Bản án số 09/2023/HS-ST ngày 30/03/2023 của TAND huyện Sơn Hòa, tỉnh Phú Yên về tội hủy hoại rừng
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng tội danh
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 09/2023/HS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 09/2023/HS-ST
| Tên Bản án: | Bản án số 09/2023/HS-ST ngày 30/03/2023 của TAND huyện Sơn Hòa, tỉnh Phú Yên về tội hủy hoại rừng |
|---|---|
| Tội danh: | 189.Tội hủy hoại rừng (Bộ luật hình sự năm 1999) |
| Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
| Tòa án xét xử: | TAND huyện Sơn Hòa (TAND tỉnh Phú Yên) |
| Số hiệu: | 09/2023/HS-ST |
| Loại văn bản: | Bản án |
| Ngày ban hành: | 30/03/2023 |
| Lĩnh vực: | Hình sự |
| Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Thông tin về vụ án: |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN S
TỈNH PHÚ YÊN
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Bản án số: 09/2023/HS-ST
Ngày : 30-3-2023
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN S, TỈNH PHÚ YÊN
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Bùi Châu Kha;
Các Hội thẩm nhân dân: Ông Phạm Hồng Thái và ông Phạm Xuân Lai.
- Thư ký phiên tòa: Ông Võ Kim Vinh–Thẩm tra viên chính Tòa án nhân
dân (TAND) huyện S, tỉnh Phú Yên.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) huyện S, tỉnh Phú Yên
tham gia phiên tòa: Bà Lương Như Hoàn – Kiểm sát viên sơ cấp.
Ngày 30 tháng 3 năm 2023 tại trụ sở TAND huyện S, tỉnh Phú Yên xét xử
sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 03/2023/HS-ST ngày 07 tháng 02
năm 2023; quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 04/2023/QĐXXST-HS ngày 15
tháng 3 năm 2023 và quyết định thay đổi hội thẩm số: 05/2023/QĐXXST-HS
ngày 23 tháng 3 năm 2023 của TAND huyện S, tỉnh Phú Yên đối với bị cáo:
Nguyễn Văn B (thường gọi B Giếng), sinh ngày 01-01-1956 tại: Phú
Yên; Nơi cư trú: Thôn Tân Yên, xã E, huyện S, tỉnh Phú Yên; nghề nghiệp: Làm
nông; trình độ văn hóa (học vấn): 02/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh;
Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Con ông Nguyễn Văn K và bà Nguyễn Thị T,
đều đã chết; vợ bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1960, có 05 con, lớn nhất 43 tuổi,
nhỏ nhất 33 tuổi; tiền án, tiền sự: Không. Bị bắt tạm giam ngày 20-9-2022.
Được thay đổi biện pháp tạm giam cho tại ngoại ngày 17-11-2022. Bị cáo bị áp
dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú.
Bị cáo tại ngoại. Có mặt.
*Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Văn B: Ông Nguyễn Đức D - Luật
sư Công ty Luật TNHH Đại Nguyên thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Đăk Lăk. Có mặt.
* Nguyên đơn dân sự: Ủy ban nhân dân (UBND) xã E do ông Huỳnh Văn
H1, Chức vụ: Phó Chủ tịch UBND xã E làm đại diện theo ủy quyền. Có mặt.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Công ty trách nhiệm hữu hạn trồng rừng Z OJI thuộc Công ty cổ phần
tập đoàn kỷ nghệ gỗ Z, trụ sở: 81 Nguyễn Tất Thành, Phường 2, thành phố Tuy
2
Hòa, tỉnh Phú Yên do ông Trần Ngọc B2, sinh ngày 12-8-1969, địa chỉ: Số 28
Đường Tô Nào, Phường 2, thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên. Chức vụ: Phó
Tổng Giám đốc đại diện. Có mặt.
2. Ông Nguyễn Văn T1 (thường gọi là H), sinh ngày 05-8-1983, nơi cư
trú: Thôn Tân Yên, xã E, huyện S, tỉnh Phú Yên. Có mặt.
3. Ông Nguyễn Đức T2 (T2 Lùn), sinh ngày 15-8-1965, nơi cư trú: Thôn
Tân Yên, xã E, huyện S, tỉnh Phú Yên. Vắng mặt (có đơn đề nghị xử vắng mặt).
4. Ông Nguyễn Ngọc L1, sinh ngày 13-12-1980, nơi cư trú: Thôn Tân
Hội, xã Sơn Hội, huyện Sơn Hòa, tỉnh Phú Yên. Vắng mặt.
5. Bà Nguyễn Thị L2 (Bà N1BÀ ), sinh ngày 05-6-1960, nơi cư trú: Thôn
Ngân Điền, xã Sơn Hà, huyện Sơn Hòa, tỉnh Phú Yên. Vắng mặt (có đơn đề
nghị xử vắng mặt).
6. Ông Niê Y H2 (Ma K), sinh ngày 12-5-1995, nơi cư trú: Buôn Bai, xã
Ea Lâm, huyện S, tỉnh Phú Yên. Có mặt.
7. Ông Nguyễn Đình C, sinh ngày 10-8-1984, nơi cư trú: Thôn Tân Yên,
xã E, huyện S, tỉnh Phú Yên. Có mặt.
8. Ông Lê Xuân M, sinh năm 1974, nơi cư trú: Thôn Tân Yên, xã E,
huyện S, tỉnh Phú Yên. Vắng mặt (có đơn đề nghị xử vắng mặt).
9. Bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1960, nơi cư trú: Thôn Tân Yên, xã E,
huyện S, tỉnh Phú Yên. Có mặt.
* Người làm chứng:
1. Ông Hoàng Văn H3, sinh năm 1979, nơi cư trú: Buôn Zô, xã E, huyện
S, tỉnh Phú Yên. Vắng mặt.
2. Ông Bá Văn T3 (Ma Ch), sinh ngày 07-3-1982, nơi cư trú: Buôn Zô, xã
E, huyện S, tỉnh Phú Yên. Vắng mặt.
3. Ông Nguyễn Thành C1, sinh năm 1981, nơi cư trú: Buôn Zô, xã E,
huyện S, tỉnh Phú Yên. Vắng mặt.
4. Ông Đặng Văn Tr (Cu E), sinh năm 1974, nơi cư trú: Khu phố 2, thị
trấn Hai Riêng, huyện S, tỉnh Phú Yên. Vắng mặt.
5. Ông Nguyễn Văn S, sinh năm 1961, nơi cư trú: Thôn Tân Yên, xã E,
huyện S, tỉnh Phú Yên. Vắng mặt.
6. Ông Nguyễn L3 (Ú), sinh năm 1983, nơi cư trú: Thôn Tân Yên, xã E,
huyện S, tỉnh Phú Yên. Có mặt.
7. Ông La Mô Y R (Ma T4), sinh ngày 07-10-1985, nơi cư trú: Buôn Bai,
xã Ea Lâm, huyện S, tỉnh Phú Yên. Có mặt.
8. Ông Nay Y P (Ma H4), sinh ngày 01-01-1981, nơi cư trú: Buôn Bai, xã
Ea Lâm, huyện S, tỉnh Phú Yên. Có mặt.
9. Ông Hving Y B3 (Ma N2), sinh ngày 09-5-1952, nơi cư trú: Buôn Bai,
xã Ea Lâm, huyện S, tỉnh Phú Yên. Có mặt.
10. Ông Lê Mô Y Đ (Ma S1), sinh năm 1982, nơi cư trú: Buôn Bai, xã Ea
Lâm, huyện S, tỉnh Phú Yên. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, diễn biến tại phiên tòa và nội dung
vụ án được tóm tắt như sau:
3
Khoảng tháng 9 năm 2021, Nguyễn Văn B nảy sinh ý định hủy hoại rừng
tại khoảnh 4, tiểu khu 293, xã E, huyện S do UBND xã E, huyện S quản lý,
nhằm mục đích mở rộng diện tích đất sản xuất nông nghiệp. Nguyễn Văn B thuê
máy múc của Nguyễn Văn T1 vào khu vực rừng nêu trên và chỉ dẫn cho T1 điều
khiển máy múc thực hiện việc múc, san ủi gạt đất, cây rừng thành đống để đốt,
dọn rừng trái phép với diện tích 31.500 m
2
, T1 và B thỏa thuận tiền công máy
múc 550.000
đ
/giờ, T1 làm trong khoảng thời gian một tháng. Quá trình làm
thuê, T1 thuê Nguyễn Đức T2 nấu ăn, bơm mỡ, chở dầu cho T1. Sau khi T1 làm
xong, B dọn những đống cây đã gom, cháy nham nhở. Ngày 20-01-2022, UBND
xã E, huyện S phối hợp với các đơn vị liên quan tiến hành kiểm tra phát hiện.
Kết luận giám định tư pháp số: 154/KLGĐ-CCKL ngày 18-02-2022 của
Chi cục kiểm lâm tỉnh Phú Yên kết luận: Vị trí cây rừng tự nhiện bị san ủi, đào
bới có diện tích 31.500 m
2
, thuộc hiện trạng rừng tự nhiên chưa có trữ lượng,
quy hoạch rừng sản xuất, trữ lượng rừng trên diện tích vi phạm là 10,373 m
3
, trữ
lượng rừng bình quân/ha là 3,293 m
3
, thiệt hại về lâm sản trên diện tích vi phạm
là 10, 316 m
3
.
Văn bản số 50/CCKL-QLR ngày 11-01-2023 của Chi cục kiểm lâm tỉnh
Phú Yên xác định tại thời điểm diện tích đất rừng 31.500 m
2
thuộc khoảnh 4,
tiểu khu 293, xã E, huyện S bị hủy hoại thì diện tích đất rừng này đủ tiêu chí xác
định là rừng tự nhiên (chưa có trữ lượng).
Kết luận định giá tài sản số 02/KL-HĐĐGTS ngày 09-01-2023 của Hội
đồng định giá tài sản huyện S, tỉnh Phú Yên kết luận: Giá trị thiệt hại, giá trị bồi
thường đối với rừng tự nhiện là rừng sản xuất với diện tích 31.500 m
2
, lâm sản
thiệt hại khối lượng 10,316 m
3
tại thời điểm định giá ngày 20-01-2022 là
15.654.864
đ
(mười lăm triệu sáu trăm năm mươi bốn nghìn tám trăm sáu mươi
bốn đồng).
Tại bản Cáo trạng số 04/CT-VKS ngày 06-02-2023 của VKSND huyện S,
tỉnh Phú Yên đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn B về tội “Hủy hoại rừng” theo quy
định tại điểm đ khoản 2 Điều 243 Bộ luật Hình sự (BLHS).
Tại phiên tòa,
Bị cáo trình bày: Bị cáo biết hành vi hủy hoại rừng là vi phạm pháp luật,
nhưng vì không có đất sản xuất, sau khi thuê đất bà L2 để sản xuất, muốn mở
rộng đất nên đã phá rừng làm rẫy. Gia đình bị cáo có em trai là liệt sỹ, đã tự
nguyện bồi thường toàn bộ thiệt hại, gần 70 tuổi đã già yếu, thường xuyên đau
bệnh, chân bị tật, là lao động chính, lần đầu phạm tội, hoàn cảnh gia đình khó
khăn. Nhờ Tòa xem xét.
Nguyên đơn dân sự: Ông H1 đại diện trình bày: Thực hiện kế hoạch tuần
tra kiểm soát, phòng cháy chữa cháy rừng nhằm kịp thời ngăn chặn việc phá rừng,
khai thác, vận chuyển, chế biến lâm sản trái pháp luật tại địa bàn xã. Qua kiểm
tra, phát hiện ông Nguyễn Văn B đã có hành vi hủy hoại rừng tại khoảnh 4, tiểu
khu 293 với diện tích 31.500m
2
. Nay, UBND xã E yêu cầu Tòa buộc ông
Nguyễn Văn B phải bồi thường thiệt hại theo định giá tài sản là 15.654.864
đ
4
(mười lăm triệu sáu trăm năm mươi bốn nghìn tám trăm sáu mươi bốn đồng).
Nhờ Tòa xem xét.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày:
1. Công ty trách nhiệm hữu hạn trồng rừng Z OJI thuộc Công ty cổ phần
tập đoàn kỷ nghệ gỗ Z (gọi tắt là Công ty Z) do ông Trần Ngọc B2 trình bày:
Năm 2014, UBND tỉnh Phú Yên cho Công ty Z thuê đất để thực hiện dự
án trồng rừng theo Quyết định số 1151/QĐ-UBND, ngày 22-7-2014 với nội
dung: Diện tích đất thuê: 2.608.000 m
2
(260,8 ha) trong đó: hiện trạng đất thuê:
Đất đồi núi chưa sử dụng 1.096.331 m
2
(109,6 ha), đất có rừng tự nhiên
1.511.669,0 m
2
; vị trí khu đất: Tiểu khu 293 xã E, huyện S, tỉnh Phú Yên; mục
đích sử dụng: Trồng rừng kinh tế-đất trồng rừng sản xuất; thời hạn thuê đất: 50
năm (năm mươi năm). Năm 2015, Công ty Z rà soát bốc tách hiện trạng có thực
bì dày, rừng tự nhiên ra khỏi vùng để quản lý bảo vệ, phòng cháy rừng. Diện
tích còn lại lập hồ sơ thiết kế trồng rừng keo lai giâm hom 88 ha. Ngày 25-02-
2022, Hạt kiểm lâm huyện S chủ trì phối hợp các ngành, UBND xã E và Công ty
Z tiến hành kiểm tra hiện trường vụ phá rừng xác định bị hủy hoại rừng diện tích
31.500 m
2
tại khoảnh 4 tiểu khu 293, xã E, chức năng rừng sản xuất. Đề nghị
Tòa giải quyết theo quy định của pháp luật.
2. Ông Nguyễn Văn T1 (H) trình bày: Ông T1 thừa nhận là người làm
thuê cho ông B, thực hiện việc điều khiển máy múc màu vàng, bánh xích gàu 0,7
m
3
để gom cây, san ủi mặt bằng dọn rẫy cho ông B, không biết rẫy đó là rừng,
không hưởng thụ hoặc ăn chia từ việc hủy hoại rừng của ông B.
3. Ông Nguyễn Đức T2 (T2 Lùn): Theo biên bản ghi lời khai tại bút lục số
484-485A ông T2 trình bày: Khoảng cuối năm 2021, ông T2 làm thuê cho ông
T1 có nhiệm vụ là đi chợ, nấu cơm, dỡ cơm cho ông T1, bơm mỡ máy múc của
ông T1, không tham gia hủy hoại rừng.
4. Ông Nguyễn Ngọc L1: Theo biên bản ghi lời khai tại bút lục số 150-
157, 248 ông L1 là nhân viên bảo vệ Công ty Z trình bày: Người đầu tiên phát
hiện hủy hoại rừng là anh T3 kiểm lâm địa bàn và anh Khánh là tổng giám sát,
ngày 20-01-2022 ông L1 thấy có một máy múc ở khu vực đất ông B, ông L1
không xác định được đất san ủi có phải đất của công ty không nên không dám
nói. Ngày 28-02-2022, công ty đã cho ông L1 nghỉ việc bàn giao rừng lại cho
ông Phú giám sát của Công ty.
5. Bà Nguyễn Thị L2 (Bà N1): Theo biên bản ghi lời khai tại bút lục số
216-221 trình bày: Bà L2 có đám rẫy mua lại của người đồng bào dân tộc Buôn
Zô, không giấy tờ, cho ông B thuê khoảng 10ha từ năm 2019 đến năm 2022 để
trồng mía, mì, vì năm 2015 chồng bà L2 (ông Trần Công Đức) chết nên không
ai làm, rẫy phải cho thuê, khoảng tháng 3 năm 2022 ông B không thuê nữa trả
đất lại, bà L2 không liên quan gì đến việc hủy hoại rừng của ông B.
6. Ông Niê Y H2 (Ma K) trình bày: Là người làm thuê cho ông B, công
việc được giao như: cuốc cỏ mì, mía, dùng cưa lốc cắt cây ở suối, tất cả công
việc đều do ông B chỉ đạo giao việc và cùng làm với Ma Tô, Ma Hưu, Ma Hiên.
Không liên quan gì đến việc hủy hoại rừng.
5
7. Ông Nguyễn Đình C trình bày: Ông C là con đẻ ông B, nhưng công
việc ai người đó làm, không tham gia vào việc hủy hoại rừng.
8. Ông Lê Xuân M: Theo biên bản ghi lời khai tại bút lục số 238-239 trình
bày: Thấy máy múc của ông T1 đến làm thuê cho ông B nên vào nhặt củi, có sử
dụng cưa lốc để cắt củi về bán, sử dụng.
9. Bà N là vợ bị cáo trình bày: Tất cả tang vật vụ án đã bị thu giữ là tài
sản gia đình, hàng ngày ông B sử dụng để làm rẫy, bà N thường xuyên đau yếu
nên không tham gia làm rẫy.
* Người làm chứng:
1. Ông Hoàng Văn H3: Theo biên bản ghi lời khai tại bút lục số 174-179
trình bày: Trong năm 2021, ông H3 thường xuyên đi bẩy chồn, sóc thấy ông B
cùng một số người dân tộc sử dụng cưa lốc để cắt gỗ khu vực khe suối của Công
ty Z, sau đó thuê T1 (H Râu) sử dụng máy múc để dọn đất trồng mía, mì.
2. Ông Bá Văn T3 (Ma Ch): Theo biên bản ghi lời khai tại bút lục số 188-
189 trình bày: Ông T3 thường đi tìm măng tươi, nhìn thấy máy múc của ông T1
(H) đang san ủi, mở rộng diện tích đất của ông B để trồng mía.
3. Ông Nguyễn Thành C1: Theo biên bản ghi lời khai tại bút lục số 472-
473 trình bày: Ông C1 làm thuê cho ông S Tót, hàng ngày thường đi ngang rẫy
ông B, thấy ông B và người làm thuê cho ông B thuê hạ cây, thuê máy múc của
ông T1 đến san ủi, gom cây, phát dọn rẫy.
4. Ông Đặng Văn Tr (Cu E): Theo biên bản ghi lời khai tại bút lục số 476-
477 trình bày: Ông Tr trồng mía gần rẫy ông B, thấy ông B hạ cây lớn rồi thuê
máy múc của ông T1 vào san ủi, gom cây, móc gốc để mở rộng diện tích đất sử
dụng.
5. Ông Nguyễn Văn S: Theo biên bản ghi lời khai tại bút lục số 189-199
trình bày: Bà L2 cho ông B thuê 02ha, mảnh đất ông S thuê giáp ranh mảnh đất
ông B thuê. Từ sau tháng 6 năm 2021 vợ ông S bị tai nạn giao thông chết, ông S
ít vào rẫy, khu vực ông B hủy hoại rừng là đất của Công ty Z do UBND xã E
quản lý, ông B thuê ông T1 dùng máy múc san ủi đất để mở rộng diện tích đất
thuê, còn việc trả công giữa ông B và ông T1 như thế nào ông S không biết.
6. Ông Nguyễn L3 (Ú) trình bày: Ông L3 hàng ngày vào rừng hái L2, nhử
gà rừng, bẩy sóc thường đi ngang qua rẫy ông B, có nhìn thấy máy múc san ủi
đất cho ông B vào mùa mưa năm 2021, không biết máy múc của ai nhưng thấy
ông T1 và ông T2 thường ở trại ông B.
7. Ông La Mô Y R (Ma T4) trình bày: Ma Tô làm thuê cho ông B nhiều
đợt, đợt đầu khoảng tháng 3 năm 2021, cùng Ma Téc, Ma Rin, vợ Ma Tô, công
việc làm là trồng mía, cuốc cỏ mì, phun thuốc cỏ... Có lúc ông B nhờ cưa những
gốc cây trong rẫy, mục đích mở rộng diện tích, dọn sạch rẫy để trồng mía, trồng
mì, khoảng tháng 11 năm 2021 có thấy máy múc màu vàng, bánh xích vào rẫy
ông B để san ủi, gom cây. Không liên quan hủy hoại rừng.
8. Ông Nay Y P (Ma H4) trình bày: Vào năm 2021, Ma Hy, Ma Bương và
Ma Tô cùng đi làm thuê cho ông B, công việc thường được thuê là nhổ mì, bốc
mì lên xe, dọn rẫy, chặt chồi, cầm cưa lốc cắt chồi, khi máy múc đã múc xong.
9. Ông Hving Y B3 (Ma N2) trình bày: Khoảng tháng 4 năm 2021, Ma
Nhưng cùng nhiều người ở buôn bai, xã Ea Lâm thường được ông B thuê cuốc
6
cỏ mì, dọn cỏ mía, có nghe máy múc, máy cưa phát rẫy của ông B để mở rộng
diện tích đất trồng mía, trồng mì.
10. Ông Lê Mô Y Đ (Ma S1): Theo biên bản ghi lời khai tại bút lục số
230-231 trình bày: Khi Ma Sương đến làm thuê cho ông B thì đã thấy máy múc
đã xới bung gốc cây, chỉ làm nhiệm vụ chặt cành, gom cây thành đống để đốt
hoặc bốc lên xe chở về trại ông B, không biết ai cưa.
* Ý kiến của người bào chữa cho bị cáo B (LS D) trình bày:
Do sự quản lý rừng của UBND xã E và Công ty Z lỏng lẻo, không thường
xuyên tuyên truyền cho nhân dân biết khu vực ông B làm rẫy là rừng tự nhiên.
Bị cáo biết sai, nhưng do hoàn cảnh gia đình khó khăn, là lao động chính,
thường xuyên đau bệnh, chân bị tật, hiện tại gần 70 tuổi là người già yếu, sau
khi phạm tội có đơn tự nguyện trồng lại rừng, đã bồi thường toàn bộ thiệt hại
(bồi thường 15.654.864
đ
) có nhân thân tốt, gia đình có người thân là liệt sỹ, vợ
bị cáo (bà N) bị tật không đi làm nặng được. Đề nghị Tòa xem xét cho bị cáo cải
tạo không giam giữ để bị cáo thấy được sự khoan hồng của nhà nước mà lương
thiện làm ăn. Về vật chứng vụ án, những tài sản bị tạm giữ như xe mô tô, gỗ,
cưa lốc, rựa là tài sản của gia đình có phần của bà N (vợ bị cáo) nên chia đôi,
nếu tuyên thu sung quỹ nhà nước.
* Kiểm sát viên luận tội đối với bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX):
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn B phạm tội “Hủy hoại rừng”. Áp dụng điểm
đ khoản 2 Điều 243; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 1 Điều 54
BLHS. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn B từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù. Thời
hạn tù tính từ ngày bắt đi thi hành án (được trừ thời gian đã tạm giam từ ngày
20-9-2022 đến 17-11-2022).
Về trách nhiệm dân sự: Đề nghị HĐXX buộc bị cáo phải bồi thường cho
nguyên đơn dân sự là UBND xã E số tiền 15.654.864
đ
(mười lăm triệu sáu trăm
năm mươi bốn nghìn tám trăm sáu mươi bốn đồng). Đã bồi thường xong.
Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 BLHS; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình
sự (BLTTHS): Đề nghị tịch thu sung quỹ nhà nước vật chứng vụ án (theo biên
bản giao nhận vật chứng vụ án giữa Công an và Chi cục THADS huyện S) vì là
phương tiện, công cụ phạm tội. Riêng 02 cưa lốc đề nghị bán chia đôi phần của
bị cáo thì sung quỹ nhà nước, phần của bà N (vợ bị cáo) được nhận lại, vì là
những tài sản chung của vợ chồng.
Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.
Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra và kết quả tranh tụng
tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát
viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã
được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, HĐXX nhận định như sau:
[1] Về tố tụng:
7
Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an
huyện S, Điều tra viên, VKSND huyện S, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra,
truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, tuân thủ đầy đủ theo quy định của thủ tục
tố tụng về thu thập tài liệu, chứng cứ của Bộ luật tố tụng hình sự. Trong quá
trình điều tra, truy tố, bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không ai có
ý kiến hoặc khiếu nại đối với hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành
tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ
quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
* Về quyết định cho thuê đất và trách nhiệm của Công ty trách nhiệm hữu
hạn trồng rừng Z OJI thuộc Công ty cổ phần tập đoàn kỷ nghệ gỗ Z (gọi tắt là
Công ty Z) do ông Trần Ngọc B2 đại diện trình bày: Năm 2014, UBND tỉnh Phú
Yên cho Công ty Z thuê đất để thực hiện dự án trồng rừng theo Quyết định số
1151/QĐ-UBND, ngày 22-7-2014 với nội dung: Diện tích đất thuê: 2.608.000,0
m
2
(260,8 ha) trong đó: hiện trạng đất thuê: Đất đồi núi chưa sử dụng 1.096.331
m
2
(109,6 ha), đất có rừng tự nhiên 1.511.669,0 m
2
; vị trí khu đất: Tiểu khu 293
xã E, huyện S, tỉnh Phú Yên; mục đích sử dụng: Trồng rừng kinh tế-đất trồng
rừng sản xuất; thời hạn thuê đất 50 (năm mươi) năm. Năm 2015, Công ty Z rà
soát bốc tách hiện trạng có thực bì dày, rừng tự nhiên ra khỏi vùng để quản lý
bảo vệ, phòng cháy rừng. Diện tích còn lại lập hồ sơ thiết kế trồng rừng keo lai
giâm hom 88 ha. Ngày 25-02-2022, Hạt kiểm lâm huyện S chủ trì phối hợp các
ngành, UBND xã E và Công ty Z tiến hành kiểm tra hiện trường vụ phá rừng
xác định bị hủy hoại rừng diện tích 31.500 m
2
tại khoảnh 4 tiểu khu 293, xã E,
chức năng rừng sản xuất cho thấy đất đã thu từ UBND xã E, để giao cho UBND
tỉnh Phú Yên cho Công ty Z thuê. Nhưng, tại các văn bản của Chi cục kiểm lâm
tỉnh Phú Yên và các cơ quan trả lời diện tích do bị cáo B hủy hoại rừng vẫn là
rừng tự nhiên, việc quản lý vẫn thuộc UBND xã E, huyện S. Vì vậy, UBND xã
E được xác định với tư cách nguyên đơn dân sự là phù hợp.
* Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (ông T2, bà L2, ông M) và
những người làm chứng (ông H3, ông T3, ông C1, ông Tr, ông S, Ma Sương)
vắng mặt tại phiên tòa, nhưng việc vắng mặt đều được tống đạt hợp lệ, người
liên quan như ông T2, ông M đã có đơn đề nghị xử vắng mặt và xét thấy không
ảnh hưởng gì về thủ tục tố tụng nên HĐXX quyết định tiếp tục xét xử.
Riêng bà N (vợ bị cáo) tại phiên tòa trình bày, đối chiếu biên bản khám xét
nhà bị cáo B (bút lục số 22) có thu giữ một số tài sản là những đồ vật liên quan
đến vụ án nên HĐXX đưa bà N vào tham gia tố tụng với tư cách là người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
[2] Về tội danh:
Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ
quan điều tra và phù hợp với lời khai của nguyên đơn dân sự, người có quyền lợi
nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ thu thập
được có trong hồ sơ vụ án. HĐXX có đủ cơ sở kết luận:
Khoảng tháng 9 năm 2021, bị cáo B nảy sinh ý định hủy hoại rừng tại
khoảnh 4, tiểu khu 293, xã E, huyện S do Ủy ban nhân dân (UBND) xã E, huyện
8
S quản lý, nhằm mục đích mở rộng diện tích đất sản xuất. Bị cáo đã chủ động
thuê máy múc của Nguyễn Văn T1 vào khu vực rừng nêu trên và chỉ dẫn cho T1
thực hiện việc múc, san ủi gạt đất, cây rừng thành nhiều đống để đốt, dọn rừng
trái phép với diện tích 31.500 m
2
, T1 và B thỏa thuận tiền công máy múc
550.000
đ
/giờ, T1 làm trong khoảng thời gian một tháng, quá trình làm thuê cho
B, T1 có thuê Nguyễn Đức T2 nấu ăn, bơm mỡ, chở dầu cho T1. Sau khi T1 làm
xong, B dọn những đống cây đã gom đốt cháy nham nhở. Ngày 20-01-2022,
UBND xã E, huyện S phối hợp với các đơn vị liên quan tiến hành kiểm tra phát
hiện.
Bị cáo có hành vi thuê người khác sử dụng máy múc san ủi đất, cây rừng
với diện tích 31.500m
2
, thuộc khoảnh 4, tiểu khu 293, xã E, huyện S, tỉnh Phú
Yên, rừng này do UBND xã E quản lý. Căn cứ, kết quả giám định tư pháp số
154/KLGĐ-CCKL ngày 18-02-2022 của Chi cục kiểm lâm tỉnh Phú Yên xác
định diện tích 31.500m
2
nêu trên là rừng tự nhiên chưa có trữ lượng, quy hoạch
rừng sản xuất, trữ lượng rừng trên diện tích vi phạm là 10,373 m
3
, trữ lượng
rừng bình quân/ha là 3,293 m
3
, thiệt hại về lâm sản trên diện tích vi phạm là
10,316 m
2
, thiệt hại định giá với số tiền 15.654.864
đ
(mười lăm triệu sáu trăm
năm mươi bốn nghìn tám trăm sáu mươi bốn đồng).
Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Hủy hoại rừng” theo quy định
tại điểm đ khoản 2 Điều 243 BLHS. Như vậy, cáo trạng của VKSND huyện S
truy tố đối với bị cáo là đúng người, đúng tội.
“Tại Điều 243 khoản 2 điểm đ BLHS quy định:
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 03
năm đến 07 năm.
đ, Rừng sản xuất có diện tích từ 10.000 m
2
đến dưới 50.000 m
2”
[3] Tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo:
Bị cáo B là người thuê đất của bà Nguyễn Thị L2 (bà N1) đúng như là
trình bày của những người liên quan, người làm chứng, nhưng không muốn sử
dụng trong phần đất thuê mà muốn mở rộng thêm diện tích, để có diện tích sử
dụng nhiều hơn, bị cáo B đã chủ động dùng cưa máy cắt cây, thuê máy múc, với
mục đích phá rừng làm rẫy.
[5] Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Tình tiết tăng nặng: Không.
Tình tiết giảm nhẹ:
Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên toà bị cáo thành khẩn khai
báo, ăn năn hối cải, sau khi phạm tội bị cáo tự nguyện khắc phục toàn bộ thiệt
hại với số tiền 15.654.864
đ
nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm
b, s khoản 1 Điều 51 BLHS.
Bị cáo có thân nhân là liệt sĩ nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định
tại khoản 2 Điều 51 BLHS; bị cáo được hưởng nhiều tình tiết giảm nhẹ nên
được áp dụng Điều 54 BLHS xét xử dưới mức của khung hình phạt.
[6] Về hình phạt: Bị cáo phạm tội nghiêm trọng với lỗi cố ý trực tiếp,
xâm phạm đến quy định của Nhà nước về quản lý và bảo vệ rừng, gây ảnh
hưởng xấu đến môi trường sinh thái nên cần xử lý nghiêm tương xứng với mức
độ hành vi phạm tội. Xét bị cáo đã lớn tuổi (68 tuổi), pháp luật quy định 70 tuổi
9
là người già, bản thân và vợ của bị cáo đều bị tật tay và chân, thường đau bệnh
không làm nặng được, hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn, nhưng không thể
chấp nhận lời bào chữa của Luật sư và lời trình bày của bị cáo áp dụng hình phạt
cải tạo không giam giữ, mà chấp nhận mức án kiểm sát viên đề nghị tại phiên
tòa và xét hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn từ huyện Tây Hòa đến huyện S,
tỉnh Phú Yên thuê đất, làm rẫy mưu sinh nên không áp dụng hình phạt bổ sung
đối với bị cáo và áp dụng hình phạt tù tương xứng với hành vi phạm tội.
Đối với Nguyễn Văn T1 (H) sử dụng máy múc của T1 để san ủi, dọn rẫy
cho bị cáo, không biết là hành vi phá rừng, không hưởng lợi từ việc hủy hoại
rừng, chỉ là người làm thuê cho bị cáo B và Nguyễn Đức T2 cũng là người làm
thuê cho T1. Quá trình làm thuê, T1 và T2 đều không biết diện tích rừng mà bị
cáo B thuê hủy hoại là rừng sản xuất, hiện trạng và vị trí giáp ranh với diện tích
đất đang trồng mía, mì của bị cáo và diện tích rừng bị hủy hoại, không có căn cứ
vững chắc để buộc T1 và T2 phải biết đó là rừng tự nhiên và là đồng phạm. Cơ
quan cảnh sát điều tra và VKSND huyện S không xem xét trách nhiệm hình sự
đối với T1 và T2 là phù hợp quy định pháp luật.
[7] Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo phải bồi thường cho nguyên đơn dân
sự UBND xã E, huyện S 15.654.864
đ
. Bị cáo đã bồi thường xong.
[8] Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 BLHS, Điều 106 BLTTHS:
* Tiếp tục tạm giữ số tiền 15.654.864
đ
để nộp vào Ngân sách Nhà nước.
* Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước toàn bộ vật chứng đã tạm giữ, vì
bà N (vợ bị cáo) có mặt tại tòa cung cấp: Ba xe mô tô là xe độ chế, mua từ vật
phế liệu, con rựa, hai máy cưa lốc, một điện thoại, một số gỗ, mặc dù là tài sản
chung của gia đình nhưng không chứng minh được tất cả vật chứng vụ án đều
không sử dụng vào việc phạm tội. Tại phiên tòa, bị cáo và những người liên
quan như Ma Tô, Ma Hy, Ma Nhưng… thừa nhận có sử dụng máy cưa lốc cắt
cây, con rựa dùng phát rẫy, điện thoại dùng để liên lạc thuê người hủy hoại rừng,
đối chiếu chứng cứ có trong hồ sơ và 14 ảnh ghi lại hiện trường hủy hoại rừng
(bút lục số 43 đến 46) cho thấy tất cả vật chứng đều do bị cáo quản lý, sử dụng
vào việc phạm tội. Ý kiến của kiểm sát viên tại phiên tòa bán chia đôi hai máy
cưa lốc, các vật chứng còn lại đề nghị tuyên thu sung quỹ. Xét không thể chấp
nhận bán chia đôi hai máy cưa lốc, mà đủ căn cứ xác định toàn bộ tang vật vụ án
bị thu giữ là không có giấy tờ chứng minh nguồn gốc tài sản là hợp pháp, xác
định là phương tiện, công cụ phạm tội và là vật cấm lưu hành nên cần tịch thu
sung quỹ nhà nước.
[9] Về án phí: Căn cứ Điều 136 BLTTHS; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết
số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội
quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí
Tòa án. Mặc dù bị cáo là người cao tuổi nhưng không thể miễn án phí hình sự
theo lời bào chữa của luật sư. Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo
quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn B phạm tội “Hủy hoại rừng”.
10
Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 243; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51,
khoản 1 Điều 54 BLHS.
1. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn B 01 (một) năm 06 (sáu)
tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án (được trừ thời gian đã tạm
giam từ ngày 20-9-2022 đến 17-11-2022).
Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
2. Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 589 Bộ luật dân sự:
Buộc bị cáo phải bồi thường cho nguyên đơn dân sự là UBND xã E,
huyện S, tỉnh Phú Yên số tiền 15.654.864
đ
(mười lăm triệu sáu trăm năm mươi
bốn nghìn tám trăm sáu mươi bốn đồng). Bị cáo đã nộp đủ.
3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 BLHS, Điều 106 BLTTHS:
* Tiếp tục tạm giữ số tiền 15.654.864
đ
(mười lăm triệu sáu trăm năm
mươi bốn nghìn tám trăm sáu mươi bốn đồng) để bồi thường cho nguyên đơn
dân sự là UBND xã E, huyện S, tỉnh Phú Yên nộp vào ngân sách nhà nước.
* Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước:
1. 01 (một) điện thoại di động NOKIA 105 màu đen đã qua sử dụng, bên
trong có chứa thẻ sim số 0326753098;
2. 01 (một) cưa máy cầm tay hiệu KATSU màu xanh đã qua sử dụng, có
gắn lam xích dài 60 cm;
3. 01 (một) cưa máy cầm tay hiệu FUJIKAWA KANTA màu đỏ đã qua
sử dụng, có gắn lam xích dài 60 cm;
4. 01 (một) rựa dài 90 cm, cán bằng gỗ dài 61 cm, cán có đường kính 03
cm, lưỡi bằng kim loại dài 29 cm, phía trước có mũi cong;
5. 01 (một) xe mô tô độ chế màu sơn đen, nhãn hiệu DEAHAN, số máy
LC152FMHO1045310, không xác định số khung, không có biển kiểm soát, xe
đã qua sử dụng;
6. 01 (một) xe mô tô độ chế màu sơn đen, nhãn hiệu YASUTA, không xác
định được số máy, số khung, không có biển kiểm soát, xe đã qua sử dụng;
7. 01 (một) xe mô tô độ chế màu sơn đen, nhãn hiệu FERVOR, số máy
VTT14JL52FHM019583, không xác định số khung, không có biển kiểm soát, xe
đã qua sử dụng;
8. 02 (hai) khúc gỗ, mỗi khúc có kích thước (2,5 x 0,1 x 0,1) m, chưa xác
định chủng loại gỗ;
9. 188 (một trăm tám mươi tám) thanh gỗ, mỗi thanh có kích thước (80 x
8 x 8) cm, chưa xác định chủng loại gỗ.
(toàn bộ vật chứng có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng ngày
07-02-2023 giữa Công an huyện S và Chi cục Thi hành án dân sự huyện S).
4. Về án phí: Áp dụng Điều 136 BLTTHS ; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Buộc bị cáo phải chịu 200.000
đ
(hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự
sơ thẩm.
11
5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, nguyên đơn dân sự, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan có mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười
lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt
có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được
bản án hoặc niêm yết bản án.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
- TAND tỉnh Phú Yên; THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- VKSND tỉnh Phú Yên;
- VKSND H.S;
- Công an H.S;
- Những người tham gia tố tụng;
- Chi cục thi hành án Dân sự huyện S;
- Lưu: Hồ sơ vụ án; VPTA.
Bùi Châu Kha
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 30/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 24/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 18/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 18/12/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 16/11/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 21/09/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 07/09/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 06/09/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 25/08/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 25/08/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 18/08/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 16/08/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 24/05/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 22/05/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 27/04/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 13/04/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 22/03/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 20/03/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 20/03/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm