Bản án số 95/2025/DSPT ngày 24/02/2025 của TAND TP. Hà Nội về tranh chấp hợp đồng mua bán nhà
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 95/2025/DSPT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 95/2025/DSPT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 95/2025/DSPT
Tên Bản án: | Bản án số 95/2025/DSPT ngày 24/02/2025 của TAND TP. Hà Nội về tranh chấp hợp đồng mua bán nhà |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND TP. Hà Nội |
Số hiệu: | 95/2025/DSPT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 24/02/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | TRƯƠNG HÙNG - FLC |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
THÀNH PHỐ HÀ NỘI Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Số: 95/2025/DS - PT.
Ngày: 24/02/2025
V/v tranh chấp:Hợp đồng mua bán căn hộ
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Với thành phần Hội đồng xét xử gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên tòa : Bà Nguyễn Thị Hồng Hạnh.
Các Thẩm phán :Ông Vũ Viết Văn
Ông Chu Tuấn Anh
Thư ký ghi biên bản phiên toà :Ông Lê Minh Đức
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân TP Hà Nội : Bà Nguyễn Thu Dung – KSV
Ngày 24 tháng 02 năm 2025 , tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Hà Nội, xét xử
công khai vụ án Dân sự phúc thẩm thụ lý số 596/DSPT ngày 16/12/2024 về Tranh chấp
Hợp đồng mua bán căn hộ.
Do Bản án Dân sự sơ thẩm số 69/2024/DS – ST ngày 25/09/2024 của Toà án nhân
dân Quận Cầu Giấy bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 33/2025/QĐPT ngày 21/01/2025, Quyết
định hoãn phiên toà số 61/QĐHPT-PT ngày 10/2/2025 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Ông Trương Hùng, sinh năm 1982
HKTT: Số 75 Nguyễn Tri Phương, Phường 7, Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Trần Ngọc Cảnh, sinh năm 1986.
Bà Nguyễn Phương Linh, sinh năm 1998.
Địa chỉ: P205 E7 tập thể Phương Mai, phường Phương Mai, quận Đống Đa, Hà Nội.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp: Luật sư Trần Thị Hà – Công ty Luật TNHH
Faros – số 98 đường Hoàng Quốc Việt, Quận Cầu Giấy, Hà Nội.
Bị đơn: Công ty Cổ phần tập đoàn FLC ( gọi tắt Công ty)
Trụ sở: Tầng 29, số 265 Cầu Giấy, phường Dịch Vọng, quận Cầu Giấy, Hà Nội.
Trụ sở hiện nay: Tầng 3, tòa nhà FLC landmark, ngõ 5, phố Lê Đức Thọ, phường Mỹ
Đình 2, quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Vũ Anh Tuân – Chủ tịch HĐQT.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Minh Độ - sinh năm 1999.
Bà Linh, luật sư Hà, ông Độ có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Tại đơn khởi kiện, bản tự khai và tại phiên tòa luật sư bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của nguyên đơn – bà Trần Thị Hà trình bày:
Do có nhu cầu đầu tư nên ông Trương Hùng và Công ty đã ký kết Hợp đồng mua bán
căn hộ số 35A02/2018/HĐMBCH-THECOASTALHILL ngày 30/03/2018 để mua căn hộ
số 02 tại tầng 5A Zone 3 thuộc Dự Án. Giá bán căn hộ chưa bao gồm Kinh Phí Bảo Trì
Phần Sở Hữu Chung Khu Căn Hộ, đã bao gồm thuế VAT là 1.961.000.000 đồng. Thanh
toán bằng đồng Việt Nam trực tiếp bằng tiền mặt hoặc chuyển khoản. Thời hạn thanh toán
Giá Bán Căn Hộ được chia làm 06 đợt theo như quy định tại Điều 2 Phụ lục 03 Hợp đồng.
Ngoài Hợp đồng mua bán căn hộ, hai Bên còn ký kết các Phụ lục kèm theo Hợp đồng
gồm: Phụ lục 01 về số liệu và sơ đồ mặt bằng mô phỏng vị trí căn hộ; Phụ lục 02 về danh
mục vật liệu và trang thiết bị dự kiến của căn hộ; Phụ lục 03 về giá bán căn hộ và thanh toán
giá bán căn hộ; Phụ lục 04 về địa chỉ nhận thông báo của các Bên và Phụ lục 05 về bản nội
quy khu căn hộ; Phụ lục 06 về mẫu thông báo nhận bàn giao căn hộ; Phụ lục 07 về mẫu
thông báo thay đổi thông tin; Phụ lục 08 về mẫu biên bản bàn giao căn hộ.
Quá trình thực hiện Hợp đồng:
Về nghĩa vụ thanh toán tiền của Bên Mua: Căn cứ theo Điều 2 Phụ lục 03 Hợp đồng
quy định về thời hạn thanh toán giá mua bán căn hộ như sau:
“Đợt 1 đóng 30% (ba mươi phần trăm) ngay khi ký Hợp đồng. Đợt 2 đóng 5% (năm
phần trăm) trong vòng 20 ngày kê từ ngày ký Hợp đồng. Đợt 3 đóng 20% (hai mươi phần
trăm) trong vòng 20 ngày kể từ ngày ký hợp đồng. Đợt 4 đóng 15% (mười lăm phần trăm)
sau khi cất nóc công trình. Đợt 5 đóng 25% (hai mươi lăm phần trăm) + 02% (hai phần
trăm) kinh phí bảo trì phần sở hữu chung vào ngày bàn giao căn hộ theo thông báo của
Bên Bản. Đợt 6 đóng 5% (năm phần trăm) vào ngày Bên A thông báo cho Bên B về việc
bàn giao “Giấy Chứng Nhận” sau khi Cơ Quan Cổ Thẩm Quyền cấp “Giấy Chứng Nhận”
hoặc vào thời hạn theo thỏa thuận của Các Bên”.
Như vậy, theo thỏa thuận nêu trên, cho đến ngày được nhận bàn giao căn hộ, ông
Trương Hùng có nghĩa vụ thanh toán 95% giá mua bán căn hộ cho Công ty. Ông Trương
Hùng đã thực hiện thanh toán đúng và đầy đủ giá bán căn hộ cho Công ty theo đúng nội
dung về thời hạn, tỷ lệ và số tiền. Cụ thể như sau: ông Trương Hùng đã thanh toán 05 đợt
với tổng số tiền mua căn hộ là 1.862.950.000 đồng tương ứng 95% giá mua bán căn hộ.
Ngoài ra, ông Trương Hùng đã không vi phạm bất kỳ nghĩa vụ nào theo Hợp đồng
mua bán căn hộ và các Phụ lục đã ký kết kèm theo đối với Bên Bán là Công ty.
Đối với nghĩa vụ bàn giao căn hộ: Tại Điều 8.2 về Giao nhận căn hộ của Hợp đồng
mua bán căn hộ quy định về thời điểm Công ty có nghĩa vụ bàn giao căn hộ như sau:
“(i) Bên Bán dự kiến bàn giao Căn Hộ cho Bên Mua vào Quý IV/2018;
(ii) Các Bên thống nhất rằng, thời gian bàn giao Căn Hộ có thể được gia hạn tối đa 02
(hai) lần. Lần gia hạn thứ nhất không được vượt quá 45 ngày kể từ ngày cuối cùng của thời
điểm dự kiến bàn giao Căn Hộ cho Bên Mua tại Điều 8.2 (i) của Hợp Đồng. Lần gia hạn
thứ hai không được vượt quá 45 ngày kể từ ngày cuối cùng của thời hạn đã được gia hạn
lần thứ nhất. Việc chậm bàn giao phải được Bên Bán lập thành văn bản và gửi đến Bên
Mua trong đó nêu rõ thời gian cũng như lý do chậm bàn giao Căn Hộ.
Trước Ngày Bàn Giao Căn Hộ 15 (mười lăm) ngày, Bên Bán phải gửi thông báo bằng
văn bản cho Bên Mua về thời gian, địa điểm và thủ tục bàn giao Căn Hộ.
Như vậy, theo các thỏa thuận nêu trên, ngày chậm nhất Công ty có nghĩa vụ bàn giao
căn hộ là ngày cuối cùng của Quý 4/2018 tức là ngày 31/12/2018. Và theo thỏa thuận về
việc gia hạn tối đa 02 (hai) lần, mỗi lần không quá 45 ngày thì ngày cuối cùng Công ty phải
bàn giao căn hộ cho ông Trương Hùng là ngày 31/3/2019.
Tuy nhiên, Công ty đã không thực hiện được nghĩa vụ bàn giao Căn Hộ cho ông
Trương Hùng theo đúng thỏa thuận của Hợp đồng đã ký kết. Tạm tính đến ngày 25/09/2024
thì Công ty đã vi phạm nghĩa vụ bàn giao căn hộ cho ông Trương Hùng là 2005 ngày. Như
vậy, Công ty đã vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ bàn giao căn hộ theo thỏa thuận đã ký kết
với ông Trương Hùng được quy định tại Điều 8.2 của Hợp đồng. Việc vi phạm nghĩa vụ
bàn giao căn hộ của Công ty đã xâm phạm đến các quyền và lợi ích hợp pháp của ông
Trương Hùng và gây các thiệt hại cho ông Trương Hùng trong suốt thời gian qua.
Theo đó, Hợp đồng cũng thỏa thuận rất rõ ràng về nghĩa vụ thanh toán tiền phạt vi
phạm do chậm bàn giao của bên bán là Công ty cho bên mua tại Điều 12.2.1 như sau:
“Trường hợp Bên Mua đã thanh toán đầy đủ và đúng hạn Giá Bán Căn Hộ theo tiến
độ thỏa thuận trong Hợp Đồng nhưng quá thời hạn 90 (chín mươi) ngày kể từ ngày cuối
cùng của thời điểm dự kiến bàn giao Căn Hộ nêu tại Điều 8.2 (i) của Hợp Đồng mà Bên
Bán vẫn chưa bàn giao Căn Hộ cho Bên Mua: Bên Bán phải thanh toán cho Bên Mua
khoản tiền phạt vi phạm tương đương với số tiền lãi được tính trên (phần) Giá Bán Căn Hộ
mà Bên Mua đã thanh toán với lãi suất là 150% lãi suất tiền gửi trả lãi sau kỳ hạn 06 (sáu)
tháng của Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam BIDV công bố tại thời điểm
thanh toán đối với khách hàng là cá nhân và được tính từ ngày vi phạm nghĩa vụ bàn giao
của Bên Bản đến ngày Bên Bản bàn giao Căn Hộ thực tế cho Bên Mua”.
Do vậy, căn cứ theo Điều 8.2 (i), (ii) và Điều 12.2.1 Hợp đồng, Công ty có nghĩa vụ
thanh toán khoản tiền phạt vi phạm cho ông Trương Hùng tương đương với số tiền lãi được
tính trên phần Giá bán căn hộ ông Trương Hùng đã thanh toán là: (1) 1.862.950.000 đồng
x (2) mức lãi suất là 4,5%/365 ngày (lãi suất tiền gửi trả lãi sau kỳ hạn 06 tháng của
BIDV công bố tại thời điểm tháng 09/2024 đối với khách hàng là cá nhân là 3%x150%)
x (3) thời gian vi phạm theo Hợp đồng là 2005 ngày = (4) Tổng số tiền phạt tạm tính từ
ngày Công ty bắt đầu vi phạm nghĩa vụ 01/04/2019 đến hết ngày đưa vụ án ra xét xử
25/09/2024. Cụ thể: (4) = (1) x (2) x (3) = 460.505.928 đồng.
Trong quá trình giải quyết việc vi phạm của Công ty nêu trên, ông Trương Hùng đã
nhiều lần thúc giục, yêu cầu Công ty phải thực hiện đúng nghĩa vụ của Bên Bán theo Hợp
đồng. Tuy nhiên, Công ty đã không thực hiện được trách nhiệm của mình và cũng không có
quan điểm cụ thể về trách nhiệm của Công ty trước các vi phạm mà Công ty gây ra. Ngày
18/05/2023, ông Trương Hùng đã có văn bản đề nghị Công ty phải thực hiện nghĩa vụ thanh
toán tiền phạt do vi phạm nghĩa vụ bàn giao căn hộ theo Hợp đồng. Cho đến nay, Công ty
vẫn không có bất kỳ phản hồi nào trước đề nghị của ông Hùng.
Căn cứ theo các thỏa thuận tại Điều 8.2 (i), (ii) Hợp đồng, Điều 12.2.1 Hợp đồng mà
ông Hùng đã ký kết; căn cứ vào vi phạm của Công ty đối với cá nhân ký Hợp đồng mua
bán căn hộ; căn cứ quy định chung của pháp luật; ông Trương Hùng kính đề nghị Tòa án
Nhân dân quận Cầu Giấy giải quyết các yêu cầu khởi kiện sau:
1) Chấp nhận yêu cầu khởi kiện đòi thanh toán tiền phạt do vi phạm Hợp đồng mua
bán căn hộ của ông Trương Hùng.
2) Buộc Công ty phải tiếp tục thanh toán khoản tiền phạt vi phạm phát sinh từ ngày bắt
đầu vi phạm là ngày 01/4/2019 cho đến thời điểm đưa vụ án ra xét xử.
3) Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án mà Công ty không thực hiện nghĩa vụ thanh
toán toàn bộ số tiền trên thì Công ty phải chịu mức lãi suất là 10%/năm (khoản 2, Điều 468
BLDS 2015) trên tổng số tiền chưa thanh toán cho đến khi thanh toán hết nợ.
4 ) Yêu cầu Công ty phải tiếp tục thực hiện Hợp đồng và có nghĩa vụ bàn giao căn hộ.
Tại phiên tòa sơ thẩm:
- Nguyên đơn trình bày: Công ty đã có thông báo đến nguyên đơn về việc bàn giao
căn hộ số 02 tại tầng 5A tại Tổ hợp căn hộ khách sạn the FLC coaster Hill thuộc dự án khu

sinh thái FLC Quy Nhơn dự án tại khu kinh tế Nhơn Hội, xã Nhơn Lý, thành phố Quy
Nhơn, tỉnh Bình Định vào ngày 13/10/2021. Vì vậy nguyên đơn yêu cầu như sau:
1) Buộc Công ty phải tiếp tục thực hiện Hợp đồng mua bán căn hộ số
35A02/2018/HĐMBCH-THECOASTALHILL giữa ông Trương Hùng và Công ty.
2) Buộc Công ty bàn giao căn hộ cho nguyên đơn.
3) Buộc Công ty có nghĩa vụ thanh toán cho nguyên đơn số tiền phạt vi phạm hợp
đồng do chậm bàn giao căn hộ, tạm tính từ ngày 01/04/2019 đến ngày 13/10/2021, số tiền
là 217.046.435 đồng.
4) Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án mà Công ty không thực hiện nghĩa vụ thanh
toán toàn bộ số tiền trên thì Công ty phải chịu mức lãi suất là 10%/năm (khoản 2, Điều 468
BLDS 2015) trên tổng số tiền chưa thanh toán cho đến khi thanh toán hết nợ.
- Bị đơn trình bày: Đại diện nguyên đơn trình bày việc ký kết hợp đồng và quá trình
thực hiện hợp đồng là đúng, Công ty không có ý kiến gì. Công ty xác nhận ông Trương
Hùng đã thanh toán tiền mua căn hộ theo hợp đồng là 1.961.000.000 đồng và xác nhận
Công ty chưa bàn giao căn hộ số 02 tại tầng 5 A Zone 3 thuộc dự án khu đô thị du lịch
sinh thái FLC Quy Nhơn có địa chỉ tại khu kinh tế Nhơn Hội, xã Nhơn Lý, thành phố
Quy Nhơn, tỉnh Bình Định cho ông Trương Hùng. Lý do đến nay, Công ty chưa bàn
giao căn hộ cho ông Trương Hùng là do Công ty khó khăn về tài chính. Đến ngày
13/10/2021 Công ty đã có thông báo gửi đến nguyên đơn về việc bàn giao căn hộ số 02 tại
tầng 5A tại Tổ hợp căn hộ khách sạn the FLC coaster Hill thuộc dự án khu sinh thái FLC
Quy Nhơn, nên đề nghị đại diện nguyên đơn tính phạt chỉ đến ngày 13/10/2021.
Bản án Dân sự sơ thẩm số 69/2025/DS – ST ngày 25/09/2024 của Toà án nhân dân
Quận Cầu Giấy đã quyết định như sau:
1.Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Trương Hùng đối với Công ty Cổ
phần tập đoàn FLC. Cụ thể:
Buộc Công ty Cổ phần tập đoàn FLC phải trả cho ông Trương Hùng số tiền phạt vi
phạm hợp đồng mua bán căn hộ về nghĩa vụ chậm bàn giao căn hộ là: 217.046.435
đồng (Bằng chữ: hai trăm mười bảy triệu không trăm bốn mươi sáu nghìn, bốn trăm ba
mươi lăm đồng).
Kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án có đơn yêu cầu thi
hành án cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng Công ty Cổ phần
tập đoàn FLC còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi

suất quy định tại khoản 2 điều 468 Bộ luật dân sự tương ứng với thời gian chưa thi hành
án.
2. Về án phí: Công ty Cổ phần tập đoàn FLC phải chịu 10.852.000 VND (mười
triệu tám trăm năm mươi hai nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm. Trả lại ông Trương
Hùng số tiền tạm ứng án phí 15.516.000 VND (mười lăm triệu năm trăm mười sáu nghìn
đồng) đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự quận Cầu Giấy, theo biên lai thu số 0000375
ngày 25/01/2024.
Sau khi xét xử sơ thẩm :
Công ty kháng cáo toàn bộ bản án.
Tại phiên toà phúc thẩm:
Nguyên đơn và bị đơn thống nhất thoả thuận như sau:
Do ảnh hưởng của đại dịch COVID, hai bên cùng thống nhất giảm thời gian tính
tiền phạt vi phạm là 06 tháng, số ngày vi phạm chậm bàn giao còn 765 ngày.
Số tiền phạt do chậm bàn giao căn hộ mà Công ty phải trả cho ông Trương Hùng
là 175.704.000 đồng. Đề nghị Toà án ghi nhận sự thoả thuận trên của hai bên. Những
phần khác của bản án sơ thẩm giữ nguyên.
Tại phiên tòa vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hà Nội có quan
điểm:
- Về thủ tục tố tụng: Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội tiến hành thụ lý và giải
quyết vụ án theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
- Về nội dung: Đơn kháng cáo của Công ty trong thời hạn Luật định và hợp lệ.
Tại phiên toà hai bên đương sự đã thoả thuận được với nhau về việc giải quyết vụ
án, thấy rằng sự thoả thuận của hai bên đương sự là tự nguyện và phù hợp pháp luật, nên
đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điều 300, khoản 2 điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự sửa
bản án sơ thẩm ghi nhận sự thoả thuận của các đương sự.
Về án phí phúc thẩm : Công ty phải chịu án phí phúc thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TOÀ ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà
và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
* Về thủ tục tố tụng:
Đơn kháng cáo của Công ty trong thời hạn Luật định và hợp lệ.
- Nguyên đơn khởi kiện bị đơn yêu cầu bị đơn phải tiếp tục thực hiện Hợp đồng
và bồi thường do chậm nghĩa vụ bàn giao nhà, do vậy Toà án cấp sơ thẩm xác định
quan hệ pháp luật của vụ án là Tranh chấp Hợp đồng mua bán căn hộ theo khoản 3
điều 26 Bộ luật dân sự là có căn cứ.
- Điểm a khoản 1 điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 quy định: “ Thẩm quyền giải
quyết vụ án dân sự của Toà án theo lãnh thổ được xác định như sau: Toà án nơi bị đơn
có trụ sở”. Bị đơn có trụ sở tại Quận Cầu Giấy do vậy Tòa án nhân dân Quận Cầu Giấy
thụ lý và giải quyết vụ án theo đúng quy định tại khoản 3 điều 26, điểm a khoản 1 điều
39 Bộ luật tố tụng dân sự.
* Về nội dung vụ án:
- Ngày 30/03/2018, Công ty do bà Đàm Ngọc Bích đại diện và ông Trương Hùng
ký Hợp đồng mua bán căn hộ số 35A02/2018/HĐMBCH-THECOASTALHILL để mua
căn hộ số 02 tại tầng 5A Zone 3 thuộc Dự Án. Giá bán căn hộ chưa bao gồm Kinh Phí
Bảo Trì Phần Sở Hữu Chung Khu Căn Hộ, đã bao gồm thuế VAT là 1.961.000.000
đồng. Các bên không tranh chấp về việc ký kết và nội dung của Hợp đồng mua bán căn
hộ số 35A02/2018/HĐMBCH-THECOASTALHILL ngày 30/03/2018.
Thấy rằng các bên ký kết Hợp đồng trên cơ sở tự nguyện, nội dung và hình thức
của Hợp đồng phù hợp với các điều Bộ luật dân sự nên phát sinh hiệu lực.
Tại phiên toà phúc thẩm ông Trương Hùng và Công ty thống nhất được với nhau
về việc giải quyết vụ án đó là : “Do ảnh hưởng của đại dịch COVID, hai bên cùng thống
nhất giảm thời gian tính tiền phạt vi phạm là 06 tháng, số ngày vi phạm chậm bàn giao
còn 765 ngày. Số tiền phạt do chậm bàn giao căn hộ mà Công ty phải trả cho ông
Trương Hùng là 175.704.000 đồng.” Xét thấy sự thoả thuận của hai bên đương sự là tự
nguyện và phù hợp pháp luật, nên căn cứ điều 300, khoản 2 điều 308 Bộ luật tố tụng dân
sự sửa bản án sơ thẩm ghi nhận sự thoả thuận nêu trên của các đương sự.
- Về án phí: Công ty phải chịu án phí phúc thẩm.
Quan điểm của Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hà Nội phù hợp
với pháp luật.
Từ những nhận định trên!
Căn cứ điều 147, điều 148, điều 300, khoản 2 điều 308, điều 313, 349 Bộ luật tố
tụng dân sự.
Căn cứ điều 29 Nghị quyết số 326/2016 UBTVQH của Ủy ban thường vụ Quốc
Hội quy định về mức thu, miễn, giảm,thu, nộp, quản lý, sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

QUYẾT ĐỊNH
Chấp nhận yêu cầu kháng cáo của Công ty Cổ phần tập đoàn FLC.
Sửa Bản án Dân sự sơ thẩm số 69/2025/DS – ST ngày 25/09/2024 của Toà án
nhân dân Quận Cầu Giấy và quyết định như sau:
1/Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Trương Hùng đối với Công ty Cổ phần
tập đoàn FLC.
- Ghi nhận sự thoả thuận của của ông Trương Hùng và Công ty Cổ phần tập đoàn
FLC như sau : Công ty Cổ phần tập đoàn FLC phải trả cho ông Trương Hùng số tiền phạt
do vi phạm hợp đồng mua bán căn hộ về nghĩa vụ chậm bàn giao căn hộ là 175.704.000
đồng .
Kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án có đơn yêu cầu thi
hành án cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng Công ty Cổ phần
tập đoàn FLC còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi
suất quy định tại khoản 2 điều 468 Bộ luật dân sự tương ứng với thời gian chưa thi hành
án.
2/ Về án phí: Công ty Cổ phần tập đoàn FLC phải chịu 8.785.200 đồng án phí
dân sự sơ thẩm và 300.000 đồng án phí phúc thẩm được trừ vào số tiền nộp tại biên lai
thu số 46540 ngày 18/10/2024 của Chi cục thi hành án dân sự quận Cầu Giấy, còn phải
nộp 8.785.200 đồng . Trả lại ông Trương Hùng số tiền tạm ứng án phí 15.516.000 đồng
đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự quận Cầu Giấy, theo biên lai thu số 375 ngày
25/01/2024.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân
sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa
thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế
thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi
hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày 24/02/2025.
Nơi nhận:
- Tòa án ND Quận Cầu Giấy
- Chi cục THADS Quận Cầu Giấy
- Viên kiểm sát ND TP Hà Nội;
- Đương sự. Lưu.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà
Nguyễn Thị Hồng Hạnh
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 10/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 25/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 24/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 24/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 20/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 17/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 23/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 21/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 20/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 17/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Bản án số 625/2025/DS-PT ngày 13/01/2025 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp hợp đồng mua bán nhà
Ban hành: 13/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 09/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 03/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 23/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 20/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 19/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 18/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm