Bản án số 41/2023/HS-PT ngày 18/12/2023 của TAND TP. Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình về tội hủy hoại rừng
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng tội danh
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 41/2023/HS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 41/2023/HS-PT
| Tên Bản án: | Bản án số 41/2023/HS-PT ngày 18/12/2023 của TAND TP. Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình về tội hủy hoại rừng |
|---|---|
| Tội danh: | 189.Tội hủy hoại rừng (Bộ luật hình sự năm 1999) |
| Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
| Tòa án xét xử: | TAND TP. Hòa Bình (TAND tỉnh Hòa Bình) |
| Số hiệu: | 41/2023/HS-PT |
| Loại văn bản: | Bản án |
| Ngày ban hành: | 18/12/2023 |
| Lĩnh vực: | Hình sự |
| Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Thông tin về vụ án: |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH HÒA BÌNH
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 41/2023/HS-PT
Ngày 18-12-2023
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HÒA BÌNH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:
Ông Nguyễn Quang Tuấn.
Các Thẩm phán:
Bà Lý Thị Đoàn.
Bà Hoàng Ngọc Liễu.
- Thư ký phiên tòa: Bà Đinh Thị Thương - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh
Hòa Bình.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hòa Bình tham gia phiên tòa:
Ông Vũ Quốc Hùng - Kiểm sát viên.
Ngày 18 tháng 12 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hòa Bình xét
xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 60/2023/TLPT-HS
ngày 09 tháng 11 năm 2023 đối với bị cáo Lường Văn Th do có kháng cáo của
bị cáo Lường Văn Th đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 13/2023/HS-ST ngày
26 tháng 9 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Hòa Bình.
- Bị cáo có kháng cáo:
Lường Văn Th, sinh ngày 04 tháng 12 năm 1977 tại xã T, huyện Đ, Hòa
Bình. Nơi cư trú: Xóm Ê, xã T, huyện Đ, tỉnh Hòa Bình; nghề nghiệp: Lao động
tự do; trình độ văn hóa: 7/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nam; tôn giáo: Không;
quốc tịch: Việt Nam; con ông Lường Văn T, sinh năm 1946 và bà Xa Thị P, sinh
năm 1946; có vợ là Nguyễn Thị Tuấn A, sinh năm 1977 và 02 con (lớn sinh năm
1996, nhỏ sinh năm 1997); tiền án, tiền sự: Không.
Tạm giam, tạm giữ: Bị bắt tạm giam từ ngày 28/4/2023 đến ngày
16/6/2023; hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khởi nơi cư trú.
“có mặt”.
- Người bào chữa cho bị cáo: Bà Đinh Thị Q, Trợ giúp viên pháp lý của
Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Hòa Bình - Chi nhánh huyện Đ; “có
mặt”.
2
- Nguyên đơn dân sự: Ủy ban nhân dân xã T, huyện Đ, tỉnh Hòa Bình. Đại
diện theo pháp luật ông Lò Văn L- Chủ tịch UBND xã (có đơn đề nghị xét xử
vắng mặt)
- Ngoài ra còn có người có quyền lợi, nghĩa vụ liên không có kháng cáo,
không bị kháng cáo, kháng nghị Tòa không triệu tập.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung
vụ án được tóm tắt như sau:
Lường Văn Th là lao động tự do tại địa phương. Do nhu cầu cá nhân cần
diện tích đất để canh tác nông nghiệp một cách bất hợp pháp nên Th nảy sinh ý
định chặt, phá cây rừng tại khu đồi S thuộc xóm Ê, xã T, huyện Đ, tỉnh Hòa
Bình. Th biết khu đồi S là rừng phòng hộ do Ủy ban nhân dân xã T, huyện Đ,
tỉnh Hòa Bình quản lý và biết việc chặt, phá rừng phòng hộ trái phép là vi phạm
pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện. Ngày 03/01/2023, Th gặp một số người phụ
nữ quen mặt mà trước đây Th đã từng thuê đi làm nương (gồm 07 người là: chị
Triệu Thị Đ, Bàn Thị L1, Triệu Thị D, Bàn Thị T1, Đặng Thị T2, Đặng Thị T3
và Triệu Thị H; cùng trú tại: xóm Th, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Hòa Bình). Th thỏa
thuận thuê những người này đi phát nương cho nhà mình và hứa hẹn sẽ trả công
với số tiền là 200.000 đồng/01 người /01 ngày làm việc. Khi trao đổi trực tiếp
Th cũng nhờ mọi người nếu có ai muốn đi làm thì gọi đi cùng. Những người này
nghĩ là được Th thuê đi phát nương như trước nên đã đồng ý.
Ngày 04/1/2023 như đã thỏa thuận các chị Đặng Thị T2, Bàn Thị L1, Triệu
Thị Ch, Triệu Thị D, Triệu Thị T1, Triệu Thị H và Triệu Thị Đ đi đến khu vực
rừng M thuộc xóm Ê, xã T gặp Th. Sau đó Th dẫn tất cả mọi người cùng đi lên
đồi bên tay phải đường tỉnh 433 theo hướng xã T đi xã T'. Đến khu vực đồi S,
thuộc xóm Ê, xã T, huyện Đ là vị trí Th đã lựa chọn trước đó thì dừng lại, Th chỉ
cho mọi người khu vực chặt, phát cây rừng. Thấy khu vực này có nhiều cây tự
nhiên, nhiều cây thân gỗ lớn nên có người thắc mắc. Lúc này, Th có nói với mọi
người “Đây là “Ót” (ý là nương cũ) của nhà ngày xưa làm rồi bây giờ làm lại
thôi”. Rồi tiếp tục nói với những người có mặt “Cây to để lại, cây nhỏ thì chặt”,
“Tôi thuê các chị thì cứ làm đi”. Nghe vậy, những người làm thuê nghĩ rằng
điểm chặt phá là nương của nhà Th và được chính quyền cho phép nên tất cả
mọi người cùng Th sử dụng dao chặt, phát cây bụi và cây gỗ nhỏ cỡ bắp chân
người trưởng thành trở xuống, còn những cây to hơn thì để lại. Mọi người chặt
phá rừng đến khoảng 11 giờ 30 phút cùng ngày thì nghỉ ăn cơm trưa. Đến
khoảng gần 14 giờ cùng ngày lại tiếp tục chặt phá cây rừng đến lúc trời nhá
nhem tối khoảng 17 giờ thì nghỉ. Lúc này, Th thanh toán tiền công cho những
người làm thuê như đã thỏa thuận số tiền là 200.000 đồng/01 người ngay tại nơi
chặt phát cây, sau đó mọi người ra về. Sau khi trả tiền công cho mọi người xong
3
thì Th đi đến lán trại của ông Hà Văn Kh, sinh năm 1968 là người cùng xóm ở
đối diện với đồi S nơi Th chặt, phá xin ngủ nhờ.
Đến sáng ngày hôm sau 05/01/2023, Th ngồi chờ ở đường lên khu vực chặt
phá rừng thì có chị Lý Thị M, Lý Thị M1, Đặng Thị T2, Đặng Thị T3, Triệu Thị
H và Bàn Thị T1 đi đến để chặt phát cây thuê. Sau đó, cũng như ngày hôm trước
Th dẫn người làm thuê đến dùng dao tiếp tục chặt phát cây rừng tại khu vực đồi
S đến khoảng 17 giờ cùng ngày thì nghỉ. Th trả tiền luôn cho những người làm
thuê rồi mọi người ra về. Do hết tiền nên Th không thuê người dân đi làm nữa.
Trong ngày 06/01/2023, Th cầm theo một chiếc cưa máy một mình đi cắt những
cây to không thể dùng dao chặt được trên diện tích đã phát sạch cây nhỏ, cây
bụi. Việc Th thuê người chặt phá rừng và trực tiếp sử dụng cưa máy cắt những
cây thân gỗ to ở khu vực đồi S đều được ông Hà Văn Kh nhìn thấy, biết được và
khai báo với Cơ quan Cảnh sát điều tra trong quá trình điều tra vụ án.
Đến ngày 09/01/2023 khi phát hiện diện tích rừng nêu trên bị Lường Văn
Th chặt phá, anh Xa Văn C, sinh năm 1986 là trưởng thôn xóm Ê, xã T cùng anh
Hà Văn H, sinh năm 1982 là cán bộ phòng cháy, chữa cháy bảo vệ rừng của Ủy
ban nhân dân xã T đến nhà của Th lập biên bản yêu cầu Th dừng việc chặt phá
rừng, sau đó báo cáo sự việc đến Ủy ban nhân dân xã T.
Hạt Kiểm lâm Đ sau khi tiếp nhận tin báo về tội phạm đã thụ lý xác minh
tin báo, xác định có dấu hiệu tội phạm, ngày 13/02/2023 Hạt kiểm lâm Đ đã
khởi tố vụ án hình sự về tội Hủy hoại rừng theo quy định tại điểm e khoản 2
Điều 243 Bộ luật Hình sự và chuyển vụ án đến Cơ quan cảnh sát điều tra Công
an huyện Đ để điều tra theo thẩm quyển.
Ngày 03/3/2023, Cơ quan CSĐT Công an huyện Đ phối hợp với VKSND
huyện Đ tổ chức khám nghiệm hiện trường vụ án có sự tham gia của giám định
viên thuộc Chi cục Kiểm lâm tỉnh Hòa Bình, cán bộ Chi nhánh Văn phòng đăng
ký đất đai huyện Đ. Kết quả khám nghiệm xác định diện tích rừng bị hủy hoại là
8.718,4m
2
tại tiểu khu 11, khoảnh 20, gồm các lô 34; 35; 36; 41 theo bản đồ quy
hoạch 3 loại rừng ban hành kèm theo Quyết định 3042/2018/QĐ-UBND của Ủy
ban nhân dân tỉnh Hòa Bình. Khối lượng lâm sản bị thiệt hại: Gỗ 22,286m
3
; Củi
cành, ngọn 12Ste thuộc nhóm gỗ thông thường.
Tại bản Kết luận giám định số 08/KL-GĐ ngày 10/3/2023 của Chi cục
Kiểm lâm – Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Hòa Bình kết luận:
“Diện tích 8.718,4m
2
có cây gỗ tự nhiên thuộc tiểu khu 11, khoảnh 20, gôm các
lô 34; 35; 36; 41 đồi s thuộc xóm Ê, xã T, huyện Đ, tỉnh Hòa Bình… là rừng tự
nhiên… loại rừng là rừng phòng hộ… trạng thái khu rừng bị chặt phá là Rừng
hỗn giao gỗ và tre, nứa tự nhiên núi đất (HG1)… Khối lượng lâm sản bị thiệt
hại: Gỗ 22,286m
3
; Củi cành, ngọn 12Ste thuộc nhóm gỗ thông thường” .
4
Tại bản Kết luận định giá tài sản số 07/KL-HĐĐGTS ngày 07/4/2023 của
Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng Hình sự huyện Đ kết luận: Thiệt hại về
lâm sản 22,286m
3
gỗ thông thường có giá trị 29.150.000đ, 12Ste Củi cành, ngọn
thuộc nhóm gỗ thông thường có giá trị 3.396.000đ. Tổng giá trị thiệt hại về lâm
sản là 32.546.000đ. Không đủ căn cứ để định giá thiệt hại về môi trường do rừng
bị hủy hoại.
Bản án sơ thẩm số 13/2023/HS-ST ngày 26/9/2023 của Tòa án nhân dân
huyện Đ, tỉnh Hòa Bình quyết định: Tuyên bố bị cáo Lường Văn Th phạm tội
Hủy hoại rừng. Áp dụng điểm e khoản 2 Điều 243; Điều 38; Điều 47; điểm b, s
khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54 của Bộ luật Hình sự, xử phạt Lường Văn Th
18 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, trách
nhiệm dân sự, án phí và quyền kháng cáo.
Ngày 06/10/2023, bị cáo Lường Văn Th kháng xin hưởng án treo.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Lường Văn Th giữ nguyên nội dung kháng
cáo.
Trợ giúp viên pháp lý bào chữa cho bị cáo trình bày: Bị cáo có nhiều tình
tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đã khắc
phục hậu quả thiệt hại do hành vi của bị cáo gây ra theo quyết định của bản án
sơ thẩm; là người dân tộc thiểu số sống ở vùng kinh tế đặc biệt khó khăn, sức
khỏe thường xuyên ốm đau, là lao động chính trong gia đình. Đề nghị Hội đồng
xét xử chấp nhận kháng cáo, cho bị cáo được hưởng án treo.
Trình bày quan điểm về việc giải quyết vụ án của đại diện Viện kiểm sát
nhân dân tỉnh Hòa Bình:
Về thời hạn kháng cáo và thủ tục thực hiện quyền kháng cáo của bị cáo đã
được thực hiện trong thời hạn và đúng hình thức theo quy định;
Về nội dung kháng cáo của bị cáo:
Tòa án nhân dân nhân dân huyện Đ xử phạt bị cáo về tội Hủy hoại rừng
theo điểm e khoản 2 Điều 243 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người ,
đúng tội, mức hình phạt 18 tháng tù đối với bị cáo là phù hợp.
Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối, trình bày
thêm tình tiết đã khắc phục toàn bộ hậu quả thiệt hại do hành vi phạm tội của bị
cáo gây ra theo bản án sơ thẩm và UBND xã T có đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự đối với bị cáo, gia đình có hoàn cảnh khó khăn, bản thân là lao động
chính, đây là tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 51 Bộ luật Hình sự, đề nghị
Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 355, điểm e, khoản 1 Điều 357
của Bộ luật tố tụng hình sự chấp nhận kháng cáo của bị cáo, sửa bản án hình sự
5
sơ thẩm số 13/2023/HS-ST ngày 26 tháng 9 năm 2023 của Tòa án nhân dân
huyện Đ, tỉnh Hòa Bình. (Giữ nguyên mức hình phạt tù và cho hưởng án treo).
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã
được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng:
Hành vi, quyết định tố tụng của của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện
kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về
thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá
trình điều tra cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm không ai có ý kiến hoặc
khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành
tố tụng. Do vậy các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng,
người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
Bị cáo kháng cáo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, được xem xét
theo trình tự phúc thẩm.
[2]. Về nội dung:
Bị cáo Lường Văn Th do muốn có diện tích đất để canh tác nên đã thực
hiện hành vi chặt phá cây rừng trái phép, với diện tích bị chặt phá là 8.718,4m
2
,
khối lượng lâm sản bị thiệt hại: gỗ 22,286m
3
; củi cành, ngọn 12Ste thuộc nhóm
gỗ thông thường. Tổng giá trị thiệt hại về lâm sản là 32.546.000đ.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của
mình, lời khai nhận của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ
vụ án. Như vậy có đủ căn cứ để xác định Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội
hủy hoại rừng theo điểm e khoản 2 Điều 243 của Bộ luật hình sự là có căn cứ,
đúng pháp luật.
[3] Xét kháng cáo của bị cáo:
Quá trình giải quyết vụ án bị cáo luôn thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải;
có ý thức tích cực bồi thường, khắc phục hậu quả thiệt hại do bị cáo gây ra;
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo xuất trình thêm chứng cứ mới:
- Biên lai thu tiền số 0001701 ngày 17/11/2023 của Chi cục thi hành án dân
sự huyện Đ số tiền 12.000.000đ.
- Biên lai thu tiền số 0001651 ngày 20/11/2023 của Chi cục thi hành án dân
sự huyện Đ số tiền 10.546.000đ
- Đơn đề nghị của UBND xã T, huyện Đ, tỉnh Hòa Bình về việc cho bị cáo
được hưởng án treo.
Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận thấy: Bị cáo vì muốn có đất để canh tác
nhưng do nhận thức pháp luật không đúng nên đã có hành vi phạm tội, bị cáo
luôn thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đã khắc phục toàn bộ hậu quả thiệt hại
6
do bị cáo gây ra, là người dân tộc thiểu số sống ở vùng kinh tế đặc biệt khó
khăn, bản thân là lao động chính, đây là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s
khoản 1 Điều 51Bộ luật Hình sự. Bị cáo luôn chấp hành đúng chính sách, pháp
luật và thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của công dân ở nơi cư trú, có nơi cư trú rõ
ràng để cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giám sát, giáo dục.
Từ những nhận định nêu trên, căn cứ vào hướng dẫn tại Nghị quyết
02/2018/NQ-HĐTP ngày 15 tháng 5 năm 2018, Nghị quyết số 01/2022/NQ-
HĐTP ngày 15/4/ 2022 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao về
hướng dẫn áp dụng Điều 65 Bộ luật Hình sự. Hội đồng xét xử xét thấy có căn cứ
để chấp nhận kháng cáo, cho bị cáo được hưởng án treo cũng đủ để cải tạo, giáo
dục bị cáo trở thành người có ích, không gây nguy hiểm cho xã hội, không ảnh
hưởng xấu đến an ninh trật tự, an toàn xã hội, để các bị cáo có cơ hội sửa chữa
lỗi lầm là thể hiện sự khoan hồng của pháp luật, phù hợp với đề nghị của Kiểm
sát viên tại phiên tòa phúc thẩm.
[4]. Một số nội dung khác trong bản án sơ thẩm:
Đối với vật chứng là gỗ rừng bị chặt phá, sau khi khám nghiệm hiện trường
do không thể thu giữ, vận chuyển được, các cơ quan chúc năng không tiến hành
thu giữ mà để lại hiện trường theo biên bản ngày 03/3/2023, cấp sơ thẩm giao
cho UBND xã T quản lý, xử lý theo quy định là đúng pháp luật.
Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 28/4/2023 đến ngày 16/6/2023 nhưng
không được thể hiện trong bản án sơ thẩm là thiếu sót, cấp sơ thẩm cần rút kinh
nghiệm sâu sắc.
[5]. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị
kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.
[6]. Về án phí: Bị cáo kháng cáo không phải chịu phí hình sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm e khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố
tụng hình sự: Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lường Văn Th, sửa bản án hình
sự sơ thẩm số 13/2023/HS-ST ngày 26 tháng 9 năm 2023 của Tòa án nhân dân
huyện Đ, tỉnh Hòa Bình. (Giữ nguyên mức hình phạt tù và cho hưởng án treo),
cụ thể:
1. Căn cứ vào điểm e, khoản 2 Điều 243; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều
51, Điều 54, Điều 65 của Bộ luật Hình sự:
Tuyên bố bị cáo Lường Văn Th phạm tội Hủy hoại rừng. Xử phạt bị cáo
Lường Văn Th 18 (mười tám) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, chịu thời gian
thử thách là 36 (ba mươi sáu) tháng kể từ ngày tuyên án phúc thẩm 18/12/2023.
7
Giao bị cáo Lường Văn Th cho Ủy ban nhân dân xã T, huyện Đ, tỉnh Hòa
Bình giám sát giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp bị cáo thay đổi nơi
cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự. Trong
thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo, cố ý vi phạm nghĩa vụ theo
quy định của Luật thi hành án hình sự từ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết
định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án
treo.
2. Căn cứ vào Điều 584, Điều 585, Điều 586, Điều 589 của Bộ luật dân sự:
Bị cáo Lường Văn Th phải bồi thường cho UBND xã T tổng số tiền
32.546.000 đồng. Số tiền này bị cáo đã nộp đủ tại Chi cục thi hành án dân sự
huyện Đ để đảm bảo việc thi hành án:
- Biên lai thu tiền số 0002550 ngày 31/7/2023 số tiền 10.000.000đ
- Biên lai thu tiền số 0001701 ngày 17/11/2023 số tiền 12.000.000đ
- Biên lai thu tiền số 0001651 ngày 20/11/2023 số tiền 10.546.000đ
3. Căn cứ vào Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự
Tịch thu, tiêu hủy các vật chứng sau:
- 01 (Một) con dao Quắm, 01 lưỡi đầu tù có tổng chiều dài 47,0cm. Phần
chuôi dao bằng gỗ hình trụ tròn có đường kính 3,0cm, dài 25,0cm. Trên chuôi
dao có 02 khâu, phần lưỡi dao bằng kim loại dài 22cm có dạng hình cung, bản
dao tại vị trí rộng nhất là 5,0cm. Dao cũ đã qua sử dụng.
- 01 (Một) con dao Tông một lưỡi bằng có tổng chiều dài là 56,0cm. Phần
chuôi dao gồm kim loại và gỗ dài 29,0cm. Phần lưỡi dao bằng kim loại dài
27,0cm. Bản dao tại vị trí rộng nhất là 8,2cm. Dao cũ đã qua sử dụng.
Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước: 01 (Một) Cưa xăng phần tem nhãn
hiệu bị rách một phần còn lại dãy chữ sau Husqvarn. Tổng chiều dài 91,0cm; rộng
24,0cm; cao 31,0cm. Thân máy màu cam. Máy cũ đã qua sử dụng. Máy hiện
không hoạt động được.
(Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 12/2023 ngày 25/8/2023
giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đ và Chi cục thi hành án dân sự
huyện Đ).
Giao UBND xã T quản lý, khối lượng lâm sản bị thiệt hại gồm 22,286m
3
gỗ
và 12Ste củi cành, ngọn thuộc nhóm gỗ thông thường vẫn giữ nguyên trạng tại
hiện trường tại biên bản ngày 03/3/2023.
2. Về án phí: Căn cứ vào Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/
2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Bị cáo Lường Văn Th phải chịu 200.000
đồng án phí hình sự sơ thẩm, không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng
nghị có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
8
4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật từ ngày tuyên án (18/12/2023)./.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Hòa Bình;
- VKSND H. Đ;
- TAND H..Đ;
- Chi cục THADS h.Đ;
- UBND xã T, Đ;
- Bị cáo; Người bào chữa;
- Lưu HS; Tổ hành chính tư pháp.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
Nguyễn Quang Tuấn
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 30/01/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 24/01/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 18/01/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 16/11/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 21/09/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 07/09/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 06/09/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 25/08/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 25/08/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 18/08/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 16/08/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 24/05/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 22/05/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 27/04/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 13/04/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 30/03/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 22/03/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 20/03/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 20/03/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm