cọc với Thị Thu T để nhận chuyển
nhượng 02 thửa đất trên với giá 760.000.000 đồng. Ngày 26/4/2022 bà Châu Thị
Thanh Y kết hợp đồng đặt cọc với Trần Thị Nhã P để nhận chuyển nhượng
02 thửa đất trên với giá 880.000.000 đồng, số tiền đặt cọc 100.000.000 đồng, thời
gian đặt cọc 30 ngày kể từ ngày 26/4/2022 đến ngày 26/5/2022. Khi hợp đồng
đặt cọc, bà Y không có mặt, ông Trương Minh L là người trung gian cầm hợp đồng
đặt cọc từng người. Cùng ngày 26/4/2022 Y chuyển khoản 100.000.000
đồng tiền cọc cho bà P. Ngày 18/5/2022 Thị Thu T hợp đồng uỷ quyền
cho Trần Thị Nhã P toàn quyền định đoạt đối với thửa đất số 230 + 231, trong
đó quyền kết hợp đồng đặt cọc, chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Hợp
đồng uỷ quyền được công chứng tại Văn phòng C.
* Nguyên đơn Châu Thị Thanh Y trình bày khởi kiện yêu cầu:
Khi thoả thuận đặt cọc, P nói các thửa đất trên thuộc quyền sử dụng P. Khi
thực hiện việc đặt cọc, P không cung cấp được giấy tờ pháp về đất, không
đưa đi xem đất, không thông báo địa điểm công chứng, do vậy hai bên không
kết được hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Nay bà Y khởi kiện yêu cầu
P trả lại tiền cọc 100.000.000 đồng chịu phạt cọc. Tại phiên toà thẩm,
Y rút một phần yêu cầu khởi kiện về phạt cọc, chỉ yêu cầu P trả lại 100.000.000
đồng tiền cọc.
* Bị đơn Trần Thị Nhã P người đại diện theo uỷ quyền ông Trình
Công S1 trình bày: Trước khi kết hợp đồng đặt cọc, thông qua ông Trương
Minh L, P đã cung cấp đầy đủ thông tin về đất, vị trí đất cho Y biết. Y
đồng ý nên hai bên mới giao kết hợp đồng đặt cọc. Trước ngày ng chứng (ngày
25/5/2022) bà P liên hệ với ông L đthông báo thời gian công chứng vào ngày
26/5/2022 nhưng ông L nói Y chưa gửi giấy tờ cho ông L để công chứng. Đến
ngày công chứng, Y không đủ tiền để thanh toán nên không kết được hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất. P đã gia hạn thêm 01 tuần cho Y
nhưng Y không phản hồi. Sau đó ông L nhắn tin đề nghP cho bà Y thêm
thời gian nhưng Y vẫn không đủ tiền để hoàn thành giao dịch. Do vậy, Y là
người vi phạm hợp đồng đặt cọc. Tại thời điểm ký kết hợp đồng đặt cọc, bà T đồng
ý cho P nhận cọc, thể hiện tại hợp đồng đặt cọc giữa bà T P. Đến ngày
18/5/2022 bà T uỷ quyền toàn bộ cho P định đoạt đối với 02 thửa đất. Do vậy,
hợp đồng đặt cọc giữa P Y hiệu lực pháp luật. Do Y người vi
phạm hợp đồng đặt cọc nên bà P không đồng ý trả lại tiền cọc. Hiện tại P vẫn
mong muốn được ký kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất với bà Y.
* Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Vũ Thị Thu T trình bày: Khi
kết hợp đồng đặt cọc với P, T đồng ý cho P được chuyển nhượng lại
3
cho bên thứ ba. Khi bà P nhận cọc của bà Y, bà P có báo lại cho bà T biết.
* Người làm chứng ông Trương Minh L trình bày: Ông quen biết làm
ăn với Y. Ông người giới thiệu cho Y mua đất của P, cung cấp đầy đủ
thông tin về đất cho bà Y. Ông làm chứng việc đặt cọc giữa bà Y P. P
liên lạc với ông xin thông tin của bà Y để làm hợp đồng chuyển nhượng, ông L đã
liên lạc với bà Y thì bà Y xin dời ngày công chứng và không cung cấp thông tin
nhân. Hết thời hạn hợp đồng, các bên không trao đổi về việc tiếp tục thực hiện hợp
đồng chuyển nhượng.
Tại Bản án dân sthẩm số 118/2024/DS-ST ngày 12/7/2024 của Toà
án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk đã quyết định: Áp dụng
các Điều 116, 117, 122, 123, 328, 407, 408 Bộ luật Dân sự;
Tuyên xử:
1. Chấp nhận đơn khởi kiện của nguyên đơn bà Châu Thị Thanh Y.
Tuyên hợp đồng đặt cọc được xác lập ngày 22/4/2022 giữa Châu Thị
Thanh Y Trần Thị Nhã P hiệu. Buộc Trần Thị Nhã P trả lại cho
Châu Thị Thanh Y số tiền đã nhận cọc 100.000.000 đồng.
2. Đình chỉ yêu cầu khởi kiện phạt cọc 100.000.000 đồng của Châu Thị
Thanh Y.
Ngoài ra Tòa án cấp thẩm còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo cho
các đương sự theo quy định của pháp luật.
Sau khi xét xử thẩm, ngày 17/7/2024 ông Trịnh Công S người đại diện
theo uỷ quyền của bị đơn có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm và đề nghị Toà
án cấp phúc thẩm sửa án thẩm theo hướng không chấp nhận toàn bộ yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn.
Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, người
đại diện theo uỷ quyền của bị đơn giữ nguyên nội dung kháng cáo. Các đương sự
không thoả thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk phát biểu quan điểm v
việc giải quyết vụ án: Về tố tụng, Hội đồng xét xử, Thẩm phán, Thư Tòa án,
các đương sự đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Xét kháng
cáo của bị đơn, đnghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng o của bị đơn,
giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu trong hồ ván được xem xét tại phiên
tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về tố tụng: Đơn kháng cáo của người đại diện theo uỷ quyền của bị đơn được
nộp trong thời hạn quy định đã nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm nên Tòa án
cấp phúc thẩm xem xét giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.
[2]. Xét kháng cáo của ông Trịnh Công S người đại diện theo uỷ quyền của bị đơn.
Thửa đất số 230, diện tích 248,5 m
2
thửa đất số 231, diện tích 248,5 m
2
,
đều thuộc tờ bản đồ s64, địa ch C, thị xã B, tỉnh Đắk Lắk, được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số DĐ 244088 và DĐ 244089 ngày 01/4/2022 đứng
4
tên Thị Thu T. Ngày 09/4/2022 Trần Thị NP kết hợp đồng đặt cọc
với Thị Thu T để nhận chuyển nhượng 02 thửa đất trên với giá 760.000.000
đồng. Sau khi kết hợp đồng đặt cọc, hai bên chưa kết hợp đồng chuyển
nhượng, đăng thủ tục sang tên. Ngày 26/4/2022 Châu Thị Thanh Y kết
hợp đồng đặt cọc với Trần Thị Nhã P để nhận chuyển nhượng 02 thửa đất trên
với giá 880.000.000 đồng, số tiền đặt cọc 100.000.000 đồng, thời gian đặt cọc 30
ngày kể từ ngày 26/4/2022 đến ngày 26/5/2022. Như vậy, tại thời điểm kết đặt
cọc giữa Y P tP chưa được công nhận quyền sử dụng đất hợp pháp
đối với 02 thửa đất số 230 và 231 nên chưa quyền của người sử dụng đất theo
Điều 168 Luật Đất đai. Do vậy, hợp đồng đặt cọc ngày 26/4/2022 giữa Y
P vi phạm điều cấm của pháp luật nên hiệu theo Điều 123 Bộ luật n sự. Tại
thời điểm kết hợp đồng đặt cọc, bên đặt cọc bên nhận cọc đều biết các thửa
đất đứng tên bà T nhưng vẫn kết hợp đồng nên hợp đồng hiệu do lỗi của cả
hai bên. Hợp đồng hiệu nên không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền
nghĩa vụ của các bên ktừ thời điểm xác lập giao dịch. Do vậy, các bên khôi phục
lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những đã nhận. Toà án cấp thẩm
tuyên bố hợp đồng đặt cọc giữa bà Y và bà P hiệu; buộc bà P phải trả lại cho bà
Y 100.000.000 đồng tiền cọc là phù hợp với Điều 123, Điều 131 Bộ luật Dân sự.
[3]. Tnhững phân tích, nhận định trên, Hội đồng xét xử nhận thấy không
căn cứ chấp nhận kháng cáo của ông Trịnh Công S người đại diện theo u
quyền của bị đơn, giữ nguyên Bản án dân sự thẩm số 118/2024/DS-ST ngày
12/7/2024 của Toà án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.
[4]. Về án phí: Do không chấp nhận kháng o người đại diện theo u quyền
của bị đơn nên bị đơn phải chịu án phí dân sự phúc thẩm theo quy định của pháp
luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
[1]. Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự,
Không chấp nhận kháng cáo của ông Trịnh Công S người đại diện theo uỷ
quyền của bị đơn. Giữ nguyên Bản án dân sự thẩm số 118/2024/DS-ST ngày
12/7/2024 của Toà án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.
[2]. Áp dụng Điều 117, Điều 118, Điều 123, Điều 131, Điều 328 Bộ luật dân
sự; Điều 167, Điều 168, Điều 188 Luật Đất đai năm 2013; Điều 26, Điều 29 Nghị
quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội,
Tuyên xử:
[2.1]. Chấp nhận đơn khởi kiện của nguyên đơn bà Châu Thị Thanh Y.
Tuyên hợp đồng đặt cọc được xác lập ngày 22/4/2022 giữa Châu Thị
Thanh Y và bà Trần Thị Nhã P vô hiệu.
Buộc Trần Thị Nhã P trả lại cho Châu Thị Thanh Y stiền đã nhận
cọc 100.000.000 đồng.
Kể từ ngày đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến
khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn
5
phải chịu khoản tiền lãi của số tiền phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại
khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự.
[2.2]. Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của Châu Thị Thanh Y về việc buộc
Trần Thị Nhã P phải thanh toán tiền phạt cọc 100.000.000 đồng.
[3]. Về án phí.
- Trần Thị Nhã P phải chịu 5.000.000 đồng án phí dân sự thẩm
300.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm, được khấu trừ vào 300.000 đồng tạm ứng
đã nộp theo biên lai thu s13299 ngày 30/7/2024 tại Chi cục Thi hành án dân sự
thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.
- Trả lại cho Châu Thị Thanh Y 300.000 đồng tạm ứng án phí dân sự
thẩm, theo Biên lai thu số 9562 ngày 07/3/2024 tại Chi cục Thi hành án dân sự
thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.
Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2
Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án
dân sự quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tnguyện thi
hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9
Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại
Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
[5]. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
- TAND Cấp cao tại Đà Nẵng; THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- VKSND tỉnh Đắk Lắk;
- TAND THADS TP. Buôn Ma Thuột;
- Chi cục THADS TP. Buôn Ma Thuột;
- Các đương sự;
- Công thông tin điện tử Tòa án;
- Lưu hồ sơ vụ án.
Nguyễn Thị Nhung
Tải về
Bản án số 321/2024/DS-PT Bản án số 321/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 321/2024/DS-PT Bản án số 321/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất