Bản án số 934/2024/DS-PT ngày 29/10/2024 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 934/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 934/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 934/2024/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 934/2024/DS-PT ngày 29/10/2024 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND cấp cao tại TP.HCM |
Số hiệu: | 934/2024/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 29/10/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Bà Nguyễn Thị Hương kiện ông Nguyễn Văn Hải "Tranh chấp về thừa kế tài sản và yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất" |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Bản án số: 934/2024/DS-PT
Ngày: 29 - 10 - 2024
V/v: Tranh chấp về thừa kế tài
sản và yêu cầu hủy giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN
CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Thúy Hòa;
Các Thẩm phán: Ông Lê Văn An;
Ông Nguyễn Văn Khương.
- Thư ký phiên tòa: Bà Đinh Thị Thanh Bình - Thư ký Toà án nhân dân
cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân
cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
tham gia phiên tòa: Bà Trần Thị Huệ - Kiểm sát viên.
Ngày 29 tháng 10 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân
cấp cao tại Thành
phố Hồ Chí Minh, xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 604/2024/TLPT-
DS ngày 15 tháng 8 năm 2024, về “Tranh chấp về thừa kế tài sản và yêu cầu
hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm 20/2024/DS-ST ngày 03 tháng 4 năm 2024, của
Toà án nhân dân tỉnh Sóc Trăng, bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 3089/2024/QĐ-PT
ngày 15 tháng 10 năm 2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1963. Địa chỉ: ấp P, thị trấn L,
huyện T, tỉnh Sóc Trăng (có mặt).
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn Ú. Địa
chỉ liên hệ: Số A, ấp C, thị trấn P, huyện T, tỉnh Sóc Trăng (văn bản ủy quyền
ngày 20/6/2022), (có mặt).
- Bị đơn:
1. Ông Nguyễn Văn H1, sinh năm 1966. Địa chỉ: ấp C, thị trấn L, huyện T,
tỉnh Sóc Trăng (có mặt).
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ông Nguyễn Văn H1: Ông
Nguyễn Văn N, là luật sư của Văn phòng L2 - Chi nhánh S2. Địa chỉ: Số C,
Quốc lộ A, khóm A, Phường F, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng (có mặt).
2. Bà Lưu Thị D, sinh năm 1965. Địa chỉ: ấp C, thị trấn L, huyện T, tỉnh
Sóc Trăng (vắng mặt).
2
Người đại diện theo ủy quyền của bà D: Ông Nguyễn Văn H1, sinh năm
1966. Địa chỉ: ấp C, thị trấn L, huyện T, tỉnh Sóc Trăng (có mặt).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Nguyễn Thị Ánh . Địa chỉ: ấp P, thị trấn L, huyện T, tỉnh Sóc Trăng
(vắng mặt).
Người đại diện theo ủy quyền của bà Nguyễn Thị Á: Ông Nguyễn Văn Ú.
Địa chỉ liên hệ: số A, ấp C, thị trấn P, huyện T, tỉnh Sóc Trăng (văn bản ủy
quyền ngày 20/6/2022), (có mặt).
2. Ông Nguyễn Hoàng L. Địa chỉ: ấp C, thị trấn L, huyện T, tỉnh Sóc Trăng
(có mặt).
3. Bà Dương Thị L1. Địa chỉ: ấp C, thị trấn L, huyện T, tỉnh Sóc Trăng
(vắng mặt).
4. Bà Nguyễn Ngọc T. Địa chỉ: ấp C, thị trấn L, huyện T, tỉnh Sóc Trăng
(vắng mặt).
5. Bà Nguyễn Ngọc T1. Địa chỉ: ấp C, thị trấn L, huyện T, tỉnh Sóc Trăng
(vắng mặt).
6. Bà Trần Thị M (Máy). Địa chỉ: ấp P, thị trấn L, huyện T, tỉnh Sóc Trăng
(có mặt).
7. Bà Nguyễn Kim H2. Địa chỉ: ấp P, thị trấn L, huyện T, tỉnh Sóc Trăng
(vắng mặt).
8. Ông Nguyễn Thanh N1. Địa chỉ: ấp P, thị trấn L, huyện T, tỉnh Sóc
Trăng (vắng mặt).
9. Ông Nguyễn Thanh S. Địa chỉ: ấp P, thị trấn L, huyện T, tỉnh Sóc Trăng
(có mặt).
10. Bà Nguyễn Ngọc X. Địa chỉ: ấp P, thị trấn L, huyện T, tỉnh Sóc Trăng
(vắng mặt).
Người đại diện theo ủy quyền của bà Trần Thị M (Máy), bà Nguyễn Kim
H2, ông Nguyễn Thanh N1, ông Nguyễn Thanh S, bà Nguyễn Ngọc X: Ông
Nguyễn Văn Ú. Địa chỉ liên hệ: số A, ấp C, thị trấn P, huyện T, tỉnh Sóc Trăng
(văn bản ủy quyền ngày 21/11/2022), (có mặt).
11. Ủy ban nhân dân huyện T, tỉnh Sóc Trăng. Địa chỉ: Khu hành chính, ấp
Đ, thị trấn T, huyện T, tỉnh Sóc Trăng.
Người đại diện theo ủy quyền của Ủy ban nhân dân huyện T: Ông Nguyễn
Thanh G, là Phó Trưởng phòng Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện T. Địa
chỉ: Khu hành chính, ấp Đ, thị trấn T, huyện T, tỉnh Sóc Trăng (văn bản ủy
quyền ngày 06/7/2023), (vắng mặt).
12. Ông Nguyễn Văn T2. Địa chỉ: ấp C, thị trấn L, huyện T, tỉnh Sóc Trăng
(có mặt).
3
13. Bà Nguyễn Thị Tuyết N2. Địa chỉ: ấp C, thị trấn L, huyện T, tỉnh Sóc
Trăng (vắng mặt).
14. Cháu Nguyễn Thị Thu N3, sinh năm 2016. Địa chỉ: ấp C, thị trấn L,
huyện T, tỉnh Sóc Trăng (vắng mặt).
Người giám hộ của cháu Nguyễn Thị Thu N3: Ông Nguyễn Văn T2 (cha
ruột cháu Nguyễn Thị Thu N3), địa chỉ: ấp C, thị trấn L, huyện T, tỉnh Sóc
Trăng (có mặt).
15. Bà Nguyễn Thị Ngọc Q. Địa chỉ: ấp C, thị trấn L, huyện T, tỉnh Sóc
Trăng (vắng mặt).
- Người kháng cáo: Bị đơn ông Nguyễn Văn H1 và bà Lưu Thị D.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
- Theo đơn khởi kiện ngày 20/6/2022 (đã được sửa đổi, bổ sung ngày
02/8/2022) của bà Nguyễn Thị H và trình bày của ông Nguyễn Văn Ú (người
đại diện theo ủy quyền của bà H):
Ông Nguyễn Văn V (sinh năm 1922, chết ngày 25/8/1996) và bà Phạm Thị
C (sinh năm 1923, chết ngày 03/8/2010) có 06 người con chung gồm ông
Nguyễn Văn Đ (chết ngày 29/8/2012), ông Nguyễn Văn S1 (chết ngày
05/5/2012), bà Nguyễn Thị Á, ông Nguyễn Hoàng L, bà Nguyễn Thị H và ông
Nguyễn Văn H1. Ông V, bà C không có con nuôi hay con riêng.
Vào năm 1983, ông V và bà C có nhận chuyển nhượng của ông ba H1 phần
đất và trực tiếp canh tác, quản lý cho đến khi chết. Phần đất này hiện nay có diện
tích 1.681,2m
2
, thửa đất số 78, tờ bản đồ số 66, đất tọa lạc tại ấp C, thị trấn L,
huyện T, tỉnh Sóc Trăng và được Ủy ban nhân dân huyện T cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất số BV
280779 (số vào sổ CH00616) ngày 14/11/2019 (sau đây viết tắt là Giấy chứng
nhận số BV 280779 ngày 14/11/2019) cho ông Nguyễn Văn H1 và bà Lưu Thị
D.
Khi còn sống, ông V và bà C có hứa cho bà Nguyễn Thị H một nền nhà có
chiều ngang 5m, chiều dài 40m, diện tích 200m
2
nằm trong thửa đất trên. Sau
khi bà C chết, ông Nguyễn Văn H1 cùng vợ là bà Lưu Thị D quản lý, sử dụng
thửa đất trên và được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu
nhà ở và tài sản gắn liền với đất trong khi các người thừa kế của ông V, bà C
chưa có ý kiến gì về phân chia di sản. Bà H đã nhiều lần đến gặp ông H1 để yêu
cầu chia thừa kế nhưng ông H1, bà D không đồng ý.
Bà Nguyễn Thị H cho rằng ông V, bà C chết không để lại di chúc nên yêu
cầu Tòa án giải quyết:
1. Hủy Giấy chứng nhận số BV 280779 ngày 14/11/2019 đối với phần đất
có diện tích 1.681,2m
2
, thửa đất số 78, tờ bản đồ số 66, đất tọa lạc tại ấp C, thị
trấn L, huyện T, tỉnh Sóc Trăng.
4
2. Chia thừa kế theo pháp luật đối với diện tích trên. Do vợ con ông
Nguyễn Văn S1 là bà Dương Thị L1, bà Nguyễn Ngọc T và bà Nguyễn Ngọc T1
từ chối và nhường quyền thừa kế nên bà H yêu cầu chia thành 05 phần, bà H
nhận 01 phần bằng hiện vật là phần đất hướng về Kênh ông Hai V1, còn lại 04
phần cho ông Nguyễn Văn Đ (đã chết, người thừa kế của ông Đ gồm vợ là bà
Trần Thị M, các con là bà Nguyễn Kim H2, ông Nguyễn Thanh N1, ông Nguyễn
Thanh S, bà Nguyễn Ngọc X), bà Nguyễn Thị Á, ông Nguyễn Hoàng L và ông
Nguyễn Văn H1.
- Theo trình bày của ông Nguyễn Văn H1:
Ông Nguyễn Văn H1 thống nhất với ý kiến của bà Nguyễn Thị H trình bày
về cha mẹ là cụ ông Nguyễn Văn V và cụ bà Phạm Thị C, về hàng, diện thừa kế
của 02 cụ.
Ông H1 không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của bà H và yêu cầu độc lập
của bà Trần Thị M1, bà Nguyễn Kim H2, ông Nguyễn Thanh N1, ông Nguyễn
Thanh S, bà Nguyễn Ngọc X vì cho rằng vào năm 1978, ông V chỉ mua của ông
Triệu Văn H3 căn nhà lá mà không bao gồm phần đất gắn liền có kích thước
ngang 6m, dài 15m tại ấp C, thị trấn L, huyện T, tỉnh Sóc Trăng. Vào khoảng
các năm 1982, năm 1985 Nhà nước có cấp đất cho hộ gia đình ông Nguyễn Văn
V sử dụng, đến năm 1987 ông V chia đất thành 03 phần cho ông Nguyễn Văn
S1, ông Nguyễn Hoàng L và ông Nguyễn Văn H1 sử dụng liền kề nhau. Khi
Nhà nước giao đất thì anh chị em của ông H1 không còn trong hộ khẩu gia đình
vì đã được cha mẹ cho đất để ra riêng sinh sống. Còn phần đất tranh chấp thì cho
vợ chồng ông H1, bà Lưu Thị D quản lý, sử dụng từ năm 1987, đến năm 2019
ông Hải đăng K và được Ủy ban nhân dân huyện T cấp Giấy chứng nhận số BV
280779 ngày 14/11/2019 cho ông H1, bà D đối với diện tích đất 1.681,2m
2
, số
thửa 78, tờ bản đồ số 66, tọa lạc tại ấp C, thị trấn L, huyện T, tỉnh Sóc Trăng.
- Theo trình bày của bà Lưu Thị D:
Bà Lưu Thị D là vợ của ông Nguyễn Văn H1. Bà D thống nhất với ý kiến
trình bày của ông H1 và không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị
H. Bà D cho rằng phần đất tranh chấp do nhà nước trang trải, cấp cho hộ gia
đình của ông Nguyễn Văn V sử dụng vào khoảng năm 1985, đến năm 1987 ông
V giao cho vợ chồng bà D, ông H1 sử dụng đến nay.
- Theo đơn yêu cầu độc lập ngày 14/6/2023 của bà Trần Thị M1, bà
Nguyễn Kim H2, ông Nguyễn Thanh N1, ông Nguyễn Thanh S, bà Nguyễn
Ngọc X và trình bày của ông Nguyễn Văn Ú:
Bà Trần Thị M1 là vợ của ông Nguyễn Văn Đ; bà M1 và ông Đ sống chung
có 04 người con chung là bà Nguyễn Kim H2, ông Nguyễn Thanh N1, ông
Nguyễn Thanh S, bà Nguyễn Ngọc X. Bà M1, bà H2, ông N1, ông S, bà X
thống nhất với ý kiến của bà Nguyễn Thị H trình bày về cụ ông Nguyễn Văn V
và cụ bà Phạm Thị C, về hàng, diện thừa kế cũng như di sản thừa kế do 02 cụ để
lại. Khi còn sống, cụ V, cụ C chưa chia cho ông Đ phần đất nào. Bà M1, bà H2,
5
ông N1, ông S, bà X
đã nhiều lần yêu cầu ông H1 chia thừa kế nhưng ông H1, bà
D không đồng ý.
Bà Trần Thị M1, bà Nguyễn Kim H2, ông Nguyễn Thanh N1, ông Nguyễn
Thanh S, bà Nguyễn Ngọc X yêu cầu Tòa án giải quyết chia thừa kế theo pháp
luật đối với thửa đất số 78, tờ bản đồ số 66 và đề nghị được nhận tài sản thừa kế
là phần đất hướng về Kênh ông Hai V1.
- Theo trình bày của bà Dương Thị L1:
Chồng của bà Dương Thị L1 là ông Nguyễn Văn S1, ông S1 và bà L1 có
02 người con chung là bà Nguyễn Ngọc T, bà Nguyễn Ngọc T1. Bà L1 thống
nhất với nội dung trình bày của nguyên đơn, nhưng đồng ý nhường lại phần tài
sản thừa kế mà ông S1 được hưởng cho các thừa kế khác.
- Tại văn bản gửi đường bưu điện ngày 18/9/2023, bà Nguyễn Ngọc T, bà
Nguyễn Ngọc T1 cùng trình bày: Bà Nguyễn Ngọc T, bà Nguyễn Ngọc T1 là
người thừa kế theo pháp luật của ông S1. Bà T, bà T1 từ chối nhận tài sản thừa
kế được hưởng.
- Theo trình bày của ông Nguyễn Hoàng L:
Ông Nguyễn Hoàng L thống nhất với nội dung trình bày và yêu cầu chia
thừa kế của nguyên đơn. Ông L đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định pháp
luật và được nhận phần đất thừa kế hướng về Kênh ông Hai V1.
- Theo trình bày của ông Nguyễn Văn T2 tại văn bản ngày 14/7/2023 và
tại phiên tòa: Ông Nguyễn Văn T2 là con của ông Nguyễn Văn H1 và bà Lưu
Thị D. Ông T2 thống nhất với ý kiến và yêu cầu của ông H1.
- Ủy ban nhân dân huyện T, tỉnh Sóc Trăng: Tòa án đã cấp, tống đạt hợp lệ
các văn bản tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án, nhưng không có ý kiến
phản đối những tình tiết, sự kiện, tài liệu mà các đương sự còn lại đã trình bày
và giao nộp cho Tòa án.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 20/2024/DS-ST ngày 03-4-2024, Tòa án
nhân tỉnh Sóc Trăng quyết định:
I. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị H:
Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản
gắn liền với đất số BV 280779 (số vào sổ CH00616) ngày 14/11/2019 do Ủy
ban nhân dân huyện T, tỉnh Sóc Trăng cấp cho ông Nguyễn Văn H1 và bà Lưu
Thị D đối với thửa đất số 78, tờ bản đồ số 66, diện tích 1.681,2m
2
, tọa lạc tại ấp
C, thị trấn L, huyện T, tỉnh Sóc Trăng.
II. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị H và yêu cầu độc lập
của bà Trần Thị M1, bà Nguyễn Kim H2, ông Nguyễn Thanh N1, ông Nguyễn
Thanh S, bà Nguyễn Ngọc X về việc chia thừa kế tài sản:
1. Chia thừa kế theo pháp luật đối với tài sản do cụ ông Nguyễn Văn V và
cụ bà Phạm Thị C chết để lại là thửa đất số 78, tờ bản đồ số 66, tọa lạc tại ấp C,
6
thị trấn L, huyện T, tỉnh Sóc Trăng có diện tích 1.581,5m², gồm 200m
2
đất ODT
và 1.381,5m
2
đất CLN (232,5m
2
đất CLN trong phạm vi hành lang kênh); tổng
trị giá 1.415.465.000 đồng, trong đó đất ODT là 530.600.000 đồng (200m
2
x
2.653.000 đồng), đất CLN là 873.240.000 đồng (1.149m
2
x 760.000 đồng), đất
CLN thuộc phạm vi hành lang kênh là 11.625.000 đồng (232,50m
2
x 50.000
đồng). Đất có vị trí, số đo như sau:
- Hướng Đông giáp các thửa đất số 75, 76, 77; có số đo 7,50m + 13,90m +
3,15m + 2,07m + 4,64m + 14,78m.
- Hướng Tây giáp các thửa đất số 79, 81; có số đo 22,48m + 5,02m +
7,36m + 6,59m + 0,83m + 1,29m + 0,71m + 4,13m + 2,69m.
- Hướng Nam giáp đường đất; có số đo 8,32m + 8,78m + 15,0m.
- Hướng Bắc giáp đường bê tông cặp Kênh ông Hai V1; có số đo 7,60m +
7,26m + 1,94m + 4,47m + 4,73m + 1,18m + 4,94m + 2,73m.
2. Ông Nguyễn Văn H1 nhận phần tài sản thừa kế có diện tích tổng cộng là
731,2m
2
(40m
2
đất ODT; 691,2m
2
đất CLN) trị giá 631.432.000 đồng, trong đó
đất ODT là 106.120.000 đồng (40m
2
x 2.653.000 đồng), đất CLN là
525.312.000 đồng (691,2m
2
x 760.000 đồng) và vị trí, kích thước (phần 5, gồm
các điểm toạ độ 18, 19, 12E, 12D, 17A và phần 6, gồm các điểm toạ độ 13, 14,
15, 16, 17, 17A, 12D, 12C, 12B, 12A của Sơ đồ phần đất thừa kế) như sau:
- Hướng Đông giáp các thửa đất số 75, 76, 77; có số đo 3,15m + 2,07m +
4,64m + 14,78m.
- Hướng Tây giáp thửa đất số 79; có số đo 22,48m.
- Hướng Nam giáp đường đất; có số đo 8,32m + 8,78m + 15,0m.
- Hướng Bắc giáp các phần 1, 2, 3, 4; có số đo 8,80m + 6,30m + 2,60m +
8,90m + 8,90m.
Trên đất có các tài sản thuộc sở hữu của ông Nguyễn Văn H1, bà Lưu Thị
D gồm:
- Nhà chính: Diện tích 53,20m
2
(ngang 5,6m x dài 9,5m), kết cấu tường xây
gạch 10, cột bê tông đúc sẵn, mái tole xi măng, nền lót gạch bông.
- Nhà sau: Diện tích 16,80m
2
(ngang 5,6m x dài 3m), kết cấu tường xây
gạch 10, cột bê tông đúc sẵn, mái tole xi măng, nền trán xi măng.
- Mái che hướng trước: Diện tích 16,80m
2
(ngang 5,6m x dài 3m), kết cấu
mái tole, cột bê tông đúc sẵn.
- Mái che bên hông: Diện tích 42,70m
2
(ngang 3,05m x dài 14m), kết cấu
mái tole, cột bê tông đúc sẵn.
- Nhà vệ sinh: Diện tích 3,40m
2
(ngang 1,4m x dài 2,43m), kết cấu tường
xây gạch 10, mái tole, xí xổm, có hầm cầu bê tông đúc sẵn.
7
3. Bà Nguyễn Thị H nhận phần tài sản thừa kế có diện tích 225,3m
2
(40m
2
đất ODT; 131,3m
2
đất CLN, trong đó có 54,0m
2
đất CLN thuộc phạm vi hành
lang kênh) trị giá 208.608.000 đồng, trong đó đất ODT là 106.120.000 đồng
(40m
2
x 2.653.000 đồng), đất CLN là 99.788.000 đồng (131,3m
2
x 760.000
đồng), đất CLN thuộc phạm vi hành lang kênh là 2.700.000 đồng (54,0m
2
x
50.000 đồng) và vị trí, kích thước (phần 1, gồm các điểm toạ độ 19, 20, 21, 1, 2,
3, 4, 5, 6, 6A, 12E của Sơ đồ phần đất thừa kế) như sau:
- Hướng Đông giáp phần 2; có số đo 26,40m.
- Hướng Tây giáp thửa đất số 79 và thửa 81; có số đo 5,02m + 7,36m +
6,59m + 0,83m + 1,29m + 0,71m + 4,13m + 2,69m.
- Hướng Nam giáp phần 5; có số đo 8,80m.
- Hướng Bắc giáp đường bê tông; có số đo 7,60m.
Trường hợp bà Nguyễn Thị H có yêu cầu, ông Nguyễn Văn H1, bà Lưu Thị
D, ông Nguyễn Văn T2, bà Nguyễn Thị Tuyết N2, cháu Nguyễn Thị Thu N3, bà
Nguyễn Thị Ngọc Q có trách nhiệm giao phần đất nêu trên cho cơ quan thi hành
án có thẩm quyền để thi hành.
4. Bà Nguyễn Thị Á được nhận phần tài sản thừa kế có diện tích 225,1m
2
(40m
2
đất ODT; 125,6m
2
đất CLN, trong đó có 59,5m
2
đất CLN thuộc phạm vi
hành lang kênh) trị giá 204.551.000 đồng, trong đó đất ODT là 106.120.000
đồng (40m
2
x 2.653.000 đồng), đất CLN là 95.456.000 đồng (125,6m
2
x
760.000 đồng), đất CLN thuộc phạm vi hành lang kênh là 2.975.000 đồng
(59,5m
2
x 50.000 đồng) và vị trí, kích thước (phần 2, gồm các điểm toạ độ 6A,
7, 7A, 12C,12E của Sơ đồ phần đất thừa kế) như sau:
- Hướng Đông giáp phần 3; có số đo 24,30m.
- Hướng Tây giáp phần 1; có số đo 26,4m.
- Hướng Nam giáp phần 5 và phần 6; có số đo 6,30m + 2,60m.
- Hướng Bắc giáp đường bê tông; có số đo 7,26m + 1,94m.
Trường hợp bà Nguyễn Thị Á có yêu cầu, ông Nguyễn Văn H1, bà Lưu Thị
D, ông Nguyễn Văn T2, bà Nguyễn Thị Tuyết N2, cháu Nguyễn Thị Thu N3, bà
Nguyễn Thị Ngọc Q có trách nhiệm giao phần đất nêu trên cho cơ quan thi hành
án có thẩm quyền để thi hành.
5. Bà Trần Thị M1, bà Nguyễn Kim H2, ông Nguyễn Thanh N1, ông
Nguyễn Thanh S, bà Nguyễn Ngọc X được nhận phần tài sản thừa kế có diện
tích 207,0m
2
(40m
2
đất ODT; 108,9m
2
đất CLN, trong đó có 58,1m
2
đất CLN
thuộc phạm vi hành lang kênh) trị giá 191.789.000 đồng, trong đó đất ODT là
106.120.000 đồng (40m
2
x 2.653.000 đồng), đất CLN là 82.764.000 đồng
(108,9m
2
x 760.000 đồng), đất CLN thuộc phạm vi hành lang kênh là 2.905.000
đồng (58,1m
2
x 50.000 đồng) và vị trí, kích thước (phần 3, gồm các điểm toạ độ
7A, 8, 8A, 12B, 12C của Sơ đồ phần đất thừa kế) như sau:
8
- Hướng Đông giáp phần 4; có số đo 22,35m.
- Hướng Tây giáp phần 2; có số đo 24,3m.
- Hướng Nam giáp phần 6; có số đo 8,90m.
- Hướng Bắc giáp đường bê tông; có số đo 4,47m + 4,73m.
Trường hợp bà Trần Thị M1, bà Nguyễn Kim H2, ông Nguyễn Thanh N1,
ông Nguyễn Thanh S, bà Nguyễn Ngọc X có yêu cầu, ông Nguyễn Văn H1, bà
Lưu Thị D, ông Nguyễn Văn T2, bà Nguyễn Thị Tuyết N2, cháu Nguyễn Thị
Thu N3, bà Nguyễn Thị Ngọc Q có trách nhiệm giao phần đất nêu trên cho cơ
quan thi hành án có thẩm quyền để thi hành.
6. Ông Nguyễn Hoàng L được nhận phần tài sản thừa kế có diện tích
192,9m
2
(40m
2
đất ODT; 92m
2
đất CLN, trong đó có 60,9m
2
đất CLN thuộc
phạm vi hành lang kênh) trị giá 179.085.000 đồng, trong đó đất ODT là
106.120.000 đồng (40m
2
x 2.653.000 đồng), đất CLN là 69.920.000 đồng (92m
2
x 760.000 đồng), đất CLN thuộc phạm vi hành lang kênh là 3.045.000 đồng
(60,9m
2
x 50.000 đồng) và vị trí, kích thước (phần 4, gồm các điểm toạ độ 8A,
9, 10, 11, 12, 12A, 12B của Sơ đồ phần đất thừa kế) như sau:
- Hướng Đông giáp thửa đất số 75; có số đo 7,50m + 13,90m.
- Hướng Tây giáp phần 3; có số đo 22,35m.
- Hướng Nam giáp phần 6; có số đo 8,90m.
- Hướng Bắc giáp đường bê tông; có số đo 1,18m + 4,94m + 2,73m.
Trường hợp ông Nguyễn Hoàng L có yêu cầu, ông Nguyễn Văn H1, bà
Lưu Thị D, ông Nguyễn Văn T2, bà Nguyễn Thị Tuyết N2, cháu Nguyễn Thị
Thu N3, bà Nguyễn Thị Ngọc Q có trách nhiệm giao phần đất nêu trên cho cơ
quan thi hành án có thẩm quyền để thi hành.
7. Ông Nguyễn Văn H1 có trách nhiệm thanh toán giá trị tài sản thừa kế
cho:
- Bà Nguyễn Thị H số tiền là 27.302.833 đồng.
- Bà Nguyễn Thị Á số tiền là 31.359.833 đồng.
- Bà Trần Thị M1, bà Nguyễn Kim H2, ông Nguyễn Thanh N1, ông
Nguyễn Thanh S, bà Nguyễn Ngọc X số tiền là 44.121.833 đồng.
- Ông Nguyễn Hoàng L số tiền là 56.825.833 đồng.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến
khi thi hành xong, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi
của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468
của Bộ luật Dân sự năm 2015 tương ứng với thời gian chưa thi hành
án.
8. Bà Nguyễn Thị H, bà Nguyễn Thị Á, ông Nguyễn Hoàng L và bà Trần
Thị M1, bà Nguyễn Kim H2, ông Nguyễn Thanh N1, ông Nguyễn Thanh S, bà
9
Nguyễn Ngọc X được quyền sở hữu các tài sản nằm trên thửa đất số 78, tờ bản
đồ số 66, diện tích 1.581,5m², tọa lạc tại ấp C, thị trấn L, huyện T, tỉnh Sóc
Trăng sau đây:
+ Tường rào: Diện tích 104,80m
2
, kết cấu cột bê tông đúc sẵn, lưới B40.
+ Lối đi (đường xi măng): Diện tích 18m
2
(ngang 1,2m x dài 15m), kết cấu
láng xi măng.
+ Máy bơm nước: ngang 1,1m, dài 1,8m (02HP), nhãn hiệu Superwin.
+ Cây lâu năm gồm: 11 cây dừa loại A, 08 cây dừa loại B; 06 cây mít loại
A; 75 cây chuối loại B; 25 cây mai loại B, 20 cây mai loại C.
Bà Nguyễn Thị H, bà Nguyễn Thị Á, ông Nguyễn Hoàng L và bà Trần Thị
M1, bà Nguyễn Kim H2, ông Nguyễn Thanh N1, ông Nguyễn Thanh S, bà
Nguyễn Ngọc X có trách nhiệm tháo dỡ, phá bỏ hoặc di dời những phần thuộc
tài sản trên ra ngoài phần đất mà ông Nguyễn Văn H1 được hưởng thừa kế
(phần 5, phần 6).
Bà Nguyễn Thị H, bà Nguyễn Thị Á, ông Nguyễn Hoàng L và bà Trần Thị
M1, bà Nguyễn Kim H2, ông Nguyễn Thanh N1, ông Nguyễn Thanh S, bà
Nguyễn Ngọc X cùng có trách nhiệm thanh toán cho ông Nguyễn Văn H1, bà
Lưu Thị D giá trị của tường rào, lối đi (đường xi măng), máy bơm nước và cây
lâu năm với số tiền giá tổng cộng là 50.457.933 đồng.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí và chi phí khác,
trách nhiệm thi hành án theo quy định của pháp luật.
Sau khi xét xử sơ thẩm:
Ngày 17/4/2024, bị đơn ông Nguyễn Văn H1 và bà Lưu Thị D kháng cáo
toàn bộ bản án dân sự sơ thẩm nêu trên, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm không
chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, do khi chết ông Nguyễn Văn V và
bà Phạm Thị C không có để lại di sản thừa kế.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Các đương sự không tự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.
Người kháng cáo ông Nguyễn Văn H1 giữ nguyên yêu cầu kháng cáo của
ông H1 và bà Lưu Thị D.
Ông Nguyễn Văn H1 và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ông
H1 trình bày quan điểm tranh luận: Giữ nguyên quan điểm đã trình bày tại cấp
sơ thẩm và tại đơn kháng cáo. Đề nghị xác định tài sản tranh chấp là của riêng
ông H1. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ông H1 bổ sung thêm yêu
cầu nếu Tòa án cấp phúc thẩm vẫn xác định tài sản tranh chấp là di sản thừa kế,
thì đề nghị chia lại, vì Tòa án cấp sơ thẩm chia cho ông H1 phần giáp đường đất,
gây khó khăn cho sinh hoạt của ông H1.
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn và của một số người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày quan điểm tranh luận: đề nghị Hội đồng
10
xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của ông H1, bà D; giữ nguyên bản
án sơ thẩm. Phần đất tranh chấp trước đây đi đường chính là con đường đất, nhà
của ông H1 xây quay ra con đường đất, có khuôn viên giáp đường đất. Đường
bê tông phía sau mới mở. Những người thừa kế còn lại, yêu cầu được chia giáp
nhau phía sau để thuận tiện sinh hoạt và cấp giấy chứng nhận; không đồng ý cho
ông H1 phần chênh lệch giá trị, tuy nhiên đến giai đoạn thi hành án, các đương
sự có thể thỏa thuận sau.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh tham
gia phiên tòa, phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án:
- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư
ký phiên tòa và những người tham gia tố tụng, trong quá trình giải quyết vụ án,
kể từ khi thụ lý, cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án: đã tuân thủ
đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
- Về việc giải quyết vụ án: Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ
vụ án, thấy: Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà
Nguyễn Thị H và yêu cầu độc lập của bà Trần Thị M1, bà Nguyễn Kim H2, ông
Nguyễn Thanh N1, ông Nguyễn Thanh S, bà Nguyễn Ngọc X, là có căn cứ,
đúng pháp luật. Bị đơn ông Nguyễn Văn H1 và bà Lưu Thị D kháng cáo, nhưng
không có căn cứ chứng minh nên đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận
kháng cáo của các bị đơn, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm
tra tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát và kết quả tranh tụng tại
phiên tòa, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định:
[1]. Về những người tham gia tố tụng: Tòa án tiến hành đưa vụ án ra xét xử
lần thứ hai, triệu tập hợp lệ các đương sự trong vụ án. Tại phiên tòa phúc thẩm,
vắng mặt người kháng cáo là bà Lưu Thị D và một số người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan. Xét, bà D đã ủy quyền cho ông H1, và việc vắng mặt của các
đương sự này không ảnh hưởng đến việc xét kháng cáo của các bị đơn. Do đó,
căn cứ các điều 227, 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành
xét xử vắng mặt các đương sự nêu trên.
[2]. Xét kháng cáo của các bị đơn ông Nguyễn Văn H1 và bà Lưu Thị D:
[2.1]. Các đương sự đều xác nhận: Cụ ông Nguyễn Văn V (chết ngày
25/8/1996) và cụ bà Phạm Thị C (chết ngày 03/8/2010) có 06 người con chung
gồm ông Nguyễn Văn Đ, ông Nguyễn Văn S1, bà Nguyễn Thị Á, ông Nguyễn
Hoàng L, bà Nguyễn Thị H và ông Nguyễn Văn H1. Cụ V, cụ C không có con
nuôi hay con riêng và trước khi chết đều không để lại di chúc. Ông Nguyễn Văn
Đ chết ngày 29/8/2012. Ông Đ có vợ là bà Trần Thị M1, bà M1 và ông Đ có 04
người con chung là bà Nguyễn Kim H2, ông Nguyễn Thanh N1, ông Nguyễn
Thanh S, bà Nguyễn Ngọc X. Ông Nguyễn Văn S1 chết ngày 05/5/2012. Ông
11
S1 có vợ là bà Dương Thị L1, ông S1 và bà L1 có 02 người con chung là bà
Nguyễn Ngọc T, bà Nguyễn Ngọc T1.
Phần diện tích đất các bên tranh chấp là thửa đất số 78, tờ bản đồ số 66,
diện tích 1.681,2m
2
(diện tích đo đạc thực tế là 1.581,5m
2
) đã được Ủy ban nhân
dân huyện T, tỉnh Sóc Trăng cấp Giấy chứng nhận số BV 280779 ngày
14/11/2019 cho ông Nguyễn Văn H1, bà Lưu Thị D; còn tài sản trên đất chưa
đăng ký quyền sở hữu.
[2.2]. Xét kháng cáo của các bị đơn cho rằng phần đất tranh chấp nêu trên
không phải là di sản là của cha mẹ để lại:
Theo Hồ sơ đăng ký cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở
hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất trích lục tại Chi nhánh Văn phòng đăng ký
đất đai huyện T, tỉnh Sóc Trăng thể hiện thửa đất số 78, tờ bản đồ số 66, đất tọa
lạc tại ấp C, thị trấn L, huyện T, tỉnh Sóc Trăng có nguồn gốc “của ông Nguyễn
Văn V sử dụng ổn định đến năm 1990, chết để lại cho con Nguyễn Văn H1 sử
dụng và cất nhà ở ổn định đến nay”.
Đồng thời, theo lời trình bày của người làm chứng là ông Triệu Văn H3,
ông Triệu Mộc Đ1, ông Thái Văn Ú1, ông Nguyễn Hồng Q1, ông Đặng Hữu P,
ông Khưu T3 thì phần đất tranh chấp có nguồn gốc là của ông Nguyễn Văn V.
Tại đơn kháng cáo ngày 17/4/2024, bị đơn ông Nguyễn Văn H1 và bà Lưu
Thị D cho rằng phần diện tích tranh chấp có nguồn gốc là đất tập đoàn sản xuất
Nhà nước lấy cấp cho hộ gia đình cha mẹ ông là ông Nguyễn Văn V và bà Phạm
Thị C, cấp vào khoảng năm 1985-1987 (trên đất có căn nhà mua của ông Triệu
Văn H3 năm 1978). Phần diện tích đất tranh chấp nêu trên ông V và bà C đã cho
vợ chồng ông H3 năm 1987. Tuy nhiên, xét trong hồ sơ đăng ký cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất không có tài liệu nào thể hiện việc ông V chuyển quyền
sử dụng đất này cho ông H3. Ông H3 và bà D cũng không cung cấp được tài
liệu, chứng cứ nào chứng minh phần đất tranh chấp là của hộ gia đình ông
Nguyễn Văn V.
Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm xác định thửa đất số 78, tờ bản đồ số 66, tọa lạc
tại ấp C, thị trấn L, huyện T, tỉnh Sóc Trăng có diện tích 1.581,5m² là di sản do
cụ ông Nguyễn Văn V và cụ bà Phạm Thị C chết để lại, chưa chia và thuộc
quyền sử dụng chung của các con của cụ V, cụ C, là có cơ sở. Ông H3, bà D
kháng cáo cho rằng phần đất trên không phải là di sản của cha mẹ để lại, là
không có căn cứ chấp nhận.
[2.3]. Xét kháng cáo về việc không đồng ý hủy giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất Nhà nước đã cấp cho gia đình bị đơn:
Như đã nhận định tại mục [2.2], do thửa đất số 78, tờ bản đồ số 66 nêu trên
là di sản thừa kế của cụ ông Nguyễn Văn V và cụ bà Phạm Thị C chết để lại
chưa chia nên kể từ thời điểm 02 cụ chết, phần đất này trở thành tài sản chung
của các đồng thừa kế của cụ V và cụ C là ông Nguyễn Văn Đ, ông Nguyễn Văn
S1, bà Nguyễn Thị Á, ông Nguyễn Hoàng L, bà Nguyễn Thị H và ông Nguyễn
12
Văn H1 theo quy định tại khoản 1 Điều 611, Điều 612, Điều 613, Điều 614 Bộ
luật Dân sự năm 2015.
Tại khoản 2 Điều 98, điểm c khoản 1 Điều 99, điểm c khoản 1 Điều 100
Luật Đất đai năm 2013 quy định nhiều người được thừa kế chung quyền sử dụng
đất thì được Nhà nước cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu
nhà ở và tài sản gắn liền với đất ghi đầy đủ tên của những người này. Tuy nhiên,
hồ sơ cấp Giấy chứng nhận số BV 280779 ngày 14/11/2019 không có tài liệu
nào liên quan đến việc khai nhận di sản thừa kế hoặc thể hiện ông Nguyễn Văn
H1, bà Lưu Thị D được quyền thừa kế thửa đất trên từ cụ V, cụ C nhưng bà D
lại là người thực hiện các thủ tục kê khai, đăng ký để được Ủy ban nhân dân
huyện T, tỉnh Sóc Trăng công nhận được quyền sử dụng toàn bộ tài sản này
thông qua việc cấp Giấy chứng nhận số BV 280779 ngày 14/11/2019, là không
đúng đối tượng.
Theo khoản 2 Điều 101 Luật Đất đai năm 2013 và Điều 70 Nghị định số
43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số
điều của Luật này thì trường hợp hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không
có giấy tờ về quyền sử dụng đất nhưng có đề nghị đăng ký đất đai, cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với
đất thì Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm kiểm tra hồ sơ, xác nhận hiện
trạng sử dụng đất so với nội dung kê khai đăng ký, xác nhận nguồn gốc, thời
điểm sử dụng đất, tình trạng tranh chấp; đồng thời phải niêm yết công khai kết
quả kiểm tra hồ sơ và xác nhận này tại trụ sở Ủy ban nhân dân và khu dân cư
nơi có đất trong thời hạn 15 ngày. Nhưng hồ sơ cấp Giấy chứng nhận số BV
280779 ngày 14/11/2019 thể hiện Ủy ban nhân dân thị trấn L, huyện T, tỉnh Sóc
Trăng đã không thực hiện việc niêm yết theo quy định trên; đồng thời, khi xác
nhận điều kiện và kiểm tra hồ sơ đăng ký, cơ quan đăng ký đất đai, tài nguyên
và môi trường đã không phát hiện dẫn đến Ủy ban nhân dân huyện T cấp Giấy
chứng nhận này cho ông H1, bà D là vi phạm về trình tự, thủ tục. Vì vậy, Tòa án
cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu huỷ Giấy chứng nhận đã cấp cho ông H1, bà D
đối với thửa đất số 78, tờ bản đồ số 66 của bà H, là có căn cứ chấp nhận.
[2.4]. Về việc chia di sản thừa kế:
[2.4.1]. Theo kết quả xem xét, thẩm định tại chỗ của Toà án, Phiếu xác
nhận kết quả đo đạc hiện trạng thửa đất ngày 08/02/2023 của Chi nhánh Văn
phòng Đ và Chứng thư thẩm định giá số 23033102/CT-BĐS-TĐGVIET ngày
31/3/2023 của Công ty cổ phần T4 thì quyền sử dụng đất và tài sản trên đất trị
giá tổng cộng là 1.630.679.000 đồng (đã làm tròn), cụ thể như sau:
- Thửa đất số 78, tờ bản đồ số 66, tọa lạc tại ấp C, thị trấn L, huyện T, tỉnh
Sóc Trăng có diện tích 1.581,5m² (có 232,5m
2
trong phạm vi hành lang kênh),
loại đất ODT (200m
2
) + CLN (1.381,5m
2
); tổng trị giá 1.415.465.000 đồng,
trong đó đất ODT là 530.600.000 đồng (200m
2
x 2.653.000 đồng), đất CLN là
873.240.000 đồng (1.149m
2
x 760.000 đồng), đất CLN thuộc phạm vi hành lang
kênh là 11.625.000 đồng (232,5m
2
x 50.000 đồng).
13
- Tài sản trên đất (chưa đăng ký quyền sở hữu) trị giá tổng cộng là
215.303.653 đồng.
[2.4.2]. Các đương sự có mặt thống nhất xác định các tài sản trên đất gồm
nhà chính, nhà sau, mái che phía trước, mái che bên hông, nhà vệ sinh, tường
rào, lối đi (đường xi măng), máy bơm nước và cây trồng thuộc quyền sở hữu của
ông Nguyễn Văn H1, bà Lưu Thị D.
Do cụ ông Nguyễn Văn V và cụ bà Phạm Thị C trước khi chết không để lại
di chúc, theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 650, Điều 651 của Bộ luật Dân
sự năm 2015 thì di sản của 02 cụ là thửa đất số 78, tờ bản đồ số 66, diện tích
1.581,5m² nêu trên được chia thừa kế theo pháp luật cho bà Nguyễn Thị H, ông
Nguyễn Văn H1, bà Nguyễn Thị Á, ông Nguyễn Hoàng L, ông Nguyễn Văn Đ
(có vợ là bà Trần Thị M1 và 04 người con là bà Nguyễn Kim H2, ông Nguyễn
Thanh N1, ông Nguyễn Thanh S, bà Nguyễn Ngọc X) và ông Nguyễn Văn S1
(có vợ là bà Dương Thị L1 và 02 người con là bà Nguyễn Ngọc T, bà Nguyễn
Ngọc T1).
[2.4.3]. Quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên toà, bà H, bà Á, ông
L, vợ con ông Đ và vợ con ông S1 đều không có yêu cầu giải quyết phần công
sức chăm sóc, nuôi dưỡng cụ V, cụ C và công sức đóng góp, tu bổ vào di sản
thừa kế nên Hội đồng xét xử sơ thẩm không đặt ra xem xét vấn đề này cho
những người này. Ông H1 tuy không có yêu cầu cụ thể trong việc xem xét công
sức đóng góp vào việc quản lý, tôn tạo tài sản này nhưng các đương sự còn lại
đều xác định ông H1 có phần đóng góp này cũng như trong việc chăm sóc, nuôi
dưỡng cụ V, cụ C khi 02 cụ còn sống nên Hội đồng xét xử sơ thẩm áp dụng Án
lệ số 05/2016/AL được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua
ngày 06/4/2016 và được công bố theo Quyết định số 220/QĐ-CA ngày
06/4/2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao để cho ông H1 được hưởng
thêm 01 suất thừa kế theo luật, là đúng. Đồng thời, theo ý kiến của bà L1, bà T,
bà T1 tại các văn bản ngày 30/8/2023 thì bà L1 đồng ý nhường, còn bà T và bà
T1 từ chối nhận tài sản thừa kế mà ông Nguyễn Văn S1 được hưởng. Vì vậy,
Tòa án cấp sơ thẩm xác định di sản cụ V, cụ C để lại là thửa đất số 78, tờ bản đồ
số 66, diện tích 1.581,5m² trị giá 1.415.465.000 đồng được chia làm 06 phần,
mỗi phần trị giá 235.910.800 đồng (đã làm tròn) trong đó ông H1 được hưởng
02 phần; bà H, bà Á, ông L, ông Đ mỗi người hưởng 01 phần, riêng phần của
ông Đ thì vợ con ông Đ là bà Trần Thị M1, bà Nguyễn Kim H2, ông Nguyễn
Thanh N1, ông Nguyễn Thanh S, bà Nguyễn Ngọc X được hưởng, là đúng pháp
luật.
[2.4.4]. Các đồng thừa kế đều có nguyện vọng được nhận tài sản thừa kế
bằng hiện vật. Theo Phiếu xác nhận kết quả đo đạc ngày 20/12/2022 thì thửa đất
số 78, tờ bản đồ số 66, diện tích 1.581,5m² có cạnh hướng Đông giáp các thửa
đất số 75, 76, 77 và có số đo 46,04m; cạnh hướng Tây giáp các thửa đất số 79,
81 có số đo 51,1m; cạnh hướng Bắc giáp đường bê tông cặp Kênh ông Hai V1
có số đo 34,85m; còn cạnh hướng Nam có số đo 32,1m.
14
Theo Phiếu xác nhận ngày 20/12/2022 và Giấy chứng nhận số BV 280779
ngày 14/11/2019 thể hiện cạnh hướng Nam giáp đường đất nhưng tại phiên tòa,
các bên đương sự xác định đã được lót đan xi măng nên có thể lưu thông, đi lại
thuận tiện từ cả hướng này và hướng Bắc.
Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm căn cứ khoản 2 Điều 660 Bộ luật Dân sự năm
2015 để chia thừa kế bằng hiện vật làm 06 phần giáp với 02 hướng này để đảm
bảo quyền, lợi ích của tất cả các bên đương sự, là có cơ sở.
[2.4.5]. Ông H1, bà D kháng cáo cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm chia cho ông
bà 2 kỷ phần ở vị trí số 5 và số 6 là thuộc phần đất không có mặt tiền, không có
lối đi ra đường. Tuy nhiên, như đã phân tích tại mục [2.4.4] nêu trên và do nhà
chính, nhà sau và các công trình phụ trợ như mái che phía trước, mái che bên
hông, nhà vệ sinh của ông H1, bà D được xây dựng giáp với đường đất ở hướng
Nam và gần giáp với các thửa đất số 76, 77 ở hướng Đông nên Tòa án cấp sơ
thẩm giao cho ông H1 01 phần thừa kế là diện tích đất 397,0m
2
gắn liền với các
tài sản này (vị trí 6) và 01 phần thừa kế là diện tích đất 334,2m
2
liền kề, giáp với
đường đất ở hướng Nam (vị trí 5), bà Nguyễn Thị H; bà Nguyễn Thị Á, vợ, con
ông Đ là bà Trần Thị M1, bà Nguyễn Kim H2, ông Nguyễn Thanh N1, ông
Nguyễn Thanh S, bà Nguyễn Ngọc X; ông Nguyễn Hoàng L được nhận tài sản
thừa kế tương ứng từ vị trí 1 đến vị trí 4, là có căn cứ.
[2.4.6]. Sau khi trích phần công sức đóng góp cho ông Nguyễn Văn H1, thì
giá trị phần tài sản mà ông H1 được nhận nêu trên lớn hơn giá trị phần tài sản
thừa kế được chia theo pháp luật nên ông H1 có trách nhiệm thanh toán phần
chênh lệch cho các thừa kế còn lại như sau:
- Bà Nguyễn Thị H số tiền là 27.302.833 đồng.
- Bà Nguyễn Thị Á số tiền là 31.359.833 đồng.
- Bà Trần Thị M1, bà Nguyễn Kim H2, ông Nguyễn Thanh N1, ông
Nguyễn Thanh S, bà Nguyễn Ngọc X số tiền là 44.121.833 đồng.
- Ông Nguyễn Hoàng L số tiền là 56.825.833 đồng.
[2.4.7] Tại phiên toà sơ thẩm, bà H, bà Á, ông L và vợ, con ông Đ là bà
M1, bà H2, ông N1, ông S, bà X tự nguyện cùng thanh toán cho ông Nguyễn
Văn H1, bà Lưu Thị D toàn bộ giá trị của phần tài sản đã được ông H1, bà D
xây dựng, đầu tư trên đất với tổng số tiền là 50.457.933 đồng, gồm lối đi (đường
xi măng) trị giá 1.206.000 đồng, máy bơm nước trị giá 2.270.333 đồng, tường
rào trị giá 13.571.600 đồng, cây trồng trị giá 33.410.000 đồng nên Hội đồng xét
xử sơ thẩm ghi nhận. Bà H, bà Á, ông L và vợ, con ông Đ là bà M1, bà H2, ông
N1, ông S, bà X được quyền sở hữu các tài sản này và có trách nhiệm tháo dỡ,
phá bỏ hoặc di dời các phần thuộc tài sản này ra ngoài phần đất mà ông H1 được
hưởng thừa kế (vị trí 5, vị trí 6).
[3]. Đối với kháng cáo yêu cầu được thanh toán 417.620.000 đồng tiền cát
lấp nền của ông H1, bà D: Quá trình giải quyết vụ án tại cấp sơ thẩm, ông H1,
bà D không cung cấp được tài liệu, chứng cứ nào chứng minh cho yêu cầu này,
15
nên Tòa án cấp sơ thẩm không có cơ sở xem xét, giải quyết, là đúng. Ông H1, bà
D cũng không cung cấp được chứng cứ nào mới chứng minh cho yêu cầu kháng
cáo của mình, nên yêu cầu kháng cáo này không có căn cứ chấp nhận.
[4]. Do các phần đất thừa kế nêu trên ông H1, bà D cùng các con, cháu là
ông Nguyễn Văn T2, bà Nguyễn Thị Tuyết N2, cháu Nguyễn Thị Thu N3, bà
Nguyễn Thị Ngọc Q đang quản lý, sử dụng; để đảm bảo cho việc thi hành án,
cần buộc các đương sự này có trách nhiệm giao cho cơ quan thi hành án có thẩm
quyền để thi hành trong trường hợp người được thừa kế có yêu cầu.
[5]. Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy Tòa án
cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị H, yêu
cầu độc lập của Trần Thị M1, bà Nguyễn Kim H2, ông Nguyễn Thanh N1, ông
Nguyễn Thanh S và bà Nguyễn Ngọc X, là đúng quy định của pháp luật. Bị đơn
ông H1, bà D kháng cáo nhưng không cung cấp được tài liệu, chứng cứ gì mới
làm căn cứ sửa bản án sơ thẩm theo hướng không chấp nhận yêu cầu khởi kiện,
yêu cầu độc lập của các đương sự nêu trên. Do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm
không chấp nhận kháng cáo của các bị đơn; cần giữ nguyên bản án dân sự sơ
thẩm nêu trên.
[6]. Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ
Chí Minh tại phiên tòa, được chấp nhận.
[7]. Về án phí dân sự phúc thẩm: Ông Nguyễn Văn H1 và bà Lưu Thị D
phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
[8]. Các quyết định khác của bản án dân sự sơ thẩm không bị kháng cáo,
kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn
kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 148; Điều 270; Điều 293; khoản 1 Điều 308; Điều
313 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016
của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Khóa XIV quy định về mức thu, miễn, giảm,
thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn ông Nguyễn Văn H1 và bà Lưu
Thị D.
2. Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 20/2024/DS-ST ngày 03-4-2024
của Tòa án nhân tỉnh Sóc Trăng, về vụ án “Tranh chấp về thừa kế tài sản và yêu
cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”, giữa nguyên đơn bà Nguyễn Thị
H với bị đơn ông Nguyễn Văn H1, bà Lưu Thị D và những người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan khác.
16
3. Về án phí dân sự phúc thẩm: Buộc ông Nguyễn Văn H1 và bà Lưu Thị D
mỗi người phải chịu 300.000 đồng.
Khấu trừ số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng ông Nguyên Văn H4 đã nộp
theo biên lai số 0002904 ngày 08/5/2024; Ông Nguyễn Văn H1 đã nộp đủ án phí
dân sự phúc thẩm.
Khấu trừ số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng bà Lưu Thị D đã nộp theo
biên lai số 0002907 ngày 08/5/2024 thành án phí; Bà Lưu Thị D đã nộp đủ án
phí dân sự phúc thẩm.
4. Các quyết định khác của bản án dân sự sơ thẩm không bị kháng cáo,
kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn
kháng cáo, kháng nghị.
5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- Tòa án nhân dân tối cao;
- VKSNDCC tại TP.HCM;
- TAND tỉnh Sóc Trăng;
- Cục THADS tỉnh Sóc Trăng;
- Các đương sự;
- Lưu: HS, VP (TVN).
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Thị Thúy Hòa
Tải về
Bản án số 934/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 934/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 31/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 24/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 24/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 16/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 06/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 28/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 18/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 07/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 07/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Bản án số 610/2024/DS-PT ngày 30/09/2024 của TAND TP. Hà Nội về tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 28/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 27/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 27/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 27/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm