Bản án số 265/2024/QĐ-PT ngày 12/12/2024 của TAND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu về tranh chấp hợp đồng đặt cọc

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 265/2024/QĐ-PT

Tên Bản án: Bản án số 265/2024/QĐ-PT ngày 12/12/2024 của TAND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu về tranh chấp hợp đồng đặt cọc
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng đặt cọc
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
Số hiệu: 265/2024/QĐ-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 12/12/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Ông Huỳnh Văn P khởi kiện ông Nguyễn Thế M về tranh chấp hợp đồng đặt cọc
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TNH BÀ RA - VŨNG TÀU
Bn án s 265/2024/DS-PT
Ngày 12 - 12 - 2024
V/v “Tranh chấp hợp đồng đặt cọc
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lp - T do - Hnh phúc
NHÂN DANH
C CNG HÒA XÃ HI CH NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TNH BÀ RA - VŨNG TÀU
- Thành phn Hội đồng xét x phúc thm gm có:
Thm phán Ch ta phiên tòa: Ông Cao Xuân Long
Các Thm phán: Bà Đào Thị Hu
Ông Cao Minh V
- Thư ký phiên tòa: Bà H Th Tâm Thư ký Tòa án nhân dân tnh Bà Ra
- Vũng Tàu.
- Đại din Vin kim sát nhân dân tnh Ra - Vũng Tàu tham gia
phiên tòa: Ông Vũ Duyên Trường - Kim sát viên.
Trong các ngày 06, 12 tháng 12 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh
Bà Rịa - Vũng Tàu xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số
165/2024/TLPT-DS ngày 01/10/2024 về việc “Tranh chấp hợp đồng đặt cọc”.
Do bản án dân sự thẩm số 16/2024/DS-ST ngày 10/5/2024 của Tòa án
nhân dân huyện Châu Đức bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 312/2024/QĐ-PT ngày
29/10/2024 Quyết định hoãn phiên tòa số 288/2024/QĐ-PT ngày 21/11/2024
giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Huỳnh Văn P, sinh năm 1971 (vắng mặt).
Địa chỉ: Thôn N (nay là thôn B), xã Đ, huyện C, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Bà Huỳnh Thị Kim L, sinh
năm 1976; địa chỉ: Thôn N (nay là thôn B), Đ, huyện C, tỉnh Rịa - Vũng
Tàu (có mặt) ông Dương H, sinh năm 1979; địa chỉ: 8 N, phường P, thành
phố T, Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).
- Bị đơn: Ông Nguyễn Thế M, sinh năm 1978 (vắng mặt);
Địa chỉ: Số H, đường B, Phường A, thành phố V, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn: Nguyễn Thị T, sinh năm
1985; địa chỉ: A B, Phường H, thành phố V, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (có mặt).
2
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Văn phòng C1;
Địa chỉ: Số C, đường N, khu phố N, thị trấn N, huyện C, tỉnh Rịa -
Vũng Tàu.
Người đại diện theo pháp luật: ông Trần Tuấn T1, chức vụ: Trưởng Văn
phòng (vắng mặt).
- Người kháng cáo: Ông Nguyễn Thế M, sinh năm 1978; bị đơn trong
vụ án.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
1. Trong đơn khởi kiện quá trình tố tụng tại Toà án, nguyên đơn - ông
Huỳnh Văn P và đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày:
Ngày 22 tháng 5 năm 2021, ông Huỳnh Văn P đồng ý chuyển nhượng
cho ông Nguyễn Thế M quyền sử dụng đất đối với phần diện tích 1760m
2
(Ngang 40m, dài 44m, tính bắt đầu từ cạnh 3-4 sang cạnh 2-1) thuộc thửa đất số:
614, tờ bản đồ số 34, có tổng diện tích là 4.963m
2
, đất tọa lạc tại xã Đ, huyện C,
tỉnh Rịa - Vũng Tàu. Gchuyển nhượng là: 3.320.000.000 đồng (Ba tỷ, ba
trăm hai mươi triệu đồng).
Cùng ngày, ông P ông M Hợp đồng đặt cọc chuyển quyền sử
dụng đất tài sản khác gắn liền với đất ngày 22/5/2021. Ngay sau khi Hợp
đồng, ông M đặt cọc lần thứ nhất cho ông P số tiền 150.000.000 đồng (Một trăm
năm mươi triệu đồng).
Đến ngày 29/5/2021, ông M đặt cọc lần thứ hai cho ông P số tiền
750.000.000 đồng (Bảy trăm năm mươi triệu đồng). Cùng ngày hôm đó giữa
ông P và ông M có ký với nhau Hợp đồng đặt cọc số công chứng 5014, quyển số
01/2021/TP/CC –SCC/HĐGD tại Văn phòng C1. Như vậy tổng số tiền mà ông P
đã nhận cọc của ông M 900.000.000 đồng (Chín trăm triệu đồng). Theo Hợp
đồng đặt cọc ngày 29/5/2021 thì ban đầu hai bên thỏa thuận ông P nhiệm
vụ đăng ký tách thửa, lên 100m
2
thổ cư. Nhưng vì lý do hai bên báo thời gian từ
05 đến 06 tháng mới xong, nên ông M không đồng ý đnghị giao cho ông
Nguyễn Chí C (ông C người đại diện pháp cho bên ông M, ng
người làm chứng trong việc nhận chuyển nhượng giữa ông P ông M) thực
hiện mọi thủ tục pháp tách thửa lên thổ cư. Ông M cam đoan thời hạn
trong vòng 02 đến 03 tháng là hoàn thành các thủ tục tách thửa và lên thổ cư nên
ông P đồng ý giao cho ông C thực hiện các công việc trên.
Đến đầu tháng 06, ông Nguyễn Chí C có đưa ông P đi làm thủ tục đăng ký
lên thổ cư. Từ đó cho đến ngày 18/10/2021 ông C đến nhà ông P lấy giấy tờ
đi đóng tiền lên thổ cư. Trong thời gian đó ông P gọi điện hỏi ông M làm các
thủ tục giấy tờ đã đến đâu và bao giờ mới xong, thì bên ông M đùn đẩy hết hoàn
toàn trách nhiệm cho ông Nguyễn Chí C. Sau đó ông P liên lạc với ông C
nhận được câu trả lời là ngày 15/11/2021 sẽ xong mọi thủ tục giấy tờ, nhưng đến
3
ngày 15/11/2021 ông P không nhận được bất cứ thông tin nào và giấy tu
trên.
Khoảng ngày 27/11/2021, con của ông P đã đến văn phòng riêng của ông
C, tọa lạc tại xã B, huyện C để hỏi về kết quả làm thủ tục giấy tờ thì được ông C
trả lời chưa hoàn thành thủ tục tách thửa với do Sở Tài nguyên Môi
trường dừng việc tách thửa.
thời gian hai bên chờ đợi 06 tháng quá lâu, nên gia đình ông P yêu
cầu ông C trả lại tn bộ hồ sơ, sổ hồng của thửa đất trên, đến ngày 01/12/2021
ông C đã trả lại sổ hồng cho gia đình ông P nhưng không kèm thêm bất cứ giấy
tờ gì.
Trong thời gian này, ông P gọi cho ông M gặp mặt để thỏa thuận
yêu cầu ông M trả thêm 2.000.000.000 đồng (Hai tỷ đồng), khi nào Nhà nước
cho tách thửa được thì tách, còn lại: 420.000.000 đồng (Bốn trăm hai mươi triệu
đồng) sẽ thanh toán khi hoàn thành sổ. Nhưng bên ông M không đồng ý tỏ
thái độ không hợp tác, tránh né, ông P đã nhiều lần gọi nhưng ông M không
nghe máy.
Sau đó ông P đến Phòng T2 Chi nhánh Văn phòng đăng đất đai
huyện C làm thủ tục tách thửa thì được biết thửa đất của ông P, không đủ điều
kiện để tách thửa (Nhà nước không cho tách thửa), nên không thể tiếp tục thực
hiện hợp đồng chuyển nhượng cho ông Nguyễn Thế M. Việc không thể chuyển
nhượng được quyền sử dụng đất không phải lỗi do ông P; nên ngày 05/12/2021,
ông P tiếp tục liên lạc với ông M để đàm phán đề nghị hủy hợp đồng đặt cọc
chuyển nhượng quyền sử dụng đất ông P sẽ hoàn trả số tiền ông P đã
nhận cọc là: 900.000.000 đồng (Chín trăm triệu đồng) cho ông M với do như
trên, nhưng ông M không đồng ý và không thiện chí hợp tác với ông P.
Nay ông P đề nghị Tòa án nhân dân huyện Châu Đức giải quyết với nội
dung như sau:
- Tuyên hủy Hợp đồng đặt cọc chuyển quyền sử dụng đất tài sản khác
gắn liền với đất ngày 22/5/2021 được ký giữa ông Huỳnh Văn P với ông
Nguyễn Thế M;
- Tuyên hủy Hợp đồng đặt cọc chuyển nhượng quyền sử dụng đất tài
sản khác gắn liền với đất đối với diện tích đất 1.760m
2
, thuộc thửa đất số 614, tờ
bản đồ số 34, tọa lạc tại Đ, huyện C, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, Hợp đồng được
công chứng tại Văn phòng công chứng Trần Tuấn T1 theo số công chng 5014,
quyển số 01/2021TP/CC-SCC/HĐGD ngày 29/05/2021, được kết giữa ông
Huỳnh Văn P với ông Nguyễn Thế M.
- Ông P đồng ý trả lại ông M số tiền 900.000.000 đồng (Chín trăm triệu
đồng) mà ông P đã nhận đặt cọc của ông M.
2. Trong quá trình tố tụng tại Tòa án, bị đơn - ông Nguyễn Thế M
người đại diện theo ủy quyền của bị đơn trình bày:
4
Ông M thống nhất với ông Huỳnh Văn P ngày 22/5/2021, ông M
thỏa thuận nhận chuyển nhượng của ông Huỳnh Văn P quyền sử dụng đất với
phần diện tích tích 1.760m
2
(Ngang 40m, dài 44m, tính bắt đầu từ cạnh 3-4 sang
cạnh 2-1) trong tổng diện tích 4.963m
2
, thuộc thửa đất số 614, tờ bản đồ số
34, tọa lạc tại Đ, huyện C, tỉnh Rịa Vũng Tàu. Giá chuyển nhượng là:
3.320.000.000 đồng (Ba tỷ, ba trăm hai mươi triệu đồng).
Cùng ngày hôm đó, giữa ông P và ông M có ký Hợp đồng đặt cọc chuyển
quyền sử dụng đất và tài sản khác gắn liền với đất ngày 22/5/2021. Ngay sau khi
Hợp đồng, ông M đặt cọc lần thứ nhất cho ông P 150.000.000 đồng (Một
trăm năm mươi triệu đồng).
Đến ngày 29/5/2021, ông M đặt cọc lần thứ hai cho ông P số tiền
750.000.000 đồng (Bảy trăm năm mươi triệu đồng). Cùng ngày hôm đó giữa
ông P và ông M có ký với nhau Hợp đồng đặt cọc số công chứng 5014, quyển số
01/2021/TP/CC –SCC/HĐGD tại Văn phòng C1. Như vậy tổng số tiền mà ông P
đã nhận của ông M là 900.000.000 đồng (Chín trăm triệu đồng). Theo Hợp đồng
đặt cọc ngày 29/5/2021 thì ban đầu hai bên thỏa thuận ông P nhiệm vụ
đăng ký tách thửa, lên 100m
2
thổ cư.
Nhưng vì thời gian để đăng ký tách thửa kéo dài nên hai bên giao cho ông
C thực hiện việc tách thửa.
Việc giao nhận giấy tờ thỏa thuận giữa ông P với ông C về việc ủy
quyền làm thủ tục tách thửa ông M không nắm rõ, đó là việc của hai bên. Ông M
chỉ nghĩa vụ trả tiền nhận chuyển nhượng. Tuy nhiên thời gian trôi qua
khá lâu, nhưng ông M vẫn chưa được nhận được diện tích đất chuyển nhượng.
Đến nay, đã quá thời hạn thỏa thuận trong hợp đồng, do đó ảnh hưởng rất nhiều
đến quyền và lợi ích hợp pháp của ông M. Ông P đã vi phạm thỏa thuận tại điều
3 Hợp đồng đặt cọc ngày 29/5/2021 được ký kết giữa ông P và ông M.
Ông P gọi cho ông M gặp mặt để thỏa thuận yêu cầu ông M trả
thêm 2.000.000.000 đồng, số tiền còn lại 420.000.000 đồng sthanh toán khi
thành sổ, nhưng ông M không đồng ý với đề nghị này của ông P.
Căn cứ theo thỏa thuận tại Hợp đồng đặt cọc ngày 29/5/2021, ông P đã vi
phạm hợp đồng, do đó ông P phải hoàn trả lại cho ông M stiền 900.000.000
đồng và phải chịu khoản tiền phạt cọc tương đương với số tiền ông M đã đặt cọc
là 900.000.000 đồng. Như vậy, tổng cộng ông P phải hoàn trả cho ông M số tiền
là 1.800.000.000 đồng.
Trường hợp ông P tiếp tục chuyển nhượng thì sau khi làm thủ tục tách
thửa, ông M đồng ý tiếp tục mua và trả tiền đầy đcho ông P chậm nhất là ngày
23/5/2024 phải công chứng xong.
Từ những nội dung trình bày nêu trên ông M cho rằng yêu cầu khởi kiện
của nguyên đơn là không cơ sở, do đó ông M không đồng ý với yêu cầu khởi
kiện của ông P, yêu cầu ông P phải hoàn trả cho ông M 1.800.000.000 đồng.
5
3. Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Văn phòng công chứng Trần
Tuấn T1 trình bày:
Văn phòng C1 không ý kiến đối với yêu cầu của các đương sự. Văn
phòng C2 các quyết định của tòa án.
4. Tại Bản án dân sự thẩm số 16/2024/DS-ST ngày 10/5/2024 của Tòa
án nhân dân huyện Châu Đức đã tuyên xử:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Huỳnh Văn P đối với ông Nguyễn
Thế M về việc “Tranh chấp hợp đồng đặt cọc về việc chuyển nhượng quyền sử
dụng đất”:
Hủy hợp đồng đặt cọc chuyển quyền sử dụng đất tài sản khác gắn liền
với đất lập ngày 22/5/2021 (giấy viết tay) giữa ông Huỳnh Văn P với ông
Nguyễn Thế M Hủy Hợp đồng đặt cọc ngày 29/5/2021 giữa ông Huỳnh Văn
P với ông Nguyễn Thế M, số công chứng 5014, quyển số 01/2021 TP/CC
SCC/HĐGD do Văn phòng C1 chứng thực.
Buộc ông Huỳnh Văn P phải hoàn trả cho ông Nguyễn Thế M số tiền đặt
cọc là 900.000.000đ (Chín trăm triệu đồng).
Kể từ ngày người được thi hành án đơn yêu cầu thi hành án, nếu bên
phải thi hành án chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền thì còn phải chịu tiền lãi theo
mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự tương ứng với số tiền
và thời gian chậm thi hành án.
Ngoài ra bản án thẩm còn tuyên về án phí quyền kháng cáo của các
bên đương sự theo quy định của pháp luật.
5. Nội dung kháng cáo:
Ngày 24/5/2024, Tòa án nhân dân huyện Châu Đức nhận được đơn kháng
cáo của bị đơn ông Nguyễn Thế M nội dung yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm
giải quyết: Hủy bản án dân sự thẩm s16/2024/DS-ST ngày 10/5/2024 của
Tòa án nhân dân huyện Châu Đức để trả về cấp thẩm xét xử lại theo thủ tục
chung.
6. Tại phiên tòa phúc thẩm:
Các đương sự không cung cấp thêm tài liệu, chứng cứ mới; nguyên đơn
giữ nguyên yêu cầu khởi kiện; người kháng cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.
7. Kiểm sát viên phát biểu ý kiến:
Về tố tụng: Quá trình thụ lý, giải quyết vụ án và tại phiên tòa, Thẩm phán,
thành viên Hội đồng xét xử những người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng
quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2 Điều 308, Điều
309 Bộ luật tố tụng dân sự, tuyên xử: Chấp nhận một phần kháng cáo của ông
Nguyễn Thế M; Sửa bản án dân sự sơ thẩm số 16/2024/DS-ST ngày 10/5/2024
của Toà án nhân dân huyện Châu Đức, tỉnh Rịa Vũng Tàu theo hướng
6
không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Huỳnh Văn P đối với ông Nguyễn
Thế M. Ông Huỳnh Văn P nghĩa vụ thực hiện Hợp đồng đặt cọc ngày
22/5/2021 Hợp đồng đặt cọc ngày 29/5/2021 đã kết; trường hợp tchối
không thực hiện hợp đồng thì phải hoàn trả cho ông Nguyễn Thế M số tiền đặt
cọc và bồi thường một khoản tiền tương đương số tiền đặt cọc.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu trong hồ vụ án, được thẩm tra tại
phiên tòa, căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của kiểm sát viên; Hội
đồng xét xử phúc thẩm nhận định:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Đơn kháng cáo của ông Nguyễn Thế M đảm bảo đúng thủ tục, nội
dung nộp trong thời hạn theo quy định tại các Điều 272, 273 của Bộ luật Tố
tụng dân snên hợp lệ; Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận xem xét lại bản
án sơ thẩm theo trình tự phúc thẩm.
[1.2] Xét sự vắng mặt của đương sự tại phiên tòa: Các đương sự vắng
mặt đã được Tòa án triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa, nhưng vắng mặt tại
phiên tòa lần thứ hai không sự kiện bất khả kháng hay trở ngại khách quan,
căn cứ vào Điều 296 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ
án.
[2] Xét yêu cầu kháng cáo của ông Nguyễn Thế M thì thấy:
[2.1] Về nội dung của hợp đồng đặt cọc việc thực hiện hợp đồng đặt
cọc:
Ngày 22 tháng 5 năm 2021, ông Huỳnh Văn P ông Nguyễn Thế M
hợp đồng đặt cọc chuyển quyền sử dụng đất (bên đặt cọc ông M bên nhận
cọc ông P) đối với phần diện tích 1.760m
2
(Ngang 40m, dài 44m) thuộc một
phần thửa đất số 614, tờ bản đồ số 34, tọa lạc tại Đ, huyện C, tỉnh Rịa -
Vũng Tàu. Giá chuyển nhượng là: 3.320.000.000 đồng (Ba t, ba trăm hai ơi
triệu đồng), tương đương 83 triệu/m ngang. Hai bên thỏa thuận đặt cọc:
Lần 1, ngày 22/5/2021 số tiền 150.000.000 đồng;
Lần 2, ngày 29/5/2021 số tiền 750.000.000 đồng.
Lần 3, trong vòng 90 ngày kể từ ngày 22/5/2021 đến ngày 22/8/2021 hai
bên sẽ ra Phòng công chứng hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
tài sản khác gắn liền với đất; sau khi hợp đồng ông M thanh toán số tiền còn
lại cho ông P 2.420.000.000 đồng.
Thỏa thuận riêng hai bên: Khi nào xong sổ, bên bán đất báo trước cho bên
mua 10 ngày (bên bán mua giúp 300m
2
ONT phí ông M chịu) …. Trường hợp
ông P không cung cấp giấy tờ liên quan về thửa đất, hay thửa đất bị tranh chấp,
đổi ý không bán thì phải bồi thường gấp 02 lần số tiền ông M đã đặt cọc.
7
Trường hợp ông M không đúng hạn theo thỏa thuận đặt cọc thì sẽ mất toàn bộ số
tiền đã đặt cọc.
Ngoài ra, ông P và ông M còn thỏa thuận một số nội dung khác như: trách
nhiệm đăng ký sang tên, tiền hoa hồng môi giới.
Ngày 28/5/2021, ông M và ông P viết thêm nội dung vào mặt phía sau của
hợp đồng đặt cọc ngày 22/5/2021 nội dung: Tôi Nguyễn Thế M đã giao tiền
đặt cọc đất thửa 614, tờ bản đồ số 34, số tiền 900.000.000 đ (Chín trăm
triệu đồng). Tôi cam đoan mọi thuế, phí bên tôi (Bên mua) chịu hoàn toàn, thời
gian công chứng phụ thuộc vào việc ra sổ đỏ, lên thổ cư, khi sổ bên bán đất
báo trước cho bên mua 10 ngày để chuẩn bị. Các thủ tục tách thửa, lên thổ
bên mua chịu tiền, kể cả vượt mức thổ cư cho phép. Quá thời hạn 10 ngày (kể từ
ngày bên bán đất báo cho bên mua không ra công chứng thì bên mua mất
toàn bộ số tiền đặt cọc.
Ngày 29/5/2021, ông P ông M lại hợp đồng đặt cọc được Văn
phòng C1 xác nhận, nội dung giống như thỏa thuận trên thỏa thuận thời hạn
đặt cọc: Trong vòng 90 ngày kể từ ngày hợp đồng này được công chứng, bên B
(ông P) sẽ tiến hành thủ tục đo vẽ, tách thửa, xin chuyển mục đích sdụng đất,
ngay sau khi có bản vẽ tách thửa được Văn phòng Đăng đất đai tỉnh B
Chi nhánh huyện C duyệt thì ông P sẽ thông báo cho ông M trước 10 ngày, hết
thời hạn 10 ngày thông báo thì hai bên sẽ ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất, giao tiền và các giấy tờ pháp lý về quyền sử dụng đất.
[2.2] Theo xác nhận của ông P, ông M căn cứ vào nội dung của hợp
đồng thì: Các bên cùng xác định thủ tục tách thửa đất sẽ lâu nên hai bên thỏa
thuận khi nào tách thửa đất ra sổ riêng thì ông P sẽ báo cho ông M trước 10 ngày
để chuẩn bị tiền và ra phòng công chứng ký hợp đồng chuyển nhượng. Do đó, cả
ông M và ông P cùng thống nhất không hạn chế thời gian tách thửa và lên thổ cư
như thỏa thuận được ghi trong hợp đồng đặt cọc ngày 22/5/2021. Như vậy, ông
P và ông M không thỏa thuận cụ thể ngày kết hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất, các bên xác định thời hạn giao kết hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất bằng sự kiện pháp lý là khi tách được sổ đỏ và ông P
phải báo trước cho ông M 10 ngày.
[2.3] Xét lỗi dẫn đến việc ông Huỳnh Văn Pông Nguyễn Thế M không
kết được hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với diện ch đất
1.760 m
2
(ngang 40 m x dài 44 m) thuộc một phần thửa đất số 614, tờ bản đồ số
34, tại xã Đ, huyện C thì thấy:
Tại Hợp đồng đặt cọc ngày 29/5/2021, hai bên thỏa thuận ông P
nhiệm vụ đăng ký tách thửa, xin chuyển mục đích sử dụng đất. Sau đó, ông P và
ông M cùng đồng ý giao cho ông Nguyễn Chí C (ông C người làm chứng
trong việc hợp đồng đặt cọc nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa
ông P và ông M) thc hiện mọi thủ tục pháp lý tách thửa và chuyển mục đích sử
dụng đất. Trong khoảng thời gian từ tháng 6/2021 đến ngày 15/11/2021 việc
thực hiện nghĩa vụ làm thủ tục tách thửa lên thổ của ông Nguyễn Chí C
8
không có kết quả. Đến ngày 01/12/2021 ông C trả lại Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất cho ông P chưa tách được thửa đất theo thỏa thuận của ông P với
ông M.
Theo ông P thì: Khi nhận lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất từ tháng
12/2021 ông P thiện chí muốn chuyển nhượng thửa đất trên cho ông M
yêu cầu ông M trả thêm số tiền 2.000.000.000 đồng, đến khi cho tách thửa ra
sổ thì trả thêm 420.000.000 đồng, nhưng ông M không đồng ý tỏ thái độ
không hợp tác, tránh né, ông P đã nhiều lần gọi nhưng ông M không nghe máy.
Đến ngày 29/12/2021, ông P nộp đơn khởi kiện ông M để yêu cầu hủy hợp đồng
đặt cọc ngày 29/5/2021 và hợp đồng đặt cọc ngày 22/5/2021.
Hội đồng xét xử xét thấy: Đến tháng 12/2021, ông P chưa thực hiện xong
thủ tục tách thửa đối với diện tích 1.760m
2
(Ngang 40m, dài 44m) thuộc một
phần thửa đất số 614, tờ bản đồ số 34, tọa lạc tại Đ, huyện C, tỉnh Rịa -
Vũng Tàu; do đó sở để xác định chưa đến thời hạn để các bên kết hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại Phòng Công chứng. Việc ông P yêu
cầu ông M đưa thêm số tiền 2.000.000.000 đồng, trong thời gian chờ Nhà nước
cho tách thửa ra sổ riêng không đúng nội dung các bên đã thỏa thuận
trong hợp đồng đặt cọc ngày 29/5/2021. Ông M được quyền từ chối thực hiện
việc thanh toán thêm số tiền 2.000.000.000 đồng theo yêu cầu của ông P. Đến
ngày 29/12/2021, ông P nộp đơn khởi kiện ông M đyêu cầu hủy hợp đồng đặt
cọc ngày 29/5/2021 và hợp đồng đặt cọc ngày 21/5/2021, điều này chứng tỏ ông
P không đồng ý tiếp tục thực hiện hợp đồng đặt cọc ngày 29/5/2021 và hợp đồng
đặt cọc ngày 21/5/2021 với ông M.
Ông Huỳnh Văn P không cung cấp được chứng cứ chứng minh đến thời
điểm xét xử thẩm (ngày 10/5/2024) thửa đất số 614, tờ bản đồ số 34, tổng
diện tích là 4.963m
2
, tọa lạc tại xã Đ, huyện C, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu không đủ
điều kiện để tách thửa.
Mặt khác, Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng Quyết định số 15/2021/QĐ-UBND
ngày 20/9/2021 của UBND tỉnh B quy định về điều kiện tách thửa đất, hợp thửa
đất và diện tích tối thiểu được tách thửa đối với từng loại đất trên địa bàn tỉnh Bà
Rịa - Vũng Tàu để nhận định: Thửa đất số 614, tờ bản đồ số 34, tổng diện
tích 4.963m
2
, tọa lạc tại Đ, huyện C, tỉnh Rịa - Vũng Tàu không đủ điều
kiện để tách thửa và xác định đây là trở ngại khách quan là không có căn cứ. Bởi
lẽ, tính đến thời điểm xét xử thẩm t Quyết định số 15/2021/QĐ-UBND
ngày 20/9/2021 của UBND tỉnh B quy định về điều kiện tách thửa đất, hợp thửa
đất và diện tích tối thiểu được tách thửa đối với từng loại đất trên địa bàn tỉnh Bà
Rịa - Vũng Tàu đã được thay thế bằng Quyết định số 44/2023/QĐ-UBND ngày
19/9/2023 của Ủy ban nhân dân tỉnh B.
Tại Điều 3 của Quyết định số 44/2023/QĐ-UBND ngày 19/9/2023 quy
định về điều kiện thửa đất được phép tách thửa, hợp thửa:
“1. Điều kiện chung: thửa đất đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất; Giấy chứng nhận quyền shữu nhà quyền sử dụng đất ở; Giấy
9
chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà tài sản khác gắn liền với
đất (sau đây gọi chung là Giấy chứng nhận).
2. Điều kiện thực hiện tách thửa đối với hộ gia đình, cá nhân
a) Việc chia tách thửa đất để hình thành thửa đất mới phải đảm bảo
quyền sử dụng hạn chế đối với thửa đất liền kề theo quy định tại Điều 171 Luật
Đất đai năm 2013.
b) Diện tích của các thửa đất sau khi tách thửa phải bằng hoặc lớn hơn
diện tích tối thiểu được quy định tại khoản 1 khoản 2 Điều 4 của Quyết định
này.
c) Việc tách thửa được thực hiện theo quy hoạch sử dụng đất quy
hoạch chi tiết xây dựng tlệ 1/500 đã được quan thẩm quyền phê duyệt.
Trường hợp chưa quy hoạch chi tiết xây dựng tỷ lệ 1/500 thì áp dụng quy
hoạch phân khu xây dựng tỷ lệ 1/2.000 đã được quan thẩm quyền phê
duyệt, trường hợp chưa quy hoạch phân khu xây dựng tỷ lệ 1/2.000 thì áp
dụng quy hoạch phân khu xây dựng tỷ lệ 1/5.000 đã được quan thẩm
quyền phê duyệt, trường hợp chưa quy hoạch phân khu xây dựng tỷ lệ
1/5.000 táp dụng quy hoạch chung xây dựng tỷ l1/10.000 đã được quan
có thẩm quyền phê duyệt. Riêng đất nông nghiệp thuộc quy hoạch sử dụng đất là
đất nông nghiệp không áp dụng các quy hoạch xây dựng trên khi giải quyết thủ
tục tách thửa.
d) Thửa đất thuộc khu vực quy hoạch đất ở, đất thương mại dịch vụ và đất
sở sản xuất phi nông nghiệp sau khi tách thửa phải ít nhất một cạnh tiếp
giáp với đường giao thông do Nhà nước quản lý, kích thước của cạnh tiếp giáp
phải đảm bảo kích thước tối thiểu như quy định tại khoản 1 Điều 4 của Quyết
định này”.
Tại Điều 4 của Quyết định số 44/2023/QĐ-UBND ngày 19/9/2023 quy
định diện tích đất tối thiểu sau khi tách thửa:
“Diện tích tối thiểu kích thước các thửa đất sau khi tách thửa (không
bao gồm phần diện tích hành lang lộ giới, đường giao thông đã quy hoạch)
phải đảm bảo:
1. Đối với đất đất thương mại dịch vụ, đất sở sản xuất phi nông
nghiệp
a) Đất ở
Áp dụng tại khu vực thuộc phường, thị trấn huyện C diện tích
kích thước thửa đất: từ 60m
2
trở lên cạnh tiếp giáp với đường giao thông
do Nhà nước quản không nhỏ hơn 5m chiều sâu thửa đất không nhỏ hơn
5m. Tại địa bàn các còn lại diện tích kích thước thửa đất: từ 80m
2
trở
lên cạnh tiếp giáp với đường giao thông do Nhà nước quản không nhỏ
hơn 5m và chiều sâu thửa đất không nhỏ hơn 5m.
b) Đất thương mại dịch vụ, đất cơ sở sản xuất phi nông nghiệp
10
Diện tích kích thước thửa đất: từ 100m
2
trở lên cạnh tiếp giáp
với đường giao thông do Nhà nước quản lý không nhỏ hơn 5m và chiều sâu thửa
đất không nhỏ hơn 5m.
2. Đối với đất nông nghiệp
a) Đất trồng lúa thuộc khu vực quy hoạch đất nông nghiệp: diện tích tối
thiểu của các thửa đất sau khi tách thửa tại địa bàn các phường, thị trấn thuộc
các huyện, thị xã, thành phố huyện C 500m
2
; tại địa bàn các còn lại
1.000m
2
.
b) Thuộc khu vực quy hoạch đất ng nghiệp (trừ đất trồng lúa đã được
quy định tại điểm a khoản 2 Điều 4 của Quyết định này), quy hoạch đất ở, đất
thương mại dịch vụ hoặc đất sở sản xuất phi nông nghiệp: các thửa đất sau
khi tách thửa phải đảm bảo diện tích tối thiểu như quy định tại điểm a khoản 2
Điều 4 của Quyết định này và phải có ít nhất một cạnh tiếp giáp với đường giao
thông do Nhà nước quản lý, kích thước của cạnh tiếp giáp không nhỏ hơn 5m”.
Như vậy, căn cứ vào Điều 3, Điều 4 Quyết định số 44/2023/QĐ-UBND
ngày 19/9/2023 của Ủy ban nhân dân tỉnh B tđến ngày xét xử thẩm (ngày
10/5/2024) diện tích 1.760m
2
(Ngang 40m, dài 44m) thuộc một phần thửa đất số
614, tờ bản đồ số 34, tọa lạc tại Đ, huyện C, tỉnh Rịa - Vũng Tàu đủ điều
kiện tách thửa riêng.
Nay ông Nguyễn Thế M vẫn đồng ý tiếp tục thực hiện hợp đồng đặt cọc
ngày 29/5/2021, nhưng ông Huỳnh Văn P tchối không thực hiện thủ tục tách
thửa để tách sổ riêng, đây là nguyên nhân dẫn đến các bên không thực hiện được
việc giao kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Do đó, lỗi hoàn toàn
thuộc về ông Huỳnh Văn P, không phải do trở ngại khách quan. Căn cứ quy định
tại Điều 328 Bộ luật dân sự 2015 sự thỏa thuận của các bên trong hợp đồng
đặt cọc ngày 29/5/2021 thì ông P (bên nhận cọc) người từ chối việc giao kết
hợp đồng nên phải trách nhiệm trả cho ông M số tiền cọc đã nhận
900.000.000 đồng và khoản tiền tương đương là 900.000.000 đồng.
Trong quá trình giải quyết vụ án, ông M đưa ra yêu cầu phản tố buộc
ông P phải trả lại cho ông M số tiền cọc đã nhận 900.000.000 đồng và (tiền phạt
cọc) khoản tiền tương đương là 900.000.000 đồng. Tuy nhiên, Tòa án cấp
thẩm không thông báo cho ông M thực hiện thủ tục: nộp đơn yêu cầu phản tố,
đóng tiền tạm ứng án phí đối với yêu cầu ông P phải thanh toán thêm (tiền phạt
cọc) khoản tiền tương đương là 900.000.000 đồng để thụ yêu cầu phản tố của
ông M. Việc Tòa án cấp thẩm vẫn tiến hành xét xử theo hướng không chấp
nhận yêu cầu của ông M về tiền phạt cọc và buộc ông M phải chịu khoản tiền án
phí 39.000.000 đồng thuộc trường hợp xét xử vượt quá phạm vi yêu cầu của
đương sự được quy định tại Điều 5 Bộ luật Tố tụng dân sự, vi phạm nghiêm
trọng thủ tục tố tụng. Điều này dẫn đến việc Tòa án cấp phúc thẩm không thể
khắc phục sửa bản án thẩm để buộc ông P phải trả tm khoản tiền phạt
cọc 900.000.000 đồng cho ông M.
11
Do đó, để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của ông M, Hội đồng xét xử
phúc thẩm căn cứ vào khoản 3 Điều 308, Điều 310 Bộ luật Tố tụng dân sự để
chấp nhận kháng cáo của ông M hủy toàn bộ bản án sơ thẩm.
Đồng thời, đến thời điểm xét xử phúc thẩm, UBND tỉnh B đã ban hành
quyết định số 24/2024/QĐ-UBND ngày 04/9/2024 thay thế Quyết định số
44/2023/QĐ-UBND ngày 19/9/2023 của Ủy ban nhân dân tỉnh B. vậy, khi
xét xử lại Tòa án cấp thẩm phải xác minh tại quan Nhà nước thẩm
quyền để làm diện tích 1.760m
2
(Ngang 40m, dài 44m) thuộc một phần thửa
đất số 614, tờ bản đồ số 34, tọa lạc tại Đ, huyện C, tỉnh Rịa - Vũng Tàu
(thể hiện trong hợp đồng đặt cọc ngày 29/5/2021, ngày 21/5/2021) đủ điu
kiện tách thửa không, từ đó làm căn cứ giải quyết vụ án.
[3] Về án phí dân sự thẩm: Sẽ được giải quyết khi vụ án được giải
quyết lại.
[4] Về án phí dân sự phúc thẩm: Bản án bị hủy do vi phạm nghiêm trọng
thủ tục tố tụng nên người kháng cáo không phải chịu.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 3 Điều 308, Điều 310 Bộ luật Tố tụng Dân sự,
1. Hủy toàn bộ bản án dân sự thẩm s16/2024/DS-ST ngày 10/5/2024
của Tòa án nhân dân huyện Châu Đức chuyển hồ cho Tòa án nhân dân
huyện Châu Đức để xét xử lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm.
2. Về án phí dân sự sơ thẩm: Sẽ được quyết định khi giải quyết lại vụ án.
3. Án phí dân sự phúc thẩm: Ông Nguyễn Thế M không phải chịu án phí
dân sự phúc thẩm. H1 lại cho ông Nguyễn Thế M số tiền tạm ứng án phí phúc
thẩm đã nộp 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) theo Biên lai thu tiền số 0001177
ngày 30/7/2024 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Châu Đức, tỉnh Rịa -
Vũng Tàu.
4. Bn án phúc thm hiu lc pháp lut k t ngày tuyên án (ngày
12/12/2024).
Nơi nhận:
- VKSND tnh BR-VT;
- TAND huyện Châu Đức;
- Chi cc THADS H. Châu Đức;
- VKSND huyện Châu Đức;
- Các đương sự;
- Lưu.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT X PHÚC THM
THM PHÁN CH TA PHIÊN TÒA
Cao Xuân Long
12
Tải về
Bản án số 265/2024/QĐ-PT Bản án số 265/2024/QĐ-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 265/2024/QĐ-PT Bản án số 265/2024/QĐ-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất