Cảm ơn quý khách đã gửi báo lỗi.
Hiển thị 1-20 trong 5.777 thuật ngữ
| Stt | Thuật ngữ | Mô tả / Định nghĩa | Nguồn |
|---|---|---|---|
| 5441 | Tước quốc tịch | Biện pháp của nhà nước buộc công dân có hành động vi phạm nghiêm trọng quyền và nghĩa vụ của công dân không được mang quốc tịch của nước đó. Nhà nước chấm dứt sự bảo hộ các quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tước quốc tịch và người bị tước quốc tịch cũng không được hưởng quyền cũng như không được thực hiện nghĩa vụ đối với nhà nước đó. Công dân Việt Nam cư trú ngoài lãnh thổ Việt Nam có thể bị tước quốc tịch Việt Nam nếu có hành động gây phương hại nghiêm trọng đến nền độc lập dân tộc, đến sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc, đến lợi ích và uy tín của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Việc tước quốc tịch là do Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quyết định. | Từ điển Luật học trang 554 |
| 5442 | Tuổi thành thục công nghệ | là tuổi của rừng, tại thời điểm đó rừng cho sản phẩm phù hợp với mục dích kinh doanh chính. | 40/2005/QĐ-BNN |
| 5443 | Tương trợ tư pháp quốc tế | Việc giúp đỡ lẫn nhau giữa các cơ quan tư pháp các nước về các vấn đề tư pháp và pháp luật trên cơ sở điều ước quốc tế hoặc theo pháp luật và thực tiễn tư pháp quốc tế. Việt Nam đã ký kết các hiệp định tương trợ tư pháp với một số nước trong lĩnh vực dân sự, hôn nhân - gia đình và hình sự. Các hiệp định đó quy định rõ phạm vi các vấn đề mà cơ quan tư pháp các nước hữu quan sẽ hợp tác, giúp đỡ nhau các nguyên tắc áp dụng để giải quyết xung đột pháp luật và xung đột về quyền tài phán trong các lĩnh vực cụ thể, cách thức hợp tác và thực hiện các ủy thác tư pháp quốc tế, các nguyên tắc bảo hộ quyền và lợi ích chính đáng của công dân các nước ký kết hiệp định, vv. Trong trường hợp không có hiệp định tương trợ tư pháp, các cơ quan tư pháp sẽ giúp đỡ nhau trên cơ sở pháp luật mình phù hợp với thực tiễn tư pháp quốc tế về vấn đề này (chủ yếu là theo nguyên tắc có đi có lại). | Từ điển Luật học trang 554 |
| 5444 | Tùy viên | "Theo pháp luật quốc tế là một trong những chức vụ ngoại giao thấp nhất, hàm cấp ngoại giao thấp nhất. Không nên nhầm lẫn giữa tùy viên (tùy viên ngoại giao) với tùy viên quân sự, tùy viên thương mại, tùy viên báo chí hoặc các loại tùy viên chuyên biệt khác không thuộc lĩnh vực pháp luật quốc tế. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, hàm tùy viên là hàm ngoại giao sau hàm đại sứ, hàm công sứ, hàm đại diện, hàm tham tán, hàm bí thư thứ nhất, hàm bí thư thứ hai, hàm bí thư thứ ba; thuộc cấp ngoại giao sơ cấp của Việt Nam. Người mang hàm tùy viên được cử đi công tác tại cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài được bổ nhiệm giữ chức vụ tùy viên hoặc chức vụ lãnh sự tương đương hàm tùy viên. Trong trường hợp vì nhu cầu công tác có thể bổ nhiệm giữ chức vụ ngoại giao hoặc chức vụ lãnh sự cao hơn. Pháp lệnh năm 1995 về hàm, cấp ngoại giao Việt Nam có quy định cụ thể các tiêu chuẩn của hàm tùy viên, quy tắc phong, thăng, tước hàm tùy viên, các quyền lợi và nghĩa vụ của tùy viên." | Từ điển Luật học trang 543 |
| 5445 | Tuyên án | Giai đoạn sau khi trình tự thủ tục tố tụng tại phiên tòa kết thúc, Hội đồng xét xử vào phòng nghị án để thảo luận và thông qua bản án, rồi trở lại phiên tòa công khai để tuyên án. Khi tuyên án, mọi người trong phòng xử án phải đứng dậy. Chủ tọa phiên tòa đọc bản án và sau khi đọc xong có thể giải thích thêm về việc chấp hành bản án và quyền kháng cáo. Nếu bị cáo không biết tiếng Việt thì sau khi tuyên án, người phiên dịch phải dịch lại cho bị cáo nghe toàn bộ bản án sang thứ tiếng mà bị cáo biết. | Từ điển Luật học trang 543 |
| 5446 | Tuyên bố chung | Văn kiện ghi nhận về sự thống nhất quan điểm, lập trường về các vấn đề quốc tế trong các cuộc đàm phán, gặp gỡ, viếng thăm giữa các đại diện của hai hoặc nhiều hơn quốc gia, thường là giữa những người đứng đầu quốc gia, những người đứng đầu chính phủ và được công bố rộng rãi trên thế giới. Tuyên bố chung được công bố tại nước ký kết hoặc được công bố cùng một thời điểm tại các nước tham gia đàm phán. Việc ra được tuyên bố chung chứng tỏ là các bên tham gia đàm phán đã có sự thống nhất về quan điểm, lập trường trong nhìn nhận và giải quyết các vấn đề có liên quan đến hai nước hoặc các vấn đề quốc tế, hoặc trước đây có sự khác biệt nay đã tìm được tiếng nói chung để đi đến hành động chung. Nó cũng chứng tỏ quan hệ của các quốc gia tham gia đàm phán là tốt đẹp hoặc đã được cải thiện. Ngược lại, các bên tham gia đàm phán không ra được tuyên bố chung là dấu hiệu chứng tỏ quan hệ của các bên tham gia đàm phán đã và đang nảy sinh những tranh chấp. | Từ điển Luật học trang 543 |
| 5447 | Tuyên bố của Đại Hội đồng Liên hợp quốc về các nguyên tắc của Luật quốc tế | Xuất phát từ vai trò quan trọng của các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế hiện đại đối với quá trình phát triển tiến bộ của luật quốc tế và việc xây dựng trật tự quốc tế mới, năm 1962 Đại Hội đồng Liên hợp quốc đã thông qua Nghị quyết về việc soạn thảo một văn bản nhằm pháp điển hóa các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế hiện đại. Song kết quả của công tác này mới chỉ đạt được ở mức soạn thảo một bản tuyên bố của Liên hợp quốc về những nguyên tắc của luật quốc tế điều chỉnh quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa các quốc gia phù hợp với Hiến chương Liên hợp quốc, được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 24/10/1970. Bản tuyên bố đã nêu 7 nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế như sau: 1. Cấm dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực chống lại sự toàn vẹn lãnh thổ và nền độc lập chính trị của các nước hoặc nhằm mục đích khác với Hiến chương Liên hợp quốc. 2. Giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng các phương pháp hòa bình. 3. Không can thiệp vào công việc nội bộ của các quốc gia khác. 4. Các quốc gia có nghĩa vụ hợp tác với nhau. 5. Các dân tộc có quyền bình đẳng và tự quyết. 6. Các quốc gia bình đẳng về chủ quyền. 7. Tự nguyện thực hiện các cam kết quốc tế. Theo quan điểm của Việt Nam thì bên cạnh những nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế nêu trên cần phải bổ sung thêm nguyên tắc tôn trọng chủ quyền quốc gia và nguyên tắc tôn trọng các quyền cơ bản của con người vào hệ thống nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế hiện đại bởi vì quan hệ quốc tế chủ yếu là quan hệ giữa các quốc gia độc lập, có chủ quyền, không tôn trọng chủ quyền quốc gia khác thì không thể duy trì và phát triển quan hệ giữa các quốc gia, không thể hợp tác bình đẳng giữa các quốc gia. Điều này được ghi nhận trong Điều 1 và Điều 50 - Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992. | Từ điển Luật học trang 544 |
| 5448 | Tuyên bố của đại Hội đồng Liên hợp quốc về thiết lập trật tự kinh tế quốc tế mới | Vào giữa những năm 1970 một vấn đề quan trọng trên thế giới cần được giải quyết và vấn đề dân chủ hóa quan hệ kinh tế và thiết lập trật tự kinh tế quốc tế mới. Quan điểm về trật tự kinh tế quốc tế mới cũng như chương trình tổng hợp về thiết lập trật tự này lần đầu tiên trong lịch sử Liên hợp quốc đã được tập thể các nước đang đấu tranh giải phóng dân tộc trình ra Hội nghị đặc biệt lần thứ 6 của Đại hội đồng Liên hợp quốc vào tháng 4/1974. Kết quả là tại Hội nghị đặc biệt này, một trong những văn bản quan trọng là Tuyên bố về chương trình thực hiện việc thiết lập trật tự kinh tế quốc tế mới đã được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua. Tiếp theo, một văn bản quan trọng khác trong lĩnh vực này do các nước xã hội chủ nghĩa và các nước đang đấu tranh giải phóng dân tộc đề xuất cũng được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua tại Hội nghị thường kỳ lần thứ 29 vào tháng 12/1974 là Hiến chương các quyền và nghĩa vụ kinh tế của các quốc gia. Nội dung cơ bản của Tuyên bố về trật tự kinh tế quốc tế mới là chủ quyền hoàn toàn và đầy đủ mỗi quốc gia đối với tài sản, các nguồn tài nguyên thiên nhiên và các hoạt động kinh tế của mình, thực hiện liên kết trao đổi các nguồn hàng hóa vật tư nguyên liệu, cho phép các hàng hóa công nghiệp của các nước đang đấu tranh giải phóng dân tộc được tự do tiêu thụ trên thị trường quốc tế, chuyển giao công nghệ, hạn chế các hoạt động tiêu cực của các công ty xuyên quốc gia, cho vay vốn để phát triển, cải cách hệ thống tiền tệ quốc tế và củng cố sự hợp tác kinh tế quốc tế giữa các quốc gia trên toàn thế giới. | Từ điển Luật học trang 544 |
| 5449 | Tuyên bố mất tích | "1. Khi một người biệt tích trong 6 tháng liền thì những người có quyền, lợi ích liên quan có quyền yêu cầu tòa án thông báo tìm kiếm người vắng mặt và quyết định quản lý tài sản của người đó (Điều 84 - Bộ luật dân sự). 2. Điều 85 - Bộ luật dân sự quy định việc quản lý tài sản của người vắng mặt như sau: a. Tài sản đã được người vắng mặt ủy quyền quản lý thì người được ủy quyền tiếp tục quản lý. b. Tài sản chung thì chủ sở hữu chung còn lại quản lý. c. Tài sản do vợ chồng đang quản lý thì vợ hoặc chồng tiếp tục quản lý; nếu vợ hoặc chồng đã chết hoặc mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì con đã thành niên hoặc cha mẹ của người vắng mặt quản lý. Nếu không có những người thuộc điểm a, b, c thì tòa án chỉ định một trong những người thân thích của người vắng mặt quản lý, nếu không có người thân thích thì cử người khác quản lý. 3. Theo các Điều 86, 87 - Bộ luật dân sự thì người quản lý tài sản của người vắng mặt có các quyền và nghĩa vụ: a. Giữ gìn, bảo quản tài sản của người vắng mặt. b. Cho bán ngay tài sản có nguy cơ bị hư hỏng. c. Trích một phần tài sản để thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng, thanh toán nợ của người vắng mặt. d. Giao lại tài sản khi người vắng mặt trở về. đ. Phải bồi thường thiệt hại nếu có lỗi trong việc quản lý. 4. Khi một người biệt tích đã 2 năm mà đã áp dụng biện pháp tìm kiếm mà không có kết quả thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, tòa án tuyên bố nguời đó. Tài sản của người bị tuyên bố mất tích vẫn được giao lại cho những người nói ở phần 2 quản lý. Sau khi tòa án đã tuyên bố mất tích thì chồng hoặc vợ người đó có quyền xin ly hôn. 5. Nếu người bị tuyên bố mất tích trở về hoặc có tin tức xác thực là người đó còn sống thì theo yêu cầu của người đó, tòa án hủy quyết định tuyên bố mất tích. Người đó được nhận lại tài sản, nhưng nếu vợ hoặc chồng người đó đã được tòa án cho ly hôn thì quyết định cho ly hôn vẫn có hiệu lực." | Từ điển Luật học trang 545 |
| 5450 | Tuyên bố một người đã chết | "1. Theo Điều 91 - Bộ luật dân sự thì người có quyền, lợi ích liên quan có thể yêu cầu tòa án ra quyết định tuyên bố một người là đã chết trong các trường hợp sau đây: a. Sau 3 năm, kể từ ngày quyết định tuyên bố mất tích của tòa án có hiệu lực mà vẫn không có tin tức là còn sống. b. Mất tích trong chiến tranh, sau 5 năm kể từ ngày chiến tranh kết thúc mà vẫn không có tin tức là còn sống. c. Bị tai nạn hoặc thảm họa thiên tai mà sau 1 năm kể từ ngày tai nạn hoặc thảm họa, thiên tai đó chấm dứt mà vẫn không có tin tức là còn sống, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. d. Biệt tích đã 5 năm mà không có tin tức là còn sống hoặc đã chết. 2. Tòa án xác định ngày chết của người bị tuyên bố là đã chết; nếu không xác định được ngày đó thì ngày mà quyết định của tòa án tuyên bố người đó là đã chết có hiệu lực pháp luật được coi là ngày người đó chết. 3. Tài sản của người bị tuyên bố đã chết được chia theo pháp luật về thừa kế. 4. Khi một người bị tuyên bố đã chết trở về hoặc có tin tức xác thực là người đó còn sống thì theo yêu cầu của người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan, tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố người đó đã chết. Tài sản thừa kế đã chia mà vẫn còn thì được trả lại cho người đó. Nếu vợ hoặc chồng của người đó đã kết hôn với người khác thì hôn nhân này vẫn có hiệu lực." | Từ điển Luật học trang 546 |
| 5451 | Tuyên bố một người mất tích | "Là trường hợp khi một người biệt tích hai năm liền trở lên, mặc dù đã áp dụng đầy đủ các biện pháp thông báo, tìm kiếm theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự nhưng vẫn không có tin tức xác thực về việc người đó còn sống hay đã chết thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, Toà án có thể tuyên bố người đó mất tích. Thời hạn hai năm được tính từ ngày biết được tin tức cuối cùng về người đó; nếu không xác định được ngày có tin tức cuối cùng thì thời hạn này được tính từ ngày đầu tiên của tháng tiếp theo tháng có tin tức cuối cùng; nếu không xác định được ngày, tháng có tin tức cuối cùng thì thời hạn này được tính từ ngày đầu tiên của năm tiếp theo năm có tin tức cuối cùng." | 33/2005/QH11 |
| 5452 | Tuyến dẫn tàu | là tuyến hành trình của tàu thuyền do hoa tiêu dẫn từ vùng đón trả hoa tiêu vào cầu cảng, bến cảng, khu neo đậu, khu chuyển tải, khu tránh bão, nhà máy đóng - sửa chữa tàu biển của một cảng biển hoặc cảng dầu khí ngoài khơi thuộc vùng hoa tiêu bắt buộc. | 173/2007/NĐ-CP |
| 5453 | Tuyến du lịch | là lộ trình liên kết các khu du lịch, điểm du lịch, cơ sở cung cấp dịch vụ du lịch, gắn với các tuyến giao thông đường bộ, đường sắt, đường thuỷ, đường hàng không. | 44/2005/QH11 |
| 5454 | Tuyển dụng | là việc tuyển người vào làm việc trong biên chế của cơ quan nhà nước thông qua thi hoặc xét tuyển. | 117/2003/NĐ-CP |
| 5455 | Tuyển dụng công chức dự bị | là việc tuyển người vào làm việc theo chế độ công chức dự bị thông qua thi hoặc xét tuyển. | 115/2003/NĐ-CP |
| 5456 | Tuyến đường sắt | là một khu đoạn hoặc nhiều khu đoạn liên tiếp tính từ ga đường sắt đầu tiên đến ga đường sắt cuối cùng. | 35/2005/QH11 |
| 5457 | Tuyên ngôn độc lập 2/9/1945 | "Văn kiện pháp lý, có tính chất cương lĩnh của ""Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam mới, đại biểu cho toàn dân Việt Nam"" do Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc tại quảng trường Ba Đình lịch sử ngày 2/9/1945, sau khi nhân dân Việt Nam lật đổ chế độ thực dân, phong kiến, thiết lập nền cộng hòa dân chủ đầu tiên ở Đông Nam Á. Mở đầu bản Tuyên ngôn độc lập, Hồ Chủ tịch đã viện dẫn: ""Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc"" (Tuyên ngôn độc lập của Mỹ năm 1776) và ""Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi"" (Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791). Tuyên ngôn độc lập ngày 2/9/1945 đã điểm lại quá trình đấu tranh gian khổ của dân tộc Việt Nam chống lại ách áp bức, bóc lột của thực dân, phong kiến và khẳng định Việt Nam đã ""thoát ly hẳn quan hệ với thực dân Pháp, xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam"" và trịnh trọng tuyên bố rằng: ""Nước Việt Nam có quyền được hưởng tự do và độc lập và sự thật đã trở thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy"". Sau ""Nam quốc sơn hà"" của Lý Thường Kiệt và ""Đại cáo bình Ngô"" của Nguyễn Trãi, Tuyên ngôn độc lập được coi là bản tuyên ngôn độc lập được coi là bản tuyên ngôn thứ ba của Việt Nam." | Từ điển Luật học trang 547 |
| 5458 | Tuyên ngôn về các nguyên tắc của Luật quốc tế | "Văn bản đã được Đại Hội đồng Liên hợp quốc thông qua bằng Nghị quyết 2625 ngày 24/10/1970. Nội dung của Tuyên ngôn nêu lên 7 nguyên tắc của Luật quốc tế về quan hệ giữa các quốc gia: 1) Kiềm chế việc đe dọa dùng vũ lực hoặc dùng vũ lực; 2) Giải quyết tranh chấp quốc tế bằng biện pháp hòa bình; 3) Không can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác; 4) Hợp tác giữa các quốc gia; 5) Tôn trọng quyền bình đẳng và tự quyết của các dân tộc; 6) Tôn trọng quyền bình đẳng và chủ quyền của các quốc gia; 7) Nghiêm chỉnh chấp hành các nghĩa vụ quốc tế. Tuyên ngôn về các nguyên tắc của luật quốc tế ngày 20/10/1970 của Đại hội đồng Liên hợp quốc là thành tựu của quá trình đấu tranh lâu dài của các nước nhỏ, yếu, chậm phát triển chống lại sự nô dịch, xâm lược của các nước lớn, đánh dấu bước phát triển mới của công pháp quốc tế nhằm mục đích thiết lập một nền hòa bình, hữu nghị, lâu dài giữa các nước trên thế giới. Trong thực tiễn các nước mạnh, giàu thường vi phạm các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế đã được Đại hội đồng Liên hợp quốc công nhận. Cuộc đấu tranh nhằm thực thi các nguyên tắc của luật quốc tế còn vấp phải nhiều trở lực lớn trong một thời gian dài." | Từ điển Luật học trang 548 |
| 5459 | Tuyến nước ngoài | là tuyến hàng hải từ cảng biển Việt Nam đến một hoặc một số cảng biển nước ngoài và ngược lại. | 57/2001/NĐ-CP |
| 5460 | Tuyên truyền pháp luật | "Phổ biến tinh thần và nội dung cơ bản của các văn bản pháp luật một cách trực tiếp hoặc qua các hình thức tác phẩm văn hóa, nghệ thuật trên các phương tiện thông tin đại chúng nhằm tác động tới những đối tượng nhất định, trong đông đảo các tầng lớp nhân dân để nâng cao nhận thức và ý thức pháp luật, nếp sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật. Theo Khoản 2 Điều 112 của Hiến pháp năm 1992 thì Chính phủ có nhiệm vụ ""tổ chức và lãnh đạo công tác tuyên truyền, giáo dục hiến pháp và pháp luật trong nhân dân""." | Từ điển Luật học trang 548 |
Thuật ngữ pháp lý