Cảm ơn quý khách đã gửi báo lỗi.
Hiển thị 1-20 trong 5.777 thuật ngữ
| Stt | Thuật ngữ | Mô tả / Định nghĩa | Nguồn |
|---|---|---|---|
| 5201 | Tòa quyền Đông Dương | "Thời Pháp thuộc, căn cứ theo Sắc lệnh ngày 17/10/1887 của tổng thống Pháp và được bổ sung, hoàn chỉnh bằng các sắc lệnh tiếp theo ngày 12/11/1887, ngày 9/5/1889 và ngày 21/4/1891, toàn quyền Đông Dương là người được ủy nhiệm thi hành những quyền lực của nước Cộng hòa Pháp tại Đông Dương (quyền lực ở đây bao hàm cả quyền lập pháp đối với thuộc địa, một đặc quyền của tổng thống Pháp). Những văn bản do toàn quyền Đông Dương ký để thực hiện quyền lập pháp và quyền hành pháp của mình tại Đông Dương được gọi là nghị định. Vẫn theo các sắc lệnh nói trên, toàn quyền Đông Dương ""nắm quyền chỉ đạo tối cao và quyền kiểm soát tất cả các công sở dân sự ở Đông Dương""; những viên chức đứng đầu cấp xứ trong liên bang Đông Dương đều ""đặt dưới quyền chỉ đạo trực tiếp của toàn quyền Đông Dương"" đồng thời toàn quyền Đông Dương là người nắm quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, có quyền tổ chức, chỉ đạo trực tiếp hoặc gián tiếp, ấn định chức năng, nhiệm vụ cho các cơ quan cai trị ở Đông Dương. Về mặt quân sự, Toàn quyền Đông Dương là người chịu trách nhiệm chung, có quyền tuyên bố lệnh thiết quân luật, có quyền ấn định mục đích và tính chất của cuộc chiến tranh, có quyền lập các đạo quan binh, ban hành lệnh bắt lính... song không được trực tiếp chỉ đạo chiến dịch. Dưới quyền chỉ đạo trực tiếp của toàn quyền Đông Dương là các viên chức thực dân cao cấp đứng đầu mỗi xứ (mỗi kỳ) thuộc Liên bang Đông Dương như thống đốc Nam Kỳ, thống sứ Bắc Kỳ, khâm sứ Trung Kỳ, kể cả khâm sứ Cao Miên và khâm sứ Lào. Chế độ toàn quyền Đông Dương ra đời từ tháng 10/1887 cùng với sự ra đời của Liên bang Đông Dương vào ngày 17/10/1887, bước đầu gồm 3 xứ Nam Kỳ, Trung Kỳ, Bắc Kỳ và Cao Miên rồi ngày 19/4/1899 thêm Lào và năm 1900 thêm Quảng Châu Loan (Trung Quốc)." | Từ điển Luật học trang 509 |
| 5202 | Tòa sơ thẩm | "Xét xử các vụ án mà các bản án do tòa công bố chưa phát sinh hiệu lực pháp luật ngay (chưa được thi hành ngay), trừ các tòa án chuyên trách của Tòa án nhân dân tối cao và Tòa án quân sự trung ương. Theo Luật tố tụng hình sự hiện hành của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì các tòa sơ thẩm ở Việt Nam gồm có: - Tòa án nhân dân cấp huyện và tòa án quân sự khu vực. - Tòa án nhân dân cấp tỉnh và tòa án quân sự cấp quân khu khi xét xử những vụ án thuộc thẩm quyền cấp mình hoặc những vụ án tuy thuộc quyền cấp huyện nhưng lấy lên để xét xử. - Tòa chuyên trách của Tòa án nhân dân tối cao khi xét xử những vụ án đặc biệt nghiêm trọng và phức tạp. Bản án sơ thẩm của các tòa này có hiệu lực thi hành ngay sau khi công bố. - Khi xét xử, hội đồng xét xử của tòa sơ thẩm gồm có một thẩm phán và hai hội thẩm nhân dân, nếu xét xử vụ án nghiêm trọng, thì có hai thẩm phán và ba hội thẩm nhân dân. Đối với các bản án sơ thẩm của các tòa án sơ thẩm, trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày công bố, đại diện viện kiểm sát có quyền kháng nghị; bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, đại diện hợp pháp của họ có quyền làm đơn chống án để yêu cầu tòa phúc thẩm xét xử lại vụ án." | Từ điển Luật học trang 506 |
| 5203 | Tòa thượng thẩm | "Ở Việt Nam, thời thuộc Pháp, trong tổ chức tư pháp tòa thượng thẩm thuộc loại các tòa án thường, cấp phúc thẩm đặt tại hai nơi: Hà Nội và Sài Gòn, có thẩm quyền xét xử chung thẩm các việc kháng cáo đối với các bản án của các tòa cấp dưới như tòa sơ thẩm, tòa hòa giải rộng quyền đã xét xử về việc tiểu hình hoặc việc dân sự. Ở mỗi tòa thượng thẩm có sự phân công rõ giữa ba cơ quan: thẩm cứu, truy tố và xử án. Cơ qan truy tố là viện công (cg. viện chưởng lý), có chưởng lý đứng đầu, rồi đến phó chưởng lý, tham lý và phó tham lý phụ tá. Tất cả các vị trên có thể thay nhau ngồi ghế công tố tại phiên tòa. Trái lại, các thẩm phán xử án không có thể thay nhau ngồi xét xử một vụ án tại phiên tòa được, vị nào đã ngồi xử vụ án đó từ đầu, sẽ phải tiếp tục ngồi xử cho đến khi tuyên án và không thể nhờ một thẩm phán khác làm hộ cho mình một phần các công việc nói trên. Bộ phận xử án gồm có chánh nhất, các chánh tòa và một số thẩm phán (Hà Nội có 9 vị, Sài Gòn có 11 vị) chia nhau đảm nhiệm các phần việc như sau: một tòa chuyên xét xử việc dân sự; một tòa tiểu hình. Mỗi tòa do một chánh tòa đứng đầu và một số thẩm phán phụ trách. Hội đồng xét xử của mỗi tòa gồm 3 vị: chánh tòa (hoặc có khi là chánh nhất) ngồi ghế chánh thẩm và hai thẩm phán ngồi ghế hội thẩm. Cơ quan thẩm cứu của tòa thượng thẩm là phòng luận tội, gồm 3 thẩm phán. Vị thẩm phán nào đã ngồi xét tại phòng luận tội một vụ án nào rồi thì khi vụ án đó được đưa ra xét xử trước tòa thượng thẩm, vị đó sẽ không có quyền ngồi xử nữa. Luật sư được tham dự các phiên tòa hình sự, dân sự của tòa thượng thẩm, nhưng không được tham dự phiên họp của phòng luận tội vì phòng này họp kín. Luật sư chỉ được trình các bài bào chữa viết ở phòng luận tội. Tổ chức tư pháp ở Bắc Kỳ còn có một đặc điểm nữa về tòa thượng thẩm là Tòa nhì (cg. Phòng nhì) của Tòa thượng thẩm Pháp chính là Tòa đệ tam cấp (cg. Viện kháng tố). Tất cả Bắc Kỳ chỉ có một Tòa đệ tam cấp, trụ sở đặt tại Hà Nội, vời thành phần được sửa đổi lại đôi chút đó là sự tham gia ngồi ghế phụ thẩm của hai vị Nam quan từ chức tuần phủ trở lên, và do thống sứ Bắc Kỳ bổ nhiệm theo đề nghị của vị chánh nhất Tòa thượng thẩm Pháp sau khi hỏi ý kiến của vị Nam án thủ hiến cũng là người Pháp. Thành phần của Tòa đệ tam cấp gồm có: chánh nhất hoặc một chánh tòa Tòa thượng thẩm Pháp ngồi ghế chánh thẩm, một thẩm phán người Pháp và một vị Nam quan nói trên ngồi ghế phụ thẩm. Ngồi ghế công tố là một vị thẩm phán công tố người Pháp. Luật sư có quyền tham gia phiên tòa. Đặc điểm nữa của tòa đệ tam cấp này là về hình sự nó có thẩm quyền xét xử những việc kháng cáo đối với các bản án sơ thẩm của các tòa đệ nhị cấp các tỉnh tại Bắc Kỳ xử về tiểu hình hay đại hình." | Từ điển Luật học trang 507 |
| 5204 | Tòa tiểu hình | "Danh từ chung chỉ những tòa án ở Việt Nam thời thuộc Pháp, có thẩm quyền xét xử sơ thẩm hoặc phúc thẩm về khinh tội tức là tội tiểu hình (các tòa án này xử cả về dân sự). 1. Xử sơ thẩm về tiểu hình - trong tổ chức các tòa án Pháp ở Việt Nam gồm có: a. Các tòa hòa giải rộng quyền. Hồi đó ở Nam Kỳ có 3 tòa hòa giải rộng quyền đặt dưới quyền quản hạt của Tòa thượng thẩm Sài Gòn là Tòa Bà Rịa, Tòa Biên Hòa và Tòa Tây Ninh. Ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ có 2 tòa hòa giải rộng quyền: một ở Nam Định và một ở Vinh, đều đặt dưới quyền quản hạt của Tòa thượng thẩm Hà Nội, thành phần của các tòa này rất đơn giản vì chỉ có một thẩm phán và một lục sự phụ tác. b. Các tòa sơ thẩm ngang hàng với tòa hòa giải rộng quyền, nhưng có chỗ khác biệt về thành phần vì tòa sơ thẩm có đủ cả 3 cơ quan: thẩm cứu, truy tố và xử án do các thẩm phán riêng biệt phụ trách. Loại tòa tiểu hình này có 3 hạng: tòa sơ thẩm hạng nhất đặt tại Hà Nội, Hải Phòng và Sài Gòn; tòa hạng nhì đặt tại Đà Nẵng, Mỹ Tho, Vĩnh Long, Cần Thơ; tòa hạng 3 đặt tại Bến Tre, Long Xuyên, Sóc Trăng, Tây Ninh, Trà Vinh, Bạc Liêu, Châu Đốc và Rạch Giá. 2. Xử phúc thẩm về tiểu hình là tòa tiểu hình của các tòa thượng thẩm Hà Nội và Sài Gòn, có thẩm quyền xử phúc thẩm và chung thẩm các bản án tiểu hình sơ thẩm bị kháng cáo của các tòa sơ thẩm và tòa hòa giải rộng quyền." | Từ điển Luật học trang 508 |
| 5205 | Tốc độ cấu tạo | là tốc độ vận hành lớn nhất được hạn chế bởi điều kiện an toàn và độ bền kết cấu mà toa xe có thể vận hành ổn định, liên tục theo thiết kế. | 38/2007/QĐ-BGTVT |
| 5206 | Tốc độ thiết kế | là tốc độ dùng để tính toán các yếu tố hình học chủ yếu của đường trong điều kiện hạn chế. | 22/2007/QĐ-BXD |
| 5207 | Tội ác chiến tranh | "Là tội vi phạm công pháp quốc tế về luật lệ và tập tục chiến tranh được thực hiện bằng các hành vi như: tàn sát dân thường, tra tấn, giam giữ, đối xử vô nhân đạo đối với tù binh, thực hành chế độ lao động nô lệ đối với nhân dân vùng bị chiếm đóng, cưỡng hiếp, làm nhục phụ nữ, xua đuổi nhân dân rời khỏi quê hương, nơi sinh sống, bắn giết, cướp bóc tài sản, tấn công triệt hạ các mục tiêu dân sự, các công trình phục vụ dân sinh, các đê, đập; tiến hành chiến tranh không tuyên bố, tấn công các quốc gia trung lập, các khu trung lập, khu an ninh. Cấu thành tội ác chiến tranh được quy định trong Điều ước của Tòa án quân sự quốc tế do bốn nước đồng minh chống phát xít gồm Liên Xô, Mỹ, Anh, Pháp quy định. Quân nhân không được viện lý do chấp hành mệnh lệnh cấp trên để bào chữa cho hành vi thực hiện tội ác chiến tranh. Người phạm tội ác chiến tranh bị tìm kiếm, săn đuổi cho đến khi có đủ cơ sở pháp lý tin cậy là đã chết. Các quốc gia đều có nghĩa vụ, trách nhiệm truy tìm, bắt giữ và đưa ra xét xử những kẻ phạm tội ác chiến tranh trong bất cứ thời gian nào." | Từ điển Luật học trang 521 |
| 5208 | Tội ác chống hòa bình | "Là tội phạm được thực hiện bằng các hành vi: chuẩn bị và tiến hành đường lối đối nội, đối ngoại gây hận thù giữa các dân tộc, các quốc gia; chuẩn bị, kích động, xúi dục lập ra các khối quân sự đối địch; ký kết các hiệp ước chuẩn bị cho việc tiến hành chiến tranh xâm lược, tuyên truyền chiến tranh. Vd. Tòa án quân sự quốc tế Tôkyô đã kết án và xử phạt những người cầm đầu nhà nước Nhật Bản về tội: ""Từ 1928 đến 1945, cùng với chính quyền phát xít các nước Đức, Ý tiến hành đường lối đối nội, đối ngoại phá hoại hòa bình, gây chiến tranh với mục đích thống trị thế giới""." | Từ điển Luật học trang 522 |
| 5209 | Tội ác chống nhân loại | "Hành vi vi phạm công pháp quốc tế về luật pháp và tập tục chiến tranh, được thể hiện bằng các hành vi cụ thể như: phân biệt, kỳ thị chủng tộc, tôn giáo, màu da, thực hiện chính sách đẩy lùi con người trở lại kiếp sống nô lệ, trở lại thời kỳ đồ đá, chính sách ngu dân, bỏ mặc nhân dân vùng bị chiếm đóng trong đói khát, bệnh tật, dùng người làm vật thí nghiệm vũ khí, tàn sát nhân viên lực lượng vũ trang đối phương đã bị loại ra ngoài vòng chiến đấu, hành quyết người không qua xét xử theo những nguyên tắc, thủ tục pháp lý sơ đẳng. Kẻ phạm tội ác chống nhân loại bị săn đuổi cho đến cùng trời, cuối đất và bị đưa ra xét xử bất cứ lúc nào. Quân nhân không được viện cớ ""chấp hành mệnh lệnh của trên"" để bào chữa hành vi vi phạm tội ác của bản thân." | Từ điển Luật học trang 522 |
| 5210 | Tội ác diệt chủng | Một trong những tội ác được thực hiện bằng các hành vi làm tuyệt đường sinh đẻ hoặc bất cứ hình thức nào khác nhằm mục đích hủy diệt sự tồn tại của một vùng dân cư, một dân tộc, chủng tộc hoặc tôn giáo. Một trong những tội ác diệt chủng điển hình đã được ghi rõ trong phán quyết của Tòa án Bectơrăng Rutxen (xt. Tòa án Bectơrăng Rutxen): chính phủ Mỹ đã phạm tội ác diệt chủng trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam theo đúng điều ước Tòa án quân sự quốc tế và bản án của các Tòa án quân sự quốc tế Nuyrămbe và Tôkyô vì Chính phủ Mỹ đã ra lệnh cho quân đội Mỹ ném bom có chủ định, một cách có hệ thống và trên quy mô lớn vào các mục tiêu dân sự, đã rải chất độc màu da cam, thả bom bi, bom có chứa chất lân tinh, bom napan, vũ khí hóa học, ném bom theo cách rải thảm để tàn sát hàng loạt thường dân Việt Nam. | Từ điển Luật học trang 522 |
| 5211 | Tội biếm | "(cg. Biếm chức) là giáng chức quan, được quy định tại Điều 1 - Chương danh lệ của bộ Quốc triều hình luật, được ban hành dưới triều vua Lê Thánh Tông, là một hình phạt được áp dụng đối với viên chức nhà nước, có thể được xử một cách độc lập hoặc xử kèm theo hình phạt xuy hình (đánh roi) hoặc trượng hình (đánh bằng gậy) Điều 1 quy định: ""Xuy hình có 5 bậc: 10 roi, 20 roi, 30 roi, 40 roi, 50 roi... xử tội này có thể kèm theo phạt tiền và biếm chức""; ""Trượng hình có 5 bậc: 60 trượng, 70 trượng, 80 trượng, 90 trượng và 100 trượng, xử tội này có thể kèm theo biếm chức..."". Điều 80: ""Những người có quan chức vào Hoàng thành mà không đội khăn thì xử biếm một tư (tức là giáng chức một bậc)... hoặc như Điều 89: ""Trước, sau ngày hoàng đế lên ngôi một tháng, cấm các nhà ở trong kinh thành cử hành việc tang, người nào phạm thì phạt 50 roi, biếm một tư...""" | Từ điển Luật học trang 523 |
| 5212 | Tội buôn bán hàng cấm | Là xâm phạm sự độc quyền quản lý của nhà nước đối với một số hàng hóa mà nhà nước cấm tư nhân và các cơ quan, tổ chức không có chức năng buôn bán kinh doanh. Tội này được quy định tại Điều 166 - Bộ luật hình sự như: 1. Người nào buôn bán hàng hóa mà nhà nước cấm kinh doanh thì bị phạt tù từ 6 tháng đến 5 năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 3 năm đến 12 năm: a. Có tổ chức hoặc có tính chất chuyên nghiệp. b. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội. c. Hàng phạm pháp có số lượng lớn, thu lợi bất chính lớn. d. Lợi dụng thiên tai hoặc chiến tranh. đ. Tái phạm nguy hiểm. 3. Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ 10 năm đến 20 năm. | Từ điển Luật học trang 523 |
| 5213 | Tội phạm | "Hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, xâm phạm chế độ nhà nước xã hội chủ nghĩa, chế độ kinh tế và sở hữu xã hội chủ nghĩa, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa. Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt là tử hình. Những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể thì không phải là tội phạm và được xử lý bằng các biện pháp khác. Điều 10 - Bộ luật tố tụng hình sự có quy định một nguyên tắc rất quan trọng là: ""Không ai có thể bị coi là có tội và phải chịu trách nhiệm hình phạt khi chưa có bản án kết tội của tòa án đã có hiệu lực pháp luật""" | Từ điển Luật học trang 523 |
| 5214 | tội phạm đặc biệt nghiêm trọng | là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên mười lăm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình. | 15/1999/QH10 |
| 5215 | Tội phạm hóa | x. Hình sự hóa | Từ điển Luật học trang 524 |
| 5216 | Tội phạm học | Môn khoa học hình sự chuyên nghiên cứu tình trạng và hiện tượng phạm tội, sự biến động của tình trạng phạm tội, các nguyên nhân phạm tội và những biện pháp phòng ngừa tội phạm trong xã hội, dựa trên cơ sở một số ngành khoa học xã hội, nhân văn như tâm lý học, xã hội học, thống kê học, vv. Nói chung, tội phạm học thường bao gồm các phần: tội phạm học lâm sàng (criminologie clinique), tội phạm học tổng hợp (criminoligie générale) và tội phạm xã hội học (criminoligie sociologique). Dựa trên những kết quả nghiên cứu tình trạng phạm tội với tính cách là một hiện tượng xã hội, các nguyên nhân của nó, vv., tội phạm học đề ra một hệ thống các biện pháp phòng ngừa nhằm loại trừ tội phạm và những nguyên nhân phát sinh tội phạm. | Từ điển Luật học trang 524 |
| 5217 | Tội phạm học tổng hợp | Phần nghiên cứu tổng hợp những môn khoa học khác nhau để xác định những nguyên nhân phát sinh và phát triển tội phạm nói chung, dự kiến những biểu hiện của tội phạm và dự báo những loại hình vi phạm tội có thể xảy ra sau này, nhằm mục đích chung là tổ chức tốt cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm. | Từ điển Luật học trang 524 |
| 5218 | Tội phạm ít nghiêm trọng | là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù. | 15/1999/QH10 |
| 5219 | tội phạm nghiêm trọng | là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến bảy năm tù. | 15/1999/QH10 |
| 5220 | tội phạm rất nghiêm trọng | là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến mười lăm năm tù. | 15/1999/QH10 |
Thuật ngữ pháp lý