Bản án số 96/2025/DSPT ngày 24/02/2025 của TAND TP. Hà Nội về tranh chấp hợp đồng mua bán nhà
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 96/2025/DSPT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 96/2025/DSPT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 96/2025/DSPT
Tên Bản án: | Bản án số 96/2025/DSPT ngày 24/02/2025 của TAND TP. Hà Nội về tranh chấp hợp đồng mua bán nhà |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND TP. Hà Nội |
Số hiệu: | 96/2025/DSPT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 24/02/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | ĐẶNG THỊ OANH - FLC |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
THÀNH PHỐ HÀ NỘI Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Số: 96/2025/DS - PT.
Ngày: 24/02/2025
V/v tranh chấp: Hợp đồng mua bán căn hộ
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Với thành phần Hội đồng xét xử gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên tòa : Bà Nguyễn Thị Hồng Hạnh.
Các Thẩm phán :Bà Ngô Tuyết Băng
Ông Chu Tuấn Anh
Thư ký ghi biên bản phiên toà :Ông Lê Minh Đức
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân TP Hà Nội : Bà Nguyễn Thu Dung – KSV
Ngày 24 tháng 02 năm 2025 , tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Hà Nội, xét xử
công khai vụ án Dân sự phúc thẩm thụ lý số 568/DSPT ngày 16/12/2024 về Tranh chấp
Hợp đồng mua bán căn hộ.
Do Bản án Dân sự sơ thẩm số 61/2024/DS – ST ngày 16/09/2024 của Toà án nhân
dân Quận Cầu Giấy bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 32/QĐ-PT ngày 21/01/2025, Quyết định
hoãn phiên toà số 59/2025/QĐHPT-PT ngày 10/02/2025 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Bà Đặng Thị Oanh, sinh năm 1980
Trú tại: Số 31 ngõ 51 phố Trại Xanh, phường Duy Tân, thị trấn Kinh Môn, Hải Dương.
Bị đơn: Công ty cổ phần đầu tư kinh doanh phát triển bất động sản FLC Homes (viết
tắt là Công ty )
Trụ sở: Tòa nhà FLC Landmark, ngõ 5 đường Lê Đức Thọ, phường Mỹ Đình 2, quận
Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội
Người đại diện theo pháp luật: Ông Trịnh Hoàng Linh – Tổng giám đốc.
Người đại diện theo ủy quyền:
Bà Đỗ Thị Hồng Vân – Nhân viên Công ty
Bà Nguyễn Thị Huyền – Nhân viên Công ty
Ông Trần Văn Hùng – Nhân viên Công ty

Theo Giấy ủy quyền số 12/GUQ-TGĐ ngày 10/02/2025 của Tổng giám đốc.
Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1/Ông Nguyễn Văn Hiệp, sinh năm 1976
Trú tại: Số 31 ngõ 51 phố Trại Xanh, phường Duy Tân, thị trấn Kinh Môn, Hải Dương.
2/ Công ty cổ phần tập đoàn FLC (viết tắt là Công ty FLC)
Trụ sở: Tòa FLC Landmark, ngõ 5 đường Lê Đức Thọ, Quận Nam Từ Liêm, Hà Nội.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Vũ Anh Tuân – Chủ tịch HĐQT.
3/ Ngân hàng TMCP Sài gòn thương tín (viết tắt là Sacombank)
Trụ sở: Số 266-268 đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh.
Bà Oanh, ông Hiệp có mặt. Các đương sự khác vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Tại các văn bản tố tụng và tại phiên tòa, nguyên đơn trình bày như sau:
Công ty FLC là chủ đầu tư của Dự án Trung tâm hội nghị, khách sạn, du lịch nghỉ
dưỡng và biệt thự nghỉ dưỡng FLC Quảng Bình tại địa điểm xã Hải Ninh, huyện Quảng
Ninh, tỉnh Quảng Bình (gọi tắt là “Dự án”). Công ty là đơn vị được Công ty FLC cho
phép thực hiện hoạt động tư vấn người mua liên quan đến việc đầu tư vào Dự án.
Vào ngày 13/01/2022, bà Đặng Thị Oanh, ông Nguyễn Văn Hiệp đã ký kết 02 hợp
đồng dịch vụ số IV-SH.04.10/2022/FLCQUANGBINH/HĐDV và số IV-
SH.19.10/2022/FLCQUANGBINH/HĐDV cùng 02 Phụ lục đính kèm với Công ty. Theo
đó, bà Oanh, ông Hiệp có nghĩa vụ đóng các khoản tiền (bao gồm Tiền Giao Dịch và
Tiền Giao Dịch Bổ Sung) theo đúng tiến độ cho Công ty và thực hiện các công việc khác
để đảm bảo rằng Công ty FLC sẽ ký kết hợp đồng chuyển nhượng các bất động sản cho
bà Oanh, ông Hiệp. Khi đó các khoản tiền đã đóng sẽ trở thành tiền thanh toán bất động
sản. Trên cơ sở Các hợp đồng dịch vụ và hướng dẫn của Công ty, bà Oanh, ông Hiệp đã
ký 02 bản đăng ký mua hai bất động sản mà bà Oanh, ông Hiệp lựa chọn. Công ty và
Công ty FLC sau đó cũng xác nhận về việc đã tiếp nhận thông tin đăng ký của bà Oanh,
ông Hiệp. Thông tin cụ thể về các hợp đồng như sau:
Số hợp
đồng dịch
vụ
IV-SH.04.10/2022/
FLCQUANGBINH/HĐDV
IV-SH.19.10/2022/
FLCQUANGBINH/HĐDV

Bất động
sản được
lựa chọn
Ký hiệu bất động sản: IV-SH.04.10
Diện tích xây dựng bất động sản
tạm tính: 90 m2
Tổng Diện tích sàn xây dựng bất
động sản tạm tính: 270 m2
Diện tích lô đất tạm tính: 120 m2
Ký hiệu bất động sản: IV-SH.19.10
Diện tích xây dựng bất động sản tạm
tính: 90 m2
Tổng Diện tích sàn xây dựng bất động
sản tạm tính: 270 m2
Diện tích lô đất tạm tính: 120 m2
Giá mua
đăng ký
4.305.600.000 đồng, tiến độ thanh
toán như sau:
-Tiền Giao Dịch (thanh toán ngày
13/01/2022): 1.291.680.000 đồng
- Tiền Giao Dịch Bổ Sung:
+ Không chậm hơn ngày
12/02/2022: 1.291.680.000 đồng
+ Trong vòng 30 ngày sau khi ký
hợp đồng chuyển nhượng:
1.506.960.000 đồng.
4.352.400.000 đồng, tiến độ thanh toán
như sau:
- Tiền Giao Dịch (thanh toán ngày
13/01/2022): 1.305.720.000 đồng
- Tiền Giao Dịch Bổ Sung:
+ Không chậm hơn ngày 12/02/2022:
1.305.720.000 đồng
+ Trong vòng 30 ngày sau khi ký hợp
đồng chuyển nhượng: 1.523.340.000
đồng.
Thời điểm ký kết hợp đồng chuyển
nhượng với chủ đầu tư : Chậm nhất
là ngày 31/10/2022, bà Oanh có thể
lựa chọn gia hạn nhưng tối đa
không quá ngày 31/12/2022
Thời điểm ký kết hợp đồng chuyển
nhượng với chủ đầu tư : Chậm nhất là
ngày 31/10/2022, bà Oanh có thể lựa
chọn gia hạn nhưng tối đa không quá
ngày 31/12/2022
Trên cơ sở hợp đồng, bà Oanh, ông Hiệp đã thanh toán đầy đủ Tiền Giao Dịch
trong các hợp đồng dịch vụ cho Công ty. Tổng số tiền là: 1.291.680.000 đồng +
1.305.720.000 đồng = 2.597.400.000 đồng.
Đối với Tiền Giao Dịch Bổ Sung, căn cứ vào các hợp đồng dịch vụ thì bà Oanh,
ông Hiệp được hưởng chính sách ưu đãi của Công ty khi được vay tiền thanh toán tại
ngân hàng được chỉ định. Vì vậy vào ngày 11/03/2022, vợ chồng bà Oanh và Công ty
cùng ký kết hai thoả thuận ba bên với Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín - chi
nhánh Hải Dương - Phòng Giao dịch Phú Thái. Theo đó, bà Oanh, ông Hiệp sẽ thế chấp
quyền tài sản trong các hợp đồng dịch vụ cho ngân hàng ngược lại, ngân hàng sẽ giải
ngân tiền để thanh toán Tiền Giao Dịch Bổ Sung vào tài khoản của Công ty. Công ty có
nghĩa vụ hỗ trợ trả lãi suất trong thời gian 18 tháng cho bà Oanh, ông Hiệp. Với thoả
thuận này Sacombank đã thay bà Oanh, ông Hiệp thực hiện nghĩa vụ thanh toán Tiền
Giao Dịch Bổ Sung trong các hợp đồng dịch vụ cho Công ty với tổng số tiền là:
2.597.400.000 (Hai tỷ, năm trăm chín mươi bảy triệu, bốn trăm nghìn) đồng.
Bà Oanh, ông Hiệp đã hoàn thành toàn bộ nghĩa vụ trong các hợp đồng dịch vụ.
Ngược lại, mặc dù đã quá thời hạn thực hiện công việc từ rất lâu (hạn cuối cùng theo
thỏa thuận trong hợp đồng là ngày 31/10/2022) nhưng Công ty vẫn chưa hoàn thành
được nghĩa vụ đảm bảo Công ty FLC ký kết hợp đồng chuyển nhượng các bất động sản
cho bà Oanh, ông Hiệp. Đến ngày 31/12/2022, các hợp đồng dịch vụ đương nhiên chấm
dứt hiệu lực theo quy định tại Điều 2.2.1.
Bà Oanh đã nhiều lần yêu cầu Công ty tuân thủ các hợp đồng dịch vụ nhưng đều
không được phản hồi thoả đáng. Vào ngày 23/05/2023, trên cơ sở vi phạm của Công ty,
căn cứ vào Điều 2.2.2 của Các hợp đồng dịch vụ, bà Oanh đã gửi đơn xin thanh lý hợp
đồng dịch vụ tới Công ty qua hộp thư điện tử. Theo đó, bà Oanh có đề nghị Công ty giải
quyết quyền lợi cho bà Oanh theo quy định của Các hợp đồng dịch vụ, đồng thời đề nghị
sắp xếp lịch làm việc để giải quyết vấn đề giữa hai bên.
Vào ngày 05/06/2023 tại trụ sở của Công ty, các bên đã tổ chức buổi làm việc ghi
nhận các vướng mắc tại Dự án. Tuy nhiên, Công ty tiếp tục không giải quyết vấn đề mà
chỉ ghi nhận ý kiến của bà Oanh. Cho đến thời điểm hiện tại, Công ty vẫn không có thiện
chí để đàm phán giải quyết tranh chấp Các hợp đồng dịch vụ.
Ngày 31/10/2023 Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín - chi nhánh Hải Dương
- Phòng Giao dịch Phú Thái đã chủ động thu hồi số tiền 2.597.400.000 đồng và chấm
dứt thỏa thuận ba bên giữa Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín - chi nhánh Hải
Dương - Phòng Giao dịch Phú Thái, bà Đặng Thị Oanh và Công ty.
Từ nội dung trình bày ở trên, bà Oanh đề nghị Tòa án nhân dân quận Cầu Giấy
tuyên bố chấm dứt các Hợp đồng dịch vụ đã ký kết giữa bà Oanh, ông Hiệp và Công ty;
tuyên buộc Công ty có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ do vi phạm khi chấm dứt hợp
đồng như sau:
Căn cứ vào điều 2.2.1 của hợp đồng dịch vụ, hoàn trả toàn bộ Tiền Giao Dịch mà
bà Oanh, ông Hiệp đã thanh toán là: 2.597.400.000 đồng.
Căn cứ vào điều 2.2.1 của hợp đồng dịch vụ, bồi thường thiệt hại cho bà Oanh, ông
Hiệp số tiền tính trên lãi suất tiền gửi trả lãi sau kỳ hạn 03 tháng của Ngân hàng TMCP
đầu tư và phát triển Việt Nam công bố tại thời điểm thanh toán với khách hàng là cá
nhân hiện nay là 2%/năm trên số tiền giao dịch bà Oanh đã thanh toán cho Công ty. Thời
gian tính lãi từ ngày Công ty vi phạm 10/1/2023 đến ngày xét xử 16/9/2024. Số tiền cụ
thể được tính như sau: 2.597.400.000 x (2%/12 tháng) x 20 tháng = 86.580.000 đồng.
Như vậy, tổng số tiền mà Công ty phải thanh toán là: 2.597.400.000 + 86.580.000
= 2.683.980.000 đồng. Bà Oanh yêu cầu Công ty thanh toán một lần và đồng thời buộc
Công ty có nghĩa vụ trả tiền lãi chậm thanh toán cho bà Oanh, ông Hiệp cho đến khi
Công ty hoàn thành nghĩa vụ thanh toán.
* Tại các văn bản tố tụng và tại phiên tòa, Công ty trình bày như sau:
Công ty xác nhận có ký kết các văn kiện giao dịch đối với bà Đặng Thị Oanh, ông
Nguyễn Văn Hiệp như bà Oanh, ông Hiệp đã trình bày. Công ty xác nhận đã nhận đủ số
tiền theo thỏa thuận, đến thời điểm xét xử Công ty vẫn chưa thực hiện được việc cung
cấp dịch vụ để bà Oanh, ông Hiệp ký kết Hợp đồng mua bán 02 lô đất với Công ty FLC.
Công ty đề nghị Tòa án xem xét yêu cầu khởi kiện đề nghị chấm dứt hợp đồng của
bà Oanh không đảm bảo theo quy định tại khoản 1 điều 189 Bộ luật tố tụng dân sự về
hình thức, không có đơn khởi kiện bổ sung mà chỉ là lời trình bày tại Bản tự khai và tại
phiên họp công khai chứng cứ ngày 01/8/2024. Công ty đề nghị Tòa án không chấp nhận
yêu cầu chấm dứt hợp đồng dịch vụ của bà Oanh, đề nghị tiếp tục thực hiện hợp đồng vì
thực tế Công ty vẫn trả tiền lãi cho Sacombank sau thời điểm ngày 31/12/2022.
Về yêu cầu trả tiền giao dịch, do có Thỏa thuận 03 bên giữa bà Oanh, ông Hiệp,
Công ty và Sacombank tại điều 1.5 của Thỏa thuận nên Công ty đề nghị phải có ý kiến
của Sacombank thì mới chấp thuận việc thanh toán cho bà Oanh. Điều khoản này là để
ràng buộc trong việc đối trừ vào khoản dư nợ của bà Oanh trước khi trả tiền.
Về yêu cầu trả tiền bồi thường thiệt hại: Nếu hợp đồng bị tuyên bố chấm dứt và
phải trả tiền giao dịch thì Công ty đồng ý trả tiền bồi thường thiệt hại nhưng chỉ đồng ý
trả tiền bồi thường tính từ thời gian 31/10/2022 đến 31/12/2022 theo lãi suất 2%/năm
theo tra cứu, đề nghị nguyên đơn phải xuất trình văn bản làm căn cứ xem xét.
Về việc bà Oanh rút yêu cầu trả tiền lãi chậm thanh toán thì Công ty đồng ý.
*Tại bản trình bày gửi tới Tòa án và tại phiên tòa ông Nguyễn Văn Hiệp trình
bày:
Ông Hiệp là chồng của bà Đặng Thị Oanh, là người cùng bà Oanh ký vào các văn
bản tài liệu xuất trình tại Tòa án. Ông Hiệp thống nhất hoàn toàn với lời trình bày của bà
Oanh và đề nghị Tòa án giải quyết bảo vệ quyền lợi cho vợ chồng ông Hiệp. Ông Hiệp
không có yêu cầu độc lập trong vụ án.
Quá trình tiến hành tố tụng, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho Công
ty FLC, Sacombank nhưng Công ty FLC và Sacombank không có văn bản trình bày ý
kiến, vắng mặt tại tất cả các buổi làm việc và tại các phiên tòa.
Bản án Dân sự sơ thẩm số 61/2024/DS – ST ngày 16/09/2024 của Toà án nhân
dân Quận Cầu Giấy đã quyết định như sau:
*Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện được sửa đổi, bổ sung ngày 01/8/2024 của bà
Đặng Thị Oanh đối với Công ty cổ phần kinh doanh phát triển bất động sản FLC Homes.
Tuyên bố chấm dứt hợp đồng dịch vụ số IV-SH.04.10/2022/FLCQUANGBINH/HĐDV
và số IV-SH.19.10/2022/FLCQUANGBINH/HĐDV ngày 13/01/2022 cùng phụ lục
đính kèm giữa Công ty cổ phần kinh doanh phát triển bất động sản FLC Homes và ông
Nguyễn Văn Hiệp, bà Đặng Thị Oanh.
Buộc Công ty cổ phần kinh doanh phát triển bất động sản FLC Homes có nghĩa vụ
thanh toán cho ông Nguyễn Văn Hiệp, bà Đặng Thị Oanh số tiền 2.597.400.000 đồng và
số tiền bồi thường thiệt hại là 86.580.000. Tổng số tiền Công ty cổ phần kinh doanh phát
triển bất động sản FLC Homes có nghĩa vụ thanh toán cho ông Nguyễn Văn Hiệp, bà
Đặng Thị Oanh là 2.683.980.000 (hai tỷ sáu trăm tám mươi ba triệu chín trăm tám mươi
nghìn) đồng.
Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thi hành án xong, bên
phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức
lãi suất các bên thỏa thuận nhưng phải phù hợp với quy định của pháp luật; nếu không
có thỏa thuận về mức lãi suất thì quyết định theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 điều
468 Bộ luật dân sự năm 2015.
Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu trả tiền lãi chậm thanh toán kể từ thời điểm Công
ty cổ phần kinh doanh phát triển bất động sản FLC Homes vi phạm nghĩa vụ đến thời
điểm xét xử của bà Đặng Thị Oanh đối với Công ty cổ phần kinh doanh phát triển bất
động sản FLC Homes.
Về án phí: Bà Đặng Thị Oanh không phải nộp án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn trả bà
Oanh số tiền tạm ứng án phí 41.974.000 (bốn mươi mốt triệu chín trăm bảy mươi tư
nghìn) đồng theo Biên lai thu tiền số 0000186 ngày 23/11/2023 tại Chi cục thi hành án
dân sự quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội.
Công ty cổ phần kinh doanh phát triển bất động sản FLC Homes phải nộp
85.679.600 (tám mươi lăm triệu sáu trăm bảy mươi chín nghìn sáu trăm) đồng án phí
dân sự sơ thẩm

Sau khi xét xử sơ thẩm :
Công ty kháng cáo toàn bộ bản án như sau:
- Đơn khởi kiện ngày 1/8/2024, Biên bản hoà giải ngày 13/3/2024, ngày
31/5/2024 nguyên đơn không yêu cầu “đề nghị Toà án tuyên chấm dứt Hợp đồng dịch
vụ”. Ngày 1/8/2024 nguyên đơn bổ sung yêu cầu khởi kiện “đề nghị Toà án tuyên chấm
dứt Hợp đồng dịch vụ”. Việc bổ sung yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn không lập thành
văn bản bổ sung theo khoản 1 điều 189 Bộ luật tố tụng dân sự, không đáp ứng thời gian
thực hiên sau phiên họp công khai chứng cứ và hoà giải.
- Điều 2.2.1 Hợp đồng quy định thời gian tính lãi để xác định số tiền bồi thường
thiệt hại là ngày 31/10/2022 đến ngày Công ty ra Thông báo về việc ký kết Hợp đồng
mua bán nhưng không quá ngày 31/12/2022, hết thời hạn này mà khách hàng vẫn không
ký kết được Hợp đồng mua bán thì các bên đồng ý hợp đồng này đương nhiên hết hiệu
lực. Vì vậy Hội đồng xét xử xác định thời gian tính lãi từ 10/1/2023 đến 16/9/2024 là
không đúng theo Hợp đồng dịch vụ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét lại không chấp
nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Tại phiên toà phúc thẩm:
Nguyên đơn trình bày: Bà Oanh đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng
cáo của Công ty, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hà Nội có quan
điểm:
- Về thủ tục tố tụng: Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội tiến hành thụ lý và giải
quyết vụ án theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
- Về nội dung: Đơn kháng cáo của Công ty trong thời hạn Luật định và hợp lệ.
Sau khi phân tích nội dung vụ án đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 điều
308 Bộ luật tố tụng dân sự, không chấp nhận kháng cáo của Công ty, giữ nguyên bản án
sơ thẩm. Về án phí phúc thẩm : Công ty phải chịu án phí phúc thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TOÀ ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà
và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
* Về thủ tục tố tụng:
- Đơn kháng cáo của Công ty trong thời hạn Luật định và hợp lệ.
- Bà Đặng Thị Oanh khởi kiện Công ty yêu cầu chấm dứt Hợp đồng dịch vụ và
bồi thường do Công ty vi phạm nghĩa vụ theo Hợp đồng dịch vụ, do vậy Toà án cấp
sơ thẩm xác định quan hệ pháp luật của vụ án là Tranh chấp Hợp đồng dịch vụ là phù
hợp khoản 3 điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự..
- Điểm a khoản 1 điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 quy định: “ Thẩm quyền
giải quyết vụ án dân sự của Toà án theo lãnh thổ được xác định như sau: Toà án nơi bị
đơn có trụ sở”. Bị đơn có trụ sở tại Quận Cầu Giấy do vậy Tòa án nhân dân Quận Cầu
Giấy thụ lý và giải quyết vụ án theo đúng quy định tại khoản 3 điều 26, điểm a khoản 1
điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.
- Công ty có Đơn xin xét xử vắng mặt phù hợp với khoản 3 điều 296 Bộ luật tố
tụng dân sự nên chấp nhận.
- Toà án nhân dân Thành phố Hà Nội đã triệu tập hợp lệ đối với Công ty FLC và
Ngân hàng, nhưng các đương sự nêu trên vẫn vắng mặt, do vậy căn cứ khoản 3 điều 296
Bộ luật tố tụng dân sự, Toà án nhân dân Thành phố Hà Nội xét xử vắng mặt các đương
sự nêu trên.
- Tại Bản tự khai ngày 1/8/2024, tại phiên họp công khai chứng cứ ngày
01/8/2024, bà Đặng thị Oanh có đề nghị yêu cầu chấm dứt 02 Hợp đồng dịch vụ mà hai
bên đã ký kết. Thấy rằng bà Oanh khởi kiện cho rằng Công ty vi phạm nghĩa vụ trong
Hợp đồng dịch vụ và do Hợp đồng dịch vụ đã chấm dứt theo thoả thuận trong hợp đồng
nên Công ty phải thanh toán các khoản gốc, lãi theo hợp đồng, do vậy bản chất là việc bà
Oanh khởi kiện về quá trình thực hiện Hợp đồng dịch vụ, do vậy yêu cầu chấm dứt Hợp
đồng dịch vụ không phải yêu cầu mới mà chỉ làm rõ hơn yêu cầu khởi kiện ban đầu để
chấm dứt mọi quyền và nghĩa của các bên trong Hợp đồng dịch vụ. Toà án cấp sơ thẩm
chấp nhận yêu cầu khởi kiện chấm dứt Hợp đồng dịch vụ của bà Oanh là có căn cứ, nên
không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của Công ty về việc yêu cầu khởi kiện nêu trên là
vượt quá yêu cầu khởi kiện.
* Về nội dung vụ án:
1/ Về Hợp đồng dịch vụ:
Ngày 13/01/2022, ông Nguyễn Văn Hiệp, bà Đặng Thị Oanh và Công ty đã ký kết
02 hợp đồng dịch vụ số IV-SH.04.10/2022/FLCQUANGBINH/HĐDV và IV-
SH.19.10/2022/FLCQUANGBINH/HĐDV) cùng 02 phụ lục đính kèm với nội dung: “
Bên A thực hiện các công việc cho Bên B”. Thấy rằng hai bên ký kết các Hợp đồng dịch
vụ và phụ lục kèm theo trên cơ sở tự nguyện, hình thức và nội dung của Hợp đồng phù
hợp với điều 513, 514 Bộ luật dân sự 2015, nên phát sinh hiệu lực.
- Tại các phiên hoà giải và tại phiên toà sơ thẩm, hai bên đương sự đều thống nhất
Công ty chưa trả ông Nguyễn Văn Hiệp, bà Đặng Thị Oanh số tiền 2.597.400.000 đồng.
Do Công ty không thực hiện được các công việc theo Hợp đồng dịch vụ nên Toà án cấp
sơ thẩm tuyên chấm dứt Hợp đồng dịch vụ là phù hợp với pháp luật, do vậy Công ty
phải hoàn trả số tiền mà ông Nguyễn Văn Hiệp, bà Đặng Thị Oanh đã nộp cho Công ty
là phù hợp với điều 2 Hợp đồng dịch vụ, Toà án cấp sơ thẩm buộc Công ty trả cho ông
Nguyễn Văn Hiệp, bà Đặng Thị Oanh số tiền 2.597.400.000 đồng là phù hợp với điều
351, 516, 517 Bộ luật dân sự 2015.
Khoản 2 điều 516 Bộ luật dân sự 2015 quy định: “ Trường hợp bên cung ứng dịch
vụ vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ thì bên sử dụng dịch vụ có quyền đơn phương chấm
dứt thực hiện hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại”
Điều 357 Bộ luật dân sự 2015 quy định:
“1. Trường hợp bên có nghĩa vụ chậm trả tiền thì bên đó phải trả lãi đối với số
tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả.
2. Lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo thỏa thuận của các bên
nhưng không được vượt quá mức lãi suất được quy định tại khoản 1 Điều 468 của Bộ
luật này; nếu không có thỏa thuận thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của
Bộ luật này.”
Căn cứ điều 2 của Hợp đồng quy định : “ Nếu bên B thực hiện đúng , đầy đủ các
nghĩa vụ tài chính với bên A và đã quá thời hạn kể từ ngày cuối cùng của thời gian thực
hiện mà chủ đầu tư chưa ký kết Hợp đồng mua bán với bên B thì bên B có quyền lựa
chọn thực hiện một trong hai phương án quy định tại điều 2.2.1 và 2.2.2 dưới đây: Tuy
nhiên việc tiếp tục thực hiện công việc nêu tại khoản này cũng không được quá ngày
31/12/2022, hết thời hạn này mà bên B vẫn không ký kết Hợp đồng mua bán thì các bên
đồng ý Hợp đồng này đương nhiên chấm dứt hiệu lực, tiền giao dịch, tiền giao dịch bổ
sung được xử lý theo quy định tại điều 2.2.2. Bên B được quyền đơn phương chầm dứt
Hợp đồng này. Khi đó bên A phải hoàn trả cho bên B toàn bộ tiền giao dịch, tiền giao
dịch bổ sung cùng với một khoản tiền bồi thường thiệt hại tương đương với khoản tiền
lãi được tính trên toàn bộ số tiền giao dịch, tiền giao dịch bổ sung mà bên B đã chuyển
cho bên A theo lãi suất tiền gửi trả lãi sau kỳ 3 tháng của BIDV công bố tại thời điểm
thanh toán, khoản tính lãi được tính từ ngày cuối cùng của Thời gian thực hiện đến thời
điểm bên B gửi thông báo đơn phương chấm dứt hợp đồng cho bên A. Trường hợp bên B
không gửi thông báo đơn phương chấm dứt hợp đồng, các bên đồng ý Hợp đồng này
chấm dứt kể từ ngày thứ 10 sau ngày cuối cùng của Thời gian thực hiện để bên A làm cơ
sở tính lãi và hoàn trả tiền cho bên B”
Như vậy căn cứ vào điều 2 của Hợp đồng thì đến hết ngày 31/12/2022 Công ty
không thể hoàn tất được việc Chủ đầu tư và bà Oanh ký kết Hợp đồng mua bán nên Hợp
đồng đương nhiên chấm dứt và Công ty phải hoàn trả cho bà Oanh khoản tiền giao dịch,
tiền giao dịch bổ sung. Tuy nhiên đến nay Công ty chưa trả cho bà Oanh khoản tiền nêu
trên là vi phạm nghĩa vụ trả tiền theo quy định tại điều 357 Bộ luật dân sự năm 2015, do
vậy yêu cầu khởi kiện của bà Oanh yêu cầu Công ty trả tiền lãi của số tiền chậm thanh
toán là phù hợp điều 357 Bộ luật dân sự năm 2015. Tuy nhiên bà Oanh chỉ khởi kiện và
yêu cầu Công ty trả khoản tiền lãi với mức lãi suất 2%/năm, thấy rằng yêu cầu khởi kiện
của bà Oanh là tự nguyện, mức lãi suất mà bà Oanh yêu cầu thấp hơn mức lãi suất theo
quy định tại điều 2 Hợp đồng, và thấp hơn mức lãi suất theo quy định tại điều 357 Bộ
luật dân sự 2015 nên chấp nhận, do vậy không chấp nhận kháng cáo của Công ty về việc
không đồng ý với số tiền bồi thường thiệt hại là 86.580.000 đồng.
Từ những phân tích trên căn cứ khoản 1 điều 308 Bộ luật tố tụng không chấp nhận
kháng cáo của Công ty giữ nguyên bản án sơ thẩm.
- Về án phí: Công ty phải chịu án phí phúc thẩm.
Quan điểm của Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hà Nội phù hợp
với pháp luật.
Từ những nhận định trên!
Căn cứ các điều 357, 351, 468 516, 517 Bộ luật dân sự 2015.
Căn cứ điều 147, 148, khoản 1 điều 308, điều 313, 349 Bộ luật tố tụng dân sự.
Căn cứ điều 26, điều 29 Nghị quyết số 326/2016 UBTVQH của Ủy ban thường vụ
Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm,thu, nộp, quản lý, sử dụng án phí, lệ phí Tòa
án.
QUYẾT ĐỊNH
Xử: Không chấp nhận kháng cáo của Công ty cổ phần đầu tư kinh doanh phát
triển bất động sản FLC Homes.
Giữ nguyên Bản án Dân sự sơ thẩm số 61/2024/DS – ST ngày 16/09/2024 của Toà
án nhân dân Quận Cầu Giấy .

Về án phí : Công ty cổ phần đầu tư kinh doanh phát triển bất động sản FLC
Homes phải chịu 300.000 đồng án phí phúc thẩm được trừ vào số tiền đã nộp tại Biên lai số
46582 ngày 24/10/2024 tại Chi cục Thi hành án dân sự Quận Cầu Giấy.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày 24/02/2025.
Nơi nhận:
- Tòa án ND Quận Cầu Giấy
- Chi cục THADS Quận Cầu Giấy
- Viên kiểm sát ND TP Hà Nội;
- Đương sự. Lưu.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà
Nguyễn Thị Hồng Hạnh
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 10/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 25/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 24/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 24/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 20/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 17/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 23/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 21/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 20/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 17/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Bản án số 625/2025/DS-PT ngày 13/01/2025 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp hợp đồng mua bán nhà
Ban hành: 13/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 09/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 03/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 23/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 20/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 19/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 18/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm