Bản án số 18/2023/HS-ST ngày 16-08-2023 của TAND huyện Đồng Xuân (TAND tỉnh Phú Yên) về về tội hủy hoại rừng
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng tội danh
- Tải về
Tải văn bản
-
18_2023_HS-ST_ PHU YEN
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
18_2023_HS-ST_ PHU YEN
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 18/2023/HS-ST
| Tên Bản án: | Bản án số 18/2023/HS-ST ngày 16-08-2023 của TAND huyện Đồng Xuân (TAND tỉnh Phú Yên) về về tội hủy hoại rừng |
|---|---|
| Tội danh: | 189.Tội hủy hoại rừng (Bộ luật hình sự năm 1999) |
| Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
| Tòa án xét xử: | TAND huyện Đồng Xuân (TAND tỉnh Phú Yên) |
| Số hiệu: | 18/2023/HS-ST |
| Loại văn bản: | Bản án |
| Ngày ban hành: | 16/08/2023 |
| Lĩnh vực: | Hình sự |
| Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Thông tin về vụ án: | La O D về tội hủy hoại rừng |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
HUYỆN ĐỒNG XUÂN Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
TỈNH PHÚ YÊN
Bản án số: 18 /2023/HS-ST
Ngày: 16/8/2023
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỒNG XUÂN, TỈNH PHÚ YÊN
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên tòa: Ông Nguyễn Văn Long.
Các Hội thẩm nhân dân: Ông Trần Ngọc Anh – Cán bộ hưu trí xã Xuân
Sơn Nam và bà Đặng Thị Duyên – Công chức UBND thị trấn La Hai.
- Thư ký phiên tòa: Bà Bùi Thị Trang – Thẩm tra viên Tòa án nhân dân
huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên.
- Đại diện VKSND huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên tham gia phiên toà: Bà
Phan Quỳnh Như - Kiểm sát viên.
Ngày 16 tháng 8 năm 2023, tại Hội trường xét xử, Tòa án nhân dân huyện
Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên mở phiên toà xét xử trực tuyến để xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự thụ lý số 15/2023/TLST-HS ngày 28 tháng 6 năm 2023; theo Quyết định đưa
vụ án ra xét xử số: 16/2023/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 8 năm 2023 đối với bị cáo:
La O D - (tên gọi khác: Ma Thủy) Sinh năm: 1992; tại huyện D, tỉnh Phú
Yên; Nơi cư trú: Thôn P, xã M, huyện D, tỉnh Phú Yên; Quốc tịch: Việt Nam; Dân
tộc: Chăm; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Làm nông; Trình độ học vấn: 6/12; Con
ông: La Lan N - Sinh năm 1969 và bà: La O Thị H - sinh năm: 1970; Vợ: La O Thị
A - Sinh năm 1994; Bị cáo có 01 con sinh năm 2013; Tiền án, tiền sự: Không; Bị
cáo tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.
Nhân thân: Ngày 01/6/2012, bị Chủ tịch UBND tỉnh Phú Yên ra quyết định
đưa vào cơ sở giáo dục 18 tháng. Đã chấp hành xong; Ngày 27/6/2022, bị Hạt Kiểm
2
lâm D xử phạt vi phạm hành chính về hành vi phá rừng trái phép. Chưa chấp hành.
* Nguyên đơn dân sự: Ủy ban nhân dân xã M, huyện D. Người đại diện: Ông
Nguyễn Văn Minh – Chủ tịch UBND xã M - Có mặt.
* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: La O Thị A - Sinh năm: 1994; Trú
tại: Thôn P, xã M, huyện D, tỉnh Phú Yên –Có mặt.
NLQ1 – Sinh năm: 1964; NLQ2 – Sinh năm: 1976; NLQ3 – Sinh năm:
1980; Cả 3 người cùng trú tại: Thôn H, xã M, huyện D, tỉnh Phú Yên - Đều có mặt.
NLQ4 – Sinh năm: 1990; Trú tại: Thôn H, xã M, huyện D, tỉnh Phú Yên –
Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ
án được tóm tắt như sau:
Vào tháng 6/2020, La O D nói với vợ là La O Thị A đi đến khu vực rừng
trước đây ông, bà của D đã khai hoang thuộc khoảnh 1, 3, tiểu khu 73, xã M, huyện
D để phát dọn rừng lấy đất trồng lúa và trồng keo. Vợ chồng D sử dụng rựa phát dọn
cây rừng trong 02 ngày thì về nhà. Sau đó D gọi cha, mẹ vợ, cô dượng của mình
gồm NLQ1, NLQ2, NLQ4, NLQ3 tiếp tục đến khu vực rừng vợ chồng D chặt phá
trước đó để cùng tham gia phát rừng với hình thức vòng đổi công. Vợ chồng D cùng
04 nhân công sử dụng rựa phát dọn cây rừng theo hình thức phát trắng trong 03
ngày, riêng D sử dụng máy cưa xăng cầm tay cắt hạ những cây rừng có đường kính
lớn. Khoảng 15 ngày sau thì D đốt thực bì sau đó trồng lúa trên diện tích này. Đến
ngày 15/8/2020 Hạt kiểm lâm huyện D và UBND xã M tiến hành kiểm tra và phát
hiện sự việc.
Tại Kết luận giám định tư pháp số 1056/KLGĐ-CCKL ngày 03/11/2020 của
Chi cục Kiểm lâm tỉnh Phú Yên kết luận: Diện tích rừng bị phá: 5.100m
2
(0,51ha)
thuộc khoảnh 1, 3, tiểu khu 73, xã M, huyện D; Loại rừng: Rừng tự nhiên, phân theo
trữ lượng thuộc rừng nghèo kiệt; Chức năng rừng: Rừng phòng hộ.
Tại Kết luận định giá tài sản số 27/KL-ĐGTTHS ngày 12/9/2022 của A đồng
định giá tài sản trong Tố tụng Hình sự huyện D kết luận: Giá trị tài sản bị thiệt hại
trong vụ phá rừng là 44.087.518 đồng.
3
Tại bản cáo trạng số: 23/CT-VKSĐX ngày 26/6/2023, Viện kiểm sát nhân
dân huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên truy tố bị cáo La O D về tội: "Hủy hoại rừng”
theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 243 BLHS.
Kiểm sát viên luận tội đối với bị cáo, giữ nguyên quyết định truy tố như Cáo
trạng. Kết luận bị cáo La O D phạm tội: "Hủy hoại rừng”. Căn cứ vào nhân thân,
tính chất, mức độ phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo.
Đề nghị HĐXX xem xét áp dụng điểm c khoản 1 Điều 243; điểm b, s khoản 1,
khoản 2 Điều 51; Điều 36 BLHS. Đề nghị xử phạt bị cáo D từ 01 năm đến 01 năm
06 tháng cải tạo không giam giữ, thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày Cơ
quan Thi hành án hình sự Công an huyện D, tỉnh Phú Yên nhận được quyết định thi
hành án. Miễn khấu trừ thu nhập đối với bị cáo.
Giao bị cáo La O D cho UBND xã M, huyện D, tỉnh Phú Yên giám sát, giáo
dục bị cáo. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với UBND xã M trong việc
giám sát, giáo dục bị cáo. Bị cáo phải thực hiện nghĩa vụ của người bị kết án cải tạo
không giam giữ theo quy định tại Điều 99 Luật Thi hành án hình sự. Trường hợp bị
cáo thay đổi nơi cư trú thì việc giám sát, giáo dục bị cáo được thực hiện theo quy
định tại Điều 100 Luật Thi hành án hình sự.
Về trách nhiệm dân sự: Đề nghị HĐXX áp dụng Điều 48 BLHS; các Điều
584, 585, 586, 589 BLDS. Buộc bị cáo D phải bồi thường cho UBND xã M, huyện
D số tiền 44.087.518đ, bị cáo đã bồi thường 5.218.000đ, còn phải tiếp tục bồi
thường số tiền 38.869.518đ. UBND xã M được nhận 5.218.000đ, khoản tiền bị cáo
La O D đã khắc phục, bồi thường cho UBND xã M.
Về xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng Điều 47 BLHS; Điều 106 BLTTHS.
Tịch thu sung quỹ: 01 máy cưa xăng cầm tay, màu vàng cam, phần lam, xích bị tháo
rời ra khỏi thân máy. Tịch thu tiêu hủy: 01 cái rựa dài 64cm, phần cán bằng gỗ dài
37,5cm, phần lưỡi dài 26,5cm; 01 cái rựa dài 57cm, phần cán bằng gỗ dài 36cm,
phần lưỡi dài 21cm; 01 cái rựa cán gỗ dài 67cm, phần cán hình trụ tròn, màu nâu
đen dài 41cm, đường kính 3,2cm, phần lưỡi bằng kim loại màu đen, dạng một lưỡi
cắt, màu đen, dài 26cm, bản rộng nhất 3,2cm, thon dần về mũi; 01 cái rựa cán gỗ
58cm, phần cán hình trụ tròn, màu nâu đen dài 42cm, đường kính 3,2cm, phần lưỡi
bằng kim loại màu đen, dạng một lưỡi cắt, dài 16cm, bản rộng nhất 3,8cm, một đầu
có vết gãy nham nhở, bề mặt rỉ sét.
4
Đối với La O Thị A và 04 nhân công gồm: NLQ1, NLQ2, NLQ4, NLQ3 đã có
hành vi cùng với bị cáo La O D trực tiếp chặt phá rừng tự nhiên, chức năng rừng
phòng hộ với diện tích rừng là 5.100 m
2
. Bản thân A, NLQ1, NLQ2, NLQ3, NLQ4 là
người đồng bào dân tộc thiểu số, sống tại khu vực kinh tế đặc biệt khó khăn, nên không
nhận thức được khu rừng trên là rừng do UBND xã M quản lý. Hơn nữa, La O Thị A
là người chỉ thực hiện theo yêu cầu của chồng mình. Xét thấy tính chất nguy hiểm cho
xã hội hành vi của A và 04 nhân công gồm: NLQ1, NLQ2, NLQ3, Ông là không đáng
kể. Cơ quan CSĐT Công an huyện D áp dụng khoản 2 Điều 8 Bộ luật Hình sự, không
xử lý hình sự mà xem xét, xử lý bằng biện pháp khác là có căn cứ, đúng quy định.
Đối với các cá nhân có trách nhiệm trong việc quản lý, bảo vệ rừng tại
khoảnh 1, 3 tiểu khu 73 xã M, huyện D. Cơ quan điều tra thụ lý tin báo để xác minh
làm rõ và xử lý sau.
Bị cáo khai nhận hành vi phạm tội đúng như nội dung bản Cáo trạng; bị cáo
nói lời sau cùng, xin A đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt. Đại diện Nguyên
đơn dân sự yêu cầu bị cáo phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo quy định
pháp luật và đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được
thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, A đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Đồng
Xuân, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đồng Xuân, Kiểm sát viên
trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ
tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo,
người đại diện hợp pháp của nguyên đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên
quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành
tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan
tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Lời khai nhận tội của bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa phù hợp
với nhau, phù hợp với lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan về thời
gian, địa điểm phạm tội và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ
vụ án được thẩm tra tại phiên tòa. Vì vậy, đủ cơ sở kết luận: Trong khoảng thời gian
đầu tháng 06/2020 tại khoảnh 1, 3 tiểu khu 73 xã M, huyện D do UBND xã M quản
5
lý. La O D đã có hành vi cùng vợ là La O Thị A và 04 nhân công gồm: NLQ1,
NLQ2, NLQ4, NLQ3 chặt, phá rừng phòng hộ với diện tích 5.100 m
2
(0,51 ha), gây
thiệt hại 44.087.518 đồng. Nên Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đồng
Xuân, truy tố bị cáo La O D về tội “Hủy hoại rừng” theo điểm c khoản 1 Điều 243
BLHS là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3] Hành vi phạm tội của bị cáo nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến tài
nguyên rừng và chế độ quản lý rừng của Nhà nước, xâm phạm đến môi trường sinh
thái, có thể gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho đời sống chung của xã hội, nên
đối với bị cáo cần áp dụng một hình phạt nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ
phạm tội của bị cáo. Tuy nhiên, xét bị cáo là người đồng bào thiểu số, sinh sống ở
vùng có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn; mục đích phá rừng là để lấy đất làm
rẫy trồng lúa, trồng keo để cải thiện đời sống; bị cáo nhận thức pháp luật ít hiểu biết
nên không phân định được ranh giới các loại rừng, bị cáo cho rằng nguyên thủy
diện tích rừng này là của ông, bà ngày xưa đã khai phá nên nay đến phát dọn để lấy
đất sản xuất; bị cáo có nơi cư trú rõ ràng; số diện tích rừng bị hủy hoại không lớn;
sau khi phạm tội bị cáo đã nhận thấy lỗi lầm, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải,
đã tích cực bồi thường thiệt hại; đại diện nguyên đơn dân sự xin giảm nhẹ hình phạt
cho bị cáo, nên không cần thiết xử phạt hình phạt tù mà cho bị cáo được hưởng hình
phạt cải tạo không giam giữ cũng đủ tác dụng giáo dục bị cáo, phù hợp với chính
sách khoan hồng của pháp luật Nhà nước ta, như lời đề nghị của Kiểm sát viên. Xét
bị cáo thuộc diện hộ cận nghèo, là đồng bào dân tộc thiểu số, sinh sống ở vùng có
điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn, không có thu nhập ổn định nên miễn khấu trừ
thu nhập đối với bị cáo La O D như đề nghị của Kiểm sát viên.
Đối với La O Thị A và 04 nhân công gồm: NLQ1, NLQ2, NLQ4, NLQ3 đã có
hành vi cùng với bị cáo La O D trực tiếp chặt phá rừng tự nhiên, chức năng rừng
phòng hộ với diện tích rừng là 5.100 m
2
. Hành vi của La O Thị A và 04 nhân công
NLQ1, NLQ2, NLQ4, NLQ3 có dấu hiệu của tội Huỷ hoại rừng, quy định tại Điều
243 Bộ luật Hình sự. Tuy nhiên trước khi đi phát rừng, A và 04 nhân công được bị cáo
D cho biết khu rừng tại tiểu khu 73 là đất do ông, bà D đã khai hoang trước đây. Bản
thân A, NLQ1, NLQ2, NLQ3, NLQ4 là người đồng bào dân tộc thiểu số, sống tại khu
vực kinh tế đặc biệt khó khăn, nên không nhận thức được khu rừng trên là rừng do
UBND xã M quản lý. Hơn nữa, La O Thị A là người chỉ thực hiện theo yêu cầu của
chồng mình nên xét thấy tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi A và 04 nhân
6
công gồm: NLQ1, NLQ2, NLQ3, NLQ4 là không đáng kể. Cơ quan CSĐT Công an
huyện D áp dụng khoản 2 Điều 8 Bộ luật Hình sự không xử lý hình sự đối với La O
Thị A và 04 nhân công gồm: NLQ1, NLQ2, NLQ4, NLQ3 mà xem xét, xử lý bằng
biện pháp khác là có căn cứ, đúng quy định.
Đối với các cá nhân có trách nhiệm trong việc quản lý, bảo vệ rừng tại
khoảnh 1, 3 tiểu khu 73 xã M, huyện D. Cơ quan điều tra thụ lý tin báo để xác minh
làm rõ và xử lý sau.
[4] Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 48 BLHS; các Điều 584, 585,
586, 589 BLDS. Buộc bị cáo D phải bồi thường cho UBND xã M, huyện D số tiền
44.087.518đ, bị cáo đã bồi thường 5.218.000đ, còn phải tiếp tục bồi thường số tiền
38.869.518đ. UBND xã M được nhận 5.218.000đ, khoản tiền bị cáo La O D đã
khắc phục, bồi thường.
[5] Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 BLHS; Điều 106 BLTTHS. Tịch
thu sung quỹ: 01 máy cưa xăng cầm tay, màu vàng cam, phần lam, xích bị tháo rời
ra khỏi thân máy. Tịch thu tiêu hủy: 01 cái rựa dài 64cm, phần cán bằng gỗ dài
37,5cm, phần lưỡi dài 26,5cm; 01 cái rựa dài 57cm, phần cán bằng gỗ dài 36cm,
phần lưỡi dài 21cm; 01 cái rựa cán gỗ dài 67cm, phần cán hình trụ tròn, màu nâu
đen dài 41cm, đường kính 3,2cm, phần lưỡi bằng kim loại màu đen, dạng một lưỡi
cắt, màu đen, dài 26cm, bản rộng nhất 3,2cm, thon dần về mũi; 01 cái rựa cán gỗ
58cm, phần cán hình trụ tròn, màu nâu đen dài 42cm, đường kính 3,2cm, phần lưỡi
bằng kim loại màu đen, dạng một lưỡi cắt, dài 16cm, bản rộng nhất 3,8cm, một đầu
có vết gãy nham nhở, bề mặt rỉ sét.
[6] Về án phí: Bị cáo La O D thuộc diện hộ cận nghèo và là đồng bào dân tộc
thiểu số sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn, nên xét miễn án
phí HSST và án phí DSST cho bị cáo D.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Tuyên bố: Bị cáo La O D phạm tội: "Hủy hoại rừng”.
- Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 243; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 36
BLHS. Xử phạt: Bị cáo La O D 01 (một) năm 06 (sáu) tháng cải tạo không giam
giữ, về tội: “ Hủy hoại rừng” thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày cơ quan
7
Thi hành án hình sự Công an huyện D, tỉnh Phú Yên nhận được Bản án và Quyết
định thi hành án. Miễn khấu trừ thu nhập đối với bị cáo D.
Giao bị cáo La O D cho UBND xã M, huyện D, tỉnh Phú Yên giám sát, giáo
dục bị cáo. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với UBND xã M trong việc
giám sát, giáo dục bị cáo. Bị cáo phải thực hiện nghĩa vụ của người bị kết án cải tạo
không giam giữ theo quy định tại Điều 99 Luật Thi hành án hình sự. Trường hợp bị
cáo thay đổi nơi cư trú thì việc giám sát, giáo dục bị cáo được thực hiện theo quy
định tại Điều 100 Luật Thi hành án hình sự.
- Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 48 BLHS; các Điều 584, 585, 586,
589 BLDS. Buộc bị cáo La O D phải bồi thường cho UBND xã M, huyện D số tiền:
44.087.518đ, bị cáo đã bồi thường 5.218.000đ. Bị cáo D còn phải tiếp tục bồi
thường cho UBND xã M số tiền 38.869.518đ. (Ba mươi tám triệu, tám trăm sáu
mươi chín nghìn, năm trăm mười tám đồng)
UBND xã M được nhận khoản tiền 5.218.000đ bị cáo La O D đã khắc phục,
bồi thường. Theo phiếu ủy nhiệm chi được lập ngày 03/7/2023 giữa Cơ quan Công
An huyện D và cơ quan Chi cục Thi hành án dân sự huyện D.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật và có đơn yêu cầu thi hành án của
người được thi hành án, hàng tháng người phải thi hành án phải chịu lãi chậm trả
với mức lãi suất theo quy định tại khoản 2 Điều 468 BLDS trên số tiền chậm trả
tương ứng với thời gian và số tiền chưa thi hành án, trừ trường hợp pháp luật có quy
định khác.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự
có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án
dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án
dân sự.
- Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 BLHS; điểm c khoản 2 Điều 106
BLTTHS. Tịch thu sung quỹ: 01 máy cưa xăng cầm tay, màu vàng cam, phần lam,
xích bị tháo rời ra khỏi thân máy. Tịch thu tiêu hủy: 01 cái rựa dài 64cm, phần cán
bằng gỗ dài 37,5cm, phần lưỡi dài 26,5cm; 01 cái rựa dài 57cm, phần cán bằng gỗ
dài 36cm, phần lưỡi dài 21cm; 01 cái rựa cán gỗ dài 67cm, phần cán hình trụ tròn,

8
màu nâu đen dài 41cm, đường kính 3,2cm, phần lưỡi bằng kim loại màu đen, dạng
một lưỡi cắt, màu đen, dài 26cm, bản rộng nhất 3,2cm, thon dần về mũi; 01 cái rựa
cán gỗ 58cm, phần cán hình trụ tròn, màu nâu đen dài 42cm, đường kính 3,2cm,
phần lưỡi bằng kim loại màu đen, dạng một lưỡi cắt, dài 16cm, bản rộng nhất
3,8cm, một đầu có vết gãy nham nhở, bề mặt rỉ sét.
(Tất cả theo biên bản giao, nhận đồ vật, tài liệu, vật chứng giữa Cơ quan
Cảnh sát điều tra và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đồng Xuân lập ngày
29/6/2023).
- Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 12 Nghị
quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc A
về án phí, lệ phí Tòa án. Bị cáo La O D thuộc diện hộ cận nghèo và là đồng bào dân
tộc thiểu số sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn nên xét miễn án
phí HSST và án phí DSST cho bị cáo D.
- Về quyền kháng cáo: Bị cáo, Nguyên đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa
vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Riêng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt, được quyền kháng cáo
trong hạn 15 ngày, kể từ ngày bản án được niêm yết hoặc tống đạt hợp lệ.
T/M HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
Nơi nhận: Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa
- TAND tỉnh Phú Yên (Phòng Kt-nv);
- VKSND tỉnh Phú Yên;
- Sở tư pháp tỉnh Phú Yên;
- VKSND huyện Đồng Xuân;
- Công an huyện Đồng Xuân;
- CC THADS huyện Đồng Xuân;
- UBND xã Phú mỡ;
- Những người tham gia tố tụng. Nguyễn Văn Long
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 30/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 24/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 18/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 18/12/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 16/11/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 21/09/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 07/09/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 06/09/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 25/08/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 25/08/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 18/08/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 24/05/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 22/05/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 27/04/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 13/04/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 30/03/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 22/03/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 20/03/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 20/03/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm