Bản án số 326/2024/DS-PT ngày 04/12/2024 của TAND tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp hợp đồng đặt cọc
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 326/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 326/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 326/2024/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 326/2024/DS-PT ngày 04/12/2024 của TAND tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp hợp đồng đặt cọc |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng đặt cọc |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Đắk Lắk |
Số hiệu: | 326/2024/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 04/12/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Ông Nguyễn Tiến N khởi kiện yêu cầu bà Quách Thị N1 trả lại số tiền đặt cọc là 200.000.000 đồng. |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
1
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỈNH ĐẮK LẮK Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 326/2024/DS-PT
Ngày: 04 - 12 - 2024
“V/v: Tranh chấp hợp đồng đặt cọc”
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Trương Công Bình.
Các Thẩm phán: 1. Ông Trần Duy Phương;
2. Bà Lê Thị Thanh Huyền.
- Thư ký phiên toà: Bà Nguyễn Thị Thu Hương - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh
Đắk Lắk.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk tham gia phiên tòa: Bà
Trương Thị Thu Thủy - Kiểm sát viên.
Ngày 04 tháng 12 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk, xét xử
phúc thẩm công khai vụ án dân sự phúc thẩm thụ lý số: 287/2024/TLPT-DS ngày
15/10/2024, về việc: “Tranh chấp hợp đồng đặt cọc”. Do Bản án dân sự sơ thẩm số:
114/2024/DS-ST ngày 08/7/2024 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột,
tỉnh Đắk Lắk bị kháng cáo. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 311/2024/QĐ-
PT, ngày 04/11/2024 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 314/2024/QĐ-PT ngày
26/11/2024, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Tiến N; địa chỉ: Đường Đ, phường T, thành phố
B, tỉnh Đắk Lắk, có mặt.
2. Bị đơn: Bà Quách Thị N1; địa chỉ: Đường Đ, phường T, thành phố B, tỉnh
Đắk Lắk, có mặt.
Người đại diện theo uỷ quyền của bị đơn:
- Ông Nguyễn Đình C; địa chỉ: Tổ dân phố F, phường E, thành phố B, tỉnh Đắk
Lắk, có mặt.
- Ông Phạm Trí T; địa chỉ: Tổ dân phố H, phường E, thành phố B, tỉnh Đắk
Lắk, có mặt.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Y S Êban và bà H’N Ktul; địa
chỉ: Buôn K, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk (Ông Y S Êban có mặt, bà H’N
Ktul vắng mặt).
4. Người kháng cáo: Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn là ông Phạm Trí
T.
2
NỘI DUNG VỤ ÁN:
*/ Theo đơn khởi kiện, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn
ông Nguyễn Tiến N trình bày có nội dung như sau:
Vào ngày 16/12/2021, ông Nguyễn Tiến N và bà Quách Thị N1 đã ký hợp đồng
đặt cọc để đảm bảo cho việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với thửa đất số
11, tờ bản đồ số 58, có chiều ngang 25,5m, chiều dài 38,5m, diện tích 1000m
2
, địa
chỉ tại buôn K, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk; giá chuyển nhượng là
1.250.000.000 đồng. Cùng ngày 16/12/2021, ông N đã đặt cọc cho bà N1 số tiền
200.000.000 đồng bằng hình thức chuyển khoản. Hai bên thỏa thuận trong vòng 60
ngày đến 120 ngày kể từ ngày ký hợp đồng đặt cọc, hai bên sẽ văn phòng công chứng
ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và ông N sẽ đưa thêm cho bà N1 số
tiền 1.000.000.000 đồng, còn lại số tiền 50.000.000 đồng, sẽ trả cho bà N1 sau khi
sang tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Ngoài ra bà N1 còn cam kết làm bê
tông đường phía đất mua 3m x 7 (25m dài). Tuy nhiên quá thời hạn, bà N1 không
thực hiện thỏa thuận theo hợp đồng đặt cọc đã giao kết.
Vì vậy, ông N khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bà Quách Thị N1 phải
trả lại cho ông N số tiền đặt cọc là 200.000.000 đồng và tiền phạt cọc 200.000.000
đồng theo hợp đồng đặt cọc ngày 16/12/2021. Quá trình giải quyết vụ án tại cấp sơ
thẩm, nguyên đơn đã thay đổi yêu cầu khởi kiện, cụ thể ông N chỉ yêu cầu bà Quách
Thị N1 phải trả lại số tiền đặt cọc là 200.000.000 đồng và rút yêu cầu khởi kiện về
yêu cầu phạt cọc số tiền 200.000.000 đồng.
*/ Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, bị đơn bà Quách Thị N1 và người
đại diện theo ủy quyền của bị đơn trình bày có nội dung như sau:
Vào ngày 05/10/2021, bà Quách Thị N1 có thỏa thuận ký kết hợp đồng nhận
chuyển nhượng của gia đình ông Y S Êban thửa đất tại buôn K, phường T, thành
phố B với giá 900.000.000 đồng, cùng ngày bà N1 đã đặt cọc số tiền 200.000.000
đồng cho gia đình ông Y S, hai bên đã làm các thủ tục đo trích lục địa chính. Sau khi
đặt cọc tiền nhận chuyển nhượng đất cho gia đình ông Y S, do không có nhu cầu sử
dụng đất nên bà N1 đã thỏa thuận chuyển nhượng lại toàn bộ thửa đất trên cho ông
Nguyễn Tiến N. Sau khi xem xét thửa đất, các giấy tờ có liên quan đến thửa đất, hợp
đồng chuyển nhượng đất giữa bà N1 và gia đình ông Y S, thì ngày 16/12/2021, ông
N và bà N1 đã ký hợp đồng đặt cọc, với nội dung: Bà N1 chuyển nhượng cho ông N
thửa đất số 11, tờ bản đồ số 58, diện tích đất 1.000m
2
, giá chuyển nhượng
1.000.000.000 đồng, ông N đã đặt cọc cho bà N1 số tiền 200.000.000 đồng. Theo
nội dung hợp đồng đặt cọc thì nếu ông N không thực hiện theo thỏa thuận sẽ mất
toàn bộ số tiền đã đặt cọc.
Khi bà N1 và ông N thỏa thuận chuyển nhượng quyền sử dụng đất thì gia đình
ông Y S biết và đồng ý với thỏa thuận này, tức đồng ý tách thửa sang tên quyền sử
dụng đất từ gia đình ông Y S sang cho ông N. Quá trình thực hiện hợp đồng bà N1
đã nhiều lần thông báo cho ông N chuẩn bị số tiền còn lại để hai bên tiến hành lập
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, nhưng ông N không đủ khả năng tài
chính và đưa ra nhiều lý do để không thực hiện ký kết hợp đồng. Đến nay hồ sơ tách
3
thửa đã hoàn thiện và bà N1, cũng như gia đình ông Y S vẫn đồng ý tiếp tục thực
hiện hợp đồng chuyển nhượng với ông N.
Như vậy, theo nội dung hợp đồng đặt cọc ngày 16/12/2021 giữa bà N1 và ông
N, thì ông N là người vi phạm thỏa thuận trong hợp đồng, lỗi không thực hiện được
hợp đồng là do ông N, nên bà N1 không đồng ý trả lại số tiền đặt cọc 200.000.000
đồng theo yêu cầu khởi kiện của ông N.
*/ Quá trình giải quyết vụ án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Y
S Êban và bà H’N Ktul trình bày như sau:
Ông Y S và bà H’N là chủ sử dụng thửa đất số 11, tờ bản đồ số 58, địa chỉ tại
buôn K, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. Vào khoảng tháng 10/2021 bà Quách
Thị N1 có đến nhà ông Y S để thỏa thuận mua một phần diện tích đất khoảng
1.000m
2
. Sau đó gia đình ông Y S đã tách một phần thửa đất số 11 thành thửa đất số
103, tờ bản đồ 58, diện tích 1.220,8m
2
theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số
DĐ 230855 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đ cấp ngày 24/6/2022. Sau khi
hai bên thỏa thuận việc chuyển nhượng đất thì bà N1 không liên lạc với gia đình ông
Y S, bà H’N, mặc dù gia đình ông Y S đã nhiều lần liên lạc với bà N1 để hỏi việc có
tiếp tục thực hiện thỏa thuận không. Đến nay, đối với thửa đất bà N1 hỏi mua gia
đình ông Y S vẫn đang quản lý, sử dụng.
Ông Y S và H’N xác định việc bà Quách Thị N1 và ông Nguyễn Tiến N ký hợp
đồng đặt cọc để chuyển nhượng đất, thì ông bà không biết sự việc này, ông bà không
biết ông N là ai và cũng không đồng ý chuyển nhượng đất cho ông N. Việc bà N1
và ông N tự ý ký hợp đồng đặt cọc để chuyển nhượng thửa đất của gia đình ông bà
là vi phạm pháp luật, vì vậy đề nghị Tòa án giải quyết vụ án theo quy định của pháp
luật.
Tại Bn án dân sự sơ thẩm s 114/2024/DS-ST ngày 08/7/2024 của Toà án
nhân dân thành ph Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk đã quyết định:
Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39,
Điều 147, Điều 217, Điều 227, Điều 228, Điều 244, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật
tố tụng dân sự.
Áp dụng các Điều 116, 117, 122, 123, 328, 407 và 408 Bộ luật dân sự 2015.
Áp dụng Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường
vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí,
lệ phí Tòa án.
Tuyên xử: 1. Chấp nhận đơn khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Tiến N.
1.1. Tuyên hợp đồng đặt cọc được xác lập ngày 16/12/2021 giữa ông Nguyễn
Tiến N với và Quách Thị N1 bị vô hiệu. Buộc bà Quách Thị N1 phải trả lại cho ông
Nguyễn Tiến N số tiền đã nhận cọc 200.000.000 đồng.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi
thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu
khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản
2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.
4
1.2 Đình chỉ yêu cầu khởi kiện phạt cọc 200.000.000 đồng của ông Nguyễn
Tiến N.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí và tuyên quyền kháng cáo
cho các đương sự theo quy định của pháp luật.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 12/8/2024, người đại diện theo ủy quyền của bị
đơn là ông Phạm Trí T có đơn kháng cáo, với nội dung: Việc bà Quách Thị N1 và
ông Nguyễn Tiến N ký kết hợp đồng đặt cọc để chuyển nhượng đất là tự nguyện.
Sau đó bà N1 đã nhiều lần yêu cầu ông N ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất, nhưng ông N không thực hiện, vì lý do không chuẩn bị được tiền và không
sắp xếp được tài chính. Như vậy, ông N là người vi phạm hợp đồng đặt cọc, hai bên
không thực hiện được hợp đồng là do lỗi của ông N, nên đề nghị Tòa án cấp phúc
thẩm xét xử bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị đơn bà Quách Thị N1 giữ nguyên nội dung đơn
kháng cáo; nguyên đơn ông Nguyễn Tiến N vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk tham gia phiên tòa trình bày ý
kiến, với nội dung: Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán cũng
như tại phiên tòa, Hội đồng xét xử, Thư ký và các đương sự đã tuân thủ đúng các
quy định của pháp luật tố tụng dân sự; về nội dung: Đại diện Viện kiểm sát đã phân
tích, đánh giá về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, nội dung kháng cáo của bị đơn
và khẳng định quyết định của bản án sơ thẩm là có căn cứ và phù hợp với pháp luật,
nên yêu cầu kháng cáo bị đơn là không có căn cứ chấp nhận. Đại diện Viện kiểm sát
đề nghị Hội đồng xét xử:
Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự: Không chấp nhận của bị đơn
bà Quách Thị N1 và giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả
tranh tụng tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các tài liệu, chứng cứ,
lời trình bày của các đương sự và ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận
định như sau:
Đối với yêu cầu kháng cáo của bị đơn bà Quách Thị N1, xét thấy:
[1] Theo “Hợp đồng đặt cọc tiền việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài
sản gắn liền với đất” lập ngày 16/12/2021, thì ông Nguyễn Tiến N đặt cọc cho bà
Quách Thị N1 số tiền 200.000.000 đồng, để hai bên ký kết và tiến hành các thủ tục
chuyển nhượng diện tích đất là 1.000m
2
, đất có chiều ngang 25,5 mét, chiều dài 38,5
mét, thuộc thửa đất số 11, tờ bản đồ số 58, địa chỉ thửa đất tại buôn K, phường T,
thành phố B, tỉnh Đắk Lắk; giá thỏa thuận chuyển nhượng là 1.250.000.000 đồng;
hai bên thỏa thuận trong thời gian từ 60 ngày đến 120 ngày kể từ ngày đặt cọc sẽ
tiến hành thủ tục công chứng hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và ông N
sẽ thanh toán cho bà N1 số tiền chuyển nhượng còn lại.
[2] Về nội dung thỏa thuận, thì diện tích đất chuyển nhượng thuộc thửa đất số
58, tờ bản đồ số 11 tại buôn K, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk thuộc quyền
5
sử dụng của vợ chồng ông Y S Êban và bà H'N Ktul. Theo ông Y S trình bày, vợ
chồng ông thỏa thuận chuyển nhượng diện tích đất này cho bà Quách Thị N1 vào
tháng 10/2021, nhưng từ khi thỏa thuận chuyển nhượng đến nay, vợ chồng ông bà
đã nhiều lần liên hệ với bà N1 nhưng bà N1 không có liên lạc lại để bàn bạc việc
chuyển nhượng; đối với phần đất này thì hiện nay vợ chồng ông Y S đã làm thủ tục
tách thành thửa đất số 103, tờ bản đồ số 58, diện tích 1.220,8m
2
theo Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số DĐ 230855 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đ cấp
ngày 24/6/2022 đứng tên ông Y S Êban và bà H'N Ktul, hiện nay vợ chồng ông Y S
đang là người quản lý, sử dụng đất. Đồng thời ông Y S cũng xác định việc thỏa thuận
chuyển nhượng đất giữa bà N1 với ông Nguyễn Tiến N thì bà N1 không thông báo
cho ông biết và ông cũng không biết ông N là ai, bà N1 và ông N tự ý thỏa thuận
chuyển nhượng diện tích đất đứng tên vợ chồng ông là không đúng và ông cũng
không đồng ý chuyển nhượng đất cho ông N.
[3] Sau khi ký kết hợp đồng đặt cọc, ông N cho rằng lý do không ký kết được
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là do lỗi của bà N1 đã không thực hiện
nghĩa vụ theo thỏa thuận, còn bà N1 lại cho rằng lý do ông N khó khăn về tài chính,
không lo đủ tiền chuyển nhượng nên ông N là người có lỗi và vi phạm hợp đồng đặt
cọc. Xét thấy: Khi thỏa thuận đặt cọc thì bà N1 và ông N đều biết quyền sử dụng
thỏa thuận chuyển nhượng đứng tên ông Y S Êban và bà H'N Ktul, nhưng các kết
vẫn thỏa thuận ký kết hợp đồng đặt cọc mà không có ý kiến đồng ý và không thông
báo cho ông Y S và bà H’N, là không đúng và trái quy định của pháp luật; đồng thời,
ông Y S và bà H’N xác định ông bà chỉ thỏa thuận sẽ chuyển nhượng đất cho bà N1
nhưng các bên vẫn chưa thực hiện và ông, bà không đồng ý việc chuyển nhượng đất
cho ông N. Do đó, bà N1 không có quyền tự định đoạt đối với quyền sử dụng đất mà
bà và ông N thỏa thuận chuyển nhượng và hai bên không thể tiếp tục thực hiện được
hợp đồng đặt cọc để chuyển nhượng đất. Đối với ý kiến của bà N1 cho rằng khi thỏa
thuận chuyển nhượng đất cho ông N thì vợ chồng ông Y S, bà H’N có biết và đồng
ý. Tuy nhiên ông Y S và H’N không thừa nhận việc này và bà N1 cũng không cung
cấp được chứng cứ chứng minh cho lời trình bày của mình.
[4] Như vậy, Hợp đồng đặt cọc tiền việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất và
tài sản gắn liền với đất lập ngày 16/12/2021, giữa bà Quách Thị N1 với ông Nguyễn
Tiến N đã bị vô hiệu tại thời điểm giao kết do vi phạm điều cấm của luật, theo quy
định tại Điều 117, Điều 122 và Điều 123 của Bộ luật dân sự. Lỗi dẫn đến hợp đồng
đặt cọc vô hiệu là do cả hai bên, nên các bên phải giao trả cho nhau những gì đã
nhận. Như vậy, bản án sơ thẩm đã chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn
Tiến N, tuyên hợp đồng đặt cọc vô hiệu và buộc bà Quách Thị N1 phải trả lại cho
ông Nguyễn Tiến N số tiền đã nhận cọc 200.000.000 đồng, là có căn cứ và đúng
pháp luật. Do đó kháng cáo của bị đơn bà Quách Thị N1 là không có cơ sở chấp
nhận và cần giữ nguyên bản án sơ thẩm.
[5] Về án phí phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận, nên bị đơn bà
Quách Thị N1 phải 300.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm và được khấu trừ vào số
tiền tạm ứng án phí đã nộp.
[6] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị,
có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
6
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự.
Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn bà Quách Thị N1; giữ nguyên Bản án
dân sự sơ thẩm số: 114/2024/DS-ST ngày 08/7/2024 của Toà án nhân dân thành phố
Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.
Áp dụng: Khoản 1 Điều 117, Điều 122, Điều 123 và Điều 131 của Bộ luật dân
sự năm 2015; Điều 167, 168 của Luật Đất đai; Điều 26 và Điều 29 của Nghị quyết
số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Tiến N.
1. Tuyên bố Hợp đồng đặt cọc tiền chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài
sản gắn liền với đất lập ngày 16/12/2021, giữa bà Quách Thị N1 với ông Nguyễn
Tiến N, đối với phần diện tích đất à 1.000m
2
, có chiều ngang 25,5 mét, chiều dài
38,5 mét, thuộc thửa đất số 11, tờ bản đồ số 58, địa chỉ thửa đất tại buôn K, phường
T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk, là vô hiệu.
2. Buộc bà Quách Thị N1 phải trả lại cho ông Nguyễn Tiến N số tiền đặt cọc
đã nhận là 200.000.000 đồng (hai trăm triệu đồng).
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi
thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền phải
thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm
2015.
3. Đình chỉ yêu cầu khởi kiện phạt cọc số tiền là 200.000.000 đồng của ông
Nguyễn Tiến N.
4. Về án phí:
4.1. Án phí dân sự sơ thẩm: Bị đơn bà Quách Thị N1 phải chịu 10.000.000 đồng
án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch.
Nguyên đơn ông Nguyễn Tiến N không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm và
được nhận lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 10.000.000 đồng mà ông N đã nộp
theo Biên lai thu số AA/2022/0004513 ngày 22/9/2023 của Chi cục thi hành án dân
sự thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.
4.2. Án phí dân sự phúc thẩm: Bà Quách Thị N1 phải chịu 300.000 đồng án phí
dân sự phúc thẩm, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng
(do ông Phạm Trí T nộp thay) theo Biên lai thu số AA/2023/0013471 ngày 04/9/2024
của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.
5. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm, không có kháng cáo, kháng nghị
có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi
hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền
thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị
7
cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 của Luật Thi hành
án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi
hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- TAND tối cao (Vụ 2)
- TAND cấp cao tại Đà Nẵng;
- VKSND tỉnh Đắk Lắk;
- TAND Tp. Buôn Ma Thuột;
- Chi cục THADS Tp. B;
- Các đương sự;
- Lưu.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
Trương Công Bình
Tải về
Bản án số 326/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 326/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 17/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 10/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 03/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 27/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 26/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 22/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 18/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 18/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 14/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 11/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 11/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 11/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 08/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 07/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 06/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 24/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 04/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 04/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 03/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 01/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm