Bản án số 02/2025/HC-PT ngày 02/01/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 02/2025/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 02/2025/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 02/2025/HC-PT
Tên Bản án: | Bản án số 02/2025/HC-PT ngày 02/01/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND cấp cao tại TP.HCM |
Số hiệu: | 02/2025/HC-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 02/01/2025 |
Lĩnh vực: | Hành chính |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: | Bác kháng cáo của người khởi kiện ông Nguyễn L |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Bản án số: 02/2025/HC-PT
Ngày 02 tháng 01 năm 2025
V/v: “Khiếu kiện quyết định hành chính
trong lĩnh vực xây dựng”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Trần Thị Hòa Hiệp
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Văn Minh
Ông Vương Minh Tâm
- Thư ký phiên toà: Bà Nguyễn Thị Châu Loan - Thư ký Toà án nhân dân
cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
tham gia phiên toà: Ông Nguyễn Văn Phượng - Kiểm sát viên cao cấp.
Ngày 02 tháng 01 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành
phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính phúc thẩm thụ
lý số: 781/2024/TLPT-HC ngày 04 tháng 10 năm 2024 về “Khiếu kiện quyết
định hành chính trong lĩnh vực xây dựng”.
Do Bản án hành chính sơ thẩm số: 286/2024/HC-ST ngày 17 tháng 7 năm
2024 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 3583/2024/QĐ-PT
ngày 23 tháng 12 năm 2024 giữa các đương sự:
- Ngưi khi kiện: Ông Nguyễn L, sinh năm 1946 (có mặt);
Địa chỉ: Số A B, phường P, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh;
Ngưi đại diện theo ủy quyền: Ông Huỳnh Phi L1, sinh năm 1977 (có mặt);
Địa chỉ: Số F N, Phường G, Quận E, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Ngưi bị kiện: Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận A, Thành phố Hồ Chí
Minh (vắng mặt);
2
Ngưi đại diện theo ủy quyền: Ông Vũ Nguyễn Quang V – Chức vụ: Phó
Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận A (vắng mặt);
Ngưi bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp: Ông Nguyễn Phước T – Chức vụ:
Phó Trưởng phòng Phòng Quản lí đô thị Quận A (có mặt);
Cùng địa chỉ: Số D - D L, phường B, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Ngưi có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Võ Ngọc T1, sinh năm 1956
(vắng mặt);
Địa chỉ: Số B T, phường B, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Ngưi kháng cáo: Người khởi kiện là ông Nguyễn L.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo Bản án sơ thẩm, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Theo đơn khi kiện của ông Nguyễn L và quá trình tố tụng, ngưi đại diện
theo ủy quyền của ông Nguyễn L là ông Huỳnh Phi L1 trình bày:
Nguồn gốc quyền sở hữu công trình tại số C (phía sau) và số C T, phường
N, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh do ông Nguyễn L làm chủ sở hữu.
Hiện trạng xây dựng công trình trên thửa đất này ông L được cấp phép xây
dựng từ Văn phòng kiến trúc sư Trưởng năm 1994. Do tình trạng tài chính nên
công trình thi công kéo dài đến năm 2001 thì công trình mới hoàn thành và đã
được nghiệm thu và đưa vào sử dụng theo biên kiểm tra công trình hoàn thành
ngày 31/08/2001. Đến năm 2003, vì nhu cầu sử dụng nên ông L có sửa chữa và
làm thêm diện tích ở các vị trí nhằm mục đích sử dụng phù hợp với công năng
của tòa nhà, không lấn chiếm, không vi phạm chỉ giới xây dựng, không tranh
chấp.
Cụ thể ông L đã xây dựng các hạng mục như sau (kèm bản vẽ ngày
06/08/2022:
- Xây tăng diện tích sử dụng tại tầng lửng [(8,22m x 9,5m) + (4,55m x
2,93m)] 8,8m x 7m) = 29,82m²;
- Xây tăng diện tích sử dụng tại lầu 6: diện tích (10,9m x 4,1m) + (6,2m x
8,22m) = 95,65m²;
- Xây tăng diện tích sử dụng tại lầu 7, cụ thể: Lắp dựng khung sắt vách
kính, vách tường cao 1,2m mái tôn, diện tích (5,9m x 8,22m) = 48,498m²; lắp
dựng mái tôn vách tường cao 1,2m, diện tích (5,9m x 5,8m)/2 x 8,22m =
48,087m²; Mục đích che nắng mưa cho sàn tầng sân thượng và không sử dụng
phần diện tích này.
3
Các hạng mục sửa chữa xây dựng thêm này Ủy ban nhân dân (sau đây viết
tắt là UBND) Quận A có Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số: 736/QĐ-
XPHC ngày 30/07/2014 của A, Thành phố Hồ Chí Minh. Lý do ông L xây dựng
không xin phép cơ quan chức năng mà theo quy định phải xin phép.
Ngày 26/05/2022, Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận A, Thành phố Hồ Chí
Minh ban hành Quyết định số 188/QĐ-KPHQ, buộc thực hiện khắc phục hậu
quả do vi phạm hành chính gây ra đối với chủ đầu tư công trình số 302 (phía
sau) và C T, phường N, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh. Theo quyết định là
buộc ông Nguyễn L phải tháo dỡ phần diện tích xây dựng không giấy phép và
tháo dỡ các hạng mục nêu trên. Căn cứ mà Ủy ban nhân dân Quận A ra quyết
định là điểm a, khoản 7, Điều 16, Nghị định số 16/2022/NĐ-CP ngày
28/01/2022 của Chính phủ.
Tại Nghị định số 16/2022/NĐ-CP ngày 28/01/2022 của Chính phủ mà Ủy
ban nhân dân Quận A áp dụng buộc ông L phải thi hành là không thuyết phục và
chưa đủ căn cứ nên ông L làm đơn khởi kiện và yêu cầu Tòa án nhân Thành phố
Hồ Chí Minh hủy Quyết định số 188/QĐ-KPHQ ngày 26/5/2022 của Chủ tịch
Ủy ban nhân dân Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh.
Ngưi bị kiện là Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận A có văn bản ý kiến đối
với yêu cầu của ngưi khi kiện như sau:
1. Pháp lý sử dụng
Căn nhà 302 (phía sau) đường T, phường N, Quận A do ông Nguyễn Hữu
Đ sử dụng theo Quyết định số 265/QĐ-UB ngày 05/6/1993 của Ủy ban nhân dân
Quận A về việc kiểm kê quản lý và hợp thức hóa sử dụng.
Ngày 28/7/1993, ông Nguyễn Hữu Đ ký hợp đồng thuê nhà với Xí nghiệp
Q (nay là Công ty TNHH Một thành viên D) Hợp đồng số 8447.
Ngày 08/3/2006, ông Đ ký lại hợp đồng thuê nhà thời hạn 60 tháng với
Công ty Q1 (nay là Công ty TNHH Một thành viên D) Hợp đồng số 9523.
Ngày 02/11/2012, Ủy ban nhân dân Quận A có Công văn số 2889/UBND-
QLĐT gửi Ủy ban nhân dân Thành phố về việc xử lý trường hợp căn nhà số C
(phía sau) đường T, phường N, Quận A.
Ngày 12/12/2013, Công ty TNHH Một thành viên D có biên bản làm việc
với bà Nguyễn Thị Mỹ H (là con ông Nguyễn Hữu Đ). Bà H cho biết căn nhà
302 sau Trần Hưng Đ1 ông Đ đã bán cho ông Nguyễn L từ năm 1993.
2. Việc hợp khối 02 căn nhà 302 (phía sau) Trần Hưng Đ1 và C T (bao
gồm cả lối đi hẻm công cộng) và quá trình cấp phép xây dựng, kiểm tra xử lý
việc xây dựng trái phép của ông Nguyễn Long
4
Ngày 02/11/2012, Ủy ban nhân dân Quận A có Văn bản số 2889/UBND-
QLĐT về việc xử lý trường hợp căn nhà số C (phía sau) đường T, phường N,
Quận A gửi Ủy ban nhân dân thành phố H có nội dung:
“Ngày 04/08/1993, ông Nguyễn L chủ sở hữu nhà số C đường T, Quận A
và ông Nguyễn Hữu Đ người ký hợp đồng thuê sử dụng nhà 302 (phía sau)
đường T, Quận A, bằng biên bản thỏa thuận cùng đứng tên xin hợp khối xây
dựng mới và thỏa thuận với Công ty I bằng văn bản chia lối đi giữa 02 nhà (0,70
m x 15m) mỗi bên một nửa (0,35 m x 15 m) để xây dựng hợp khối sử dụng
riêng.
Ngày 14/9/1993, Phòng Q2 có Bản báo cáo thực địa và nhận xét về hồ sơ
xin phép xây dựng nhà ở số 1328/QHXD đề nghị thuận cho xây dựng 1 trệt, 6
lầu có tầng hầm, mái tôn với Tổng diện tích 1.590,57 m
2
(hợp khối giữa 02 nhà
304 T là nhà tư nhân và 302 (phía sau) đường T là nhà do Nhà nước quản lý).
Ngày 15/04/1994, Văn phòng K cấp phép xây dựng số: 268/GPXD cho
phép xây dựng mới và hợp khối 02 nhà với cấu trúc 03 tầng, do xây dựng sai
thiết kế nên Ủy ban nhân dân quận A đã có Quyết định xử phạt hành chính số:
1472/QĐ- UB ngày 07/12/1994 phạt ông L và ông Đ xây dựng nhà sai phép.
Ngày 16/11/1994, Đội cảnh sát trật tự Q3 lập biên bản vi phạm xây dựng
đối với ông Nguyễn L tại địa chỉ số C đường T, phường N, Quận A trong đó nội
dung vi phạm: xây dư diện tích lầu 3, xây thêm lầu 4 và lầu 5.
Ngày 07/12/1994, Ủy ban nhân dân Quận A ban hành Quyết định số
1472/QĐ-UB về việc xử lý vi phạm hành chính về xây dựng đối với hành vi vi
phạm xây dựng sai Giấy phép số 268/GPXD ngày 15/04/1994 do Văn phòng
Kiến trúc sư trưởng thành phố cấp cho ông Nguyễn L.
Phần diện tích vi phạm đã được công nhận tại Biên bản kiểm tra công trình
hoàn thành số 398/BBHC ngày 31/8/2001 của Sở Xây dựng thành phố với công
trình xây dựng có quy mô trệt + lửng + sân thượng”.
3. Việc tự thỏa thuận sang nhượng nhà thuộc s hữu Nhà nước đối với
căn nhà số C (phía sau) đưng T, phưng N, Quận A
Ngày 20/4/1992, ông Nguyễn Hữu Đ và bà Nguyễn Thị G (vợ ông Đ) có
bản cam kết sang nhượng nhà số C (phía sau) đường T, phường N, Quận A cho
ông Nguyễn L, có xác nhận chữ ký của Ủy ban nhân dân phường B ngày
28/4/1992 và của Ủy ban nhân dân phường N ngày 17/6/1992. Có nội dung:
“1/ Ông Nguyễn L đồng ý cho ông Nguyễn Hữu Đ và vợ là bà Nguyễn Thị
G mượn trước 04 (bốn) lượng vàng 24K có tuổi 96 (chín tuổi sáu) và sau khi hóa
giá nhà phía sau xong có chủ quyền ông Đ và bà G đồng ý bán cho ông L 30 (ba
5
mươi) lượng vàng 24K có tuổi 96. Chứng từ mỗi đợt giao nhận vàng là giấy biên
nhận viết tay có chữ ký của hai bên được xem là hợp lệ.
2/ Ông L cho ông Đ và bà G mượn vàng để hóa giá nhà nhưng trong quá
trình thực hiện ông L đổi ý thì số vàng cho mượn trước xem như mất và ngược
lại trong lúc tiến hành hóa giá nhà và sau đó có chủ quyền nhà nếu ông Đ và bà
G thay đổi ý kiến với bất cứ lý do gì thì phải bồi thường thiệt hại gấp hai lần số
vàng mà ông L đã cho ông Đ và bà G mượn trước. Nếu ông Đ và bà G thay đổi
ý kiến mà không có tiền bồi thường thiệt hại cũng như thay đổi ý kiến không ký
các giấy tờ cần thiết thì những chữ ký ký trong tờ cam kết này vẫn có giá trị hóa
giá nhà, cũng như sang tên nhà.
3/ Nếu hóa giá nhà xong có chủ quyền nhưng Nhà nước chưa cho phép
mua bán hoặc chưa hóa giá nhà thì ông Đ và bà G vẫn đồng ý cho ông L xây
dựng trên phần nhà mình sử dụng. Bản cam kết này có giá trị trong vòng 02
tháng kể từ ngày ký, nếu có trục trặc về thủ tục hành chánh về hóa giá cũng như
trong thời gian 02 tháng ông Đ và bà G có yêu cầu nhận hết số vàng theo cam
kết thì trước khi nhận vàng ông Đ và bà G có trách nhiệm giao nhà trống cho
ông L tạm quản lý để làm thủ tục hành chánh”.
Ngày 02/8/1993, ông Nguyễn L, ông Nguyễn Hữu Đ và bà Nguyễn Thị G
có bản cam kết về việc xây dựng nhà số C (phía sau) đường T, phường N, Quận
A, có xác nhận của Ủy ban nhân dân phường B ngày 03/8/1993:
“Điều 1. Ông Nguyễn Hữu Đ và vợ là bà Nguyễn Thị G đồng ý để cho ông
Nguyễn L làm tất cả các thủ tục hành chính và xây dựng 2 nhà theo Giấy phép
xây dựng và đôi bên đã đồng ý không khiếu nại, tranh chấp vấn đề này từ hiện
tại cũng như sau này.
Điều 2. Vợ chồng ông Nguyễn Hữu Đ đã già yếu, do đó đồng ý sau này
Nhà nước hóa giá nhà này thì ông Nguyễn L sẽ thay mặt làm tất cả các thủ tục
cần thiết và các vấn đề liên quan.
Điều 3. Hai bên cam kết thực hiện nghiêm chỉnh những gì đã thỏa thuận
trong cam kết này. Trong quá trình thực hiện nếu có trở ngại khách quan thì
cùng nhau bàn bạc, giải quyết trên tinh thần thông cảm và bảo vệ quyền lợi của
2 bên”.
Ngày 24/7/2007, ông Nguyễn Hữu Đ có Giấy ủy quyền số 021874 lập tại
Phòng C, ủy quyền cho ông Nguyễn L: “Ông Nguyễn L được quyền thay mặt và
nhân danh tôi liên hệ Công ty Q1 nộp tiền mua nhà, đóng thuế trước bạ và nhận
Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở. Trong phạm vi ủy quyền, ông Nguyễn L
được quyền lập, ký tên trên các giấy tờ liên quan, thực hiện các quyền, nghĩa vụ
pháp luật quy định có liên quan đến các hành vi được ủy quyền nêu trên”.
6
Ngày 17/8/2012, ông Nguyễn L có đơn gửi Ủy ban nhân dân Quận A:
“…Sở Xây dựng đã mời ông Nguyễn L đến và đề nghị bán nhà số C đường T,
phường N, Quận A nhưng ông Nguyễn L không chịu mua với lý do đã có nhà,
không ký Hợp đồng thuê với Công ty Q1 và mua căn nhà trên sẽ cướp đi cuộc
sống của gia đình ông Đ hiện nay 80 tuổi chỉ có một căn nhà duy nhất để ở. Do
đó, ông Nguyễn L đã đề nghị bán nhà này cho ông Nguyễn Hữu Đ”.
4. Hiện trạng sử dụng của căn nhà trên:
Ngày 24/11/2014, Ủy ban nhân dân phường N có văn bản số 445/UBND
trả lời xác minh nhà số C (phía sau) đường T, phường N, Quận A:
“Qua trao đổi và làm việc với ông Nguyễn Hữu Đ là tổ trưởng tổ dân phố B
khu phố A cho biết:
- Căn nhà số C (phía sau) đường T do ông Nguyễn Hữu Đ sử dụng từ trước
năm 1975. Sau giải phóng, căn nhà trên do Nhà nước tiếp quản, riêng ông Đ chỉ
sử dụng một phần nhà phía sau của căn nhà số C đường T.
- Hiện trạng sử dụng căn nhà trên do ông Nguyễn L sử dụng”.
Ngày 26/01/2021, Ủy ban nhân dân phường N phối hợp Đội Thanh tra địa
bàn Quận A tiến hành kiểm tra thực tế hiện trạng căn nhà số C (phía sau) đường
T, phường N, Quận A ghi nhận căn nhà hiện có quy mô trệt, lửng, 6 lầu, ban
công từ lầu 1 đến lầu 5. (Đính kèm biên bản)
Ngày 16/02/2021, Phòng Quản lý đô thị có Công văn số 77/QLĐT-QHXD
về việc xây dựng sai phép hợp khối của 02 căn nhà mang số 302 (phía sau) và
304 đường T, phường N, Quận A gửi ông Nguyễn L.
Ngày 24/3/2021, Ủy ban nhân dân Quận A có Công văn số 719/UBND-
QLĐT về việc căn nhà số C (phía sau) đường T, phường N, Quận A báo cáo Ủy
ban nhân dân Thành phố.
Ngày 26/5/2022, Ủy ban nhân dân Quận A ban hành Quyết định số
188/QĐ-KPHQ buộc thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả.
Ngưi có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Võ Thị T2 trình bày: Đề nghị
Tòa xem xét chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn L.
Tại Bản án hành chính sơ thẩm số: 286/2024/HC-ST ngày 17 tháng 7 năm
2024 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh quyết định:
Căn cứ khoản 1 Điều 30; khoản 4 Điều 32; Điều 60 khoản 1, điểm a khoản
2 Điều 116; khoản 1 Điều 158; Điều 193, Điều 206 của Luật Tố tụng hành chính
năm 2015;
Căn cứ Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012;
7
Căn cứ Nghị định số 16/2022/NĐ-CP ngày 28/01/2022 của Chính phủ quy
định xử phạt vi phạm hành chính về xây dựng;
Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016
của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp,
quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn L, yêu cầu: Hủy Quyết định
số 188/QĐ-KPHQ ngày 26/05/2022 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận A,
Thành phố Hồ Chí Minh.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí và thông báo quyền
kháng cáo theo quy định pháp luật.
Ngày 24/7/2024, người khởi kiện là ông Nguyễn L kháng cáo đề nghị sửa
bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông.
Tại phiên tòa phúc thẩm,
Ngưi khi kiện là ông Nguyễn L và ngưi đại diện theo ủy quyền của
ngưi khi kiện là ông Huỳnh Phi L1 thống nhất trình bày:
A áp dụng sai văn bản quy phạm pháp luật, cụ thể là điểm a Điều 17 Nghị
định số 16/2022/NĐ-CP ngày 28/01/2022 của Chính phủ quy định về xử phạt vi
phạm hành chính về xây dựng. Theo đó, A đã buộc ông Nguyễn L tháo dỡ công
trình xây dựng, tuy nhiên Nghị định này không có điều khoản nào quy định về
trường hợp buộc phải tháo dỡ đối với công trình xây dựng trái phép.
Đối chiếu Quyết định số 3140/QĐ-UBND ngày 25/7/2019 của UBND
Thành phố H, Đồ án quy hoạch phân khu tỷ lệ 1/2000 khu dân cư phường N,
Quận A với bản nghiệm thu hoàn thành công trình năm 2001 thì công trình xây
dựng của ông không vượt quá 22 tầng, không vượt quá diện tích cho phép là
75m, mật độ xây dựng đạt 100% (lớn hơn 75% theo quy định); hệ số sử dụng
đất là 7.61 (chỉ chênh hơn 0.01 so với quy định là 7.6); tổng diện tích xây dựng
là 1.522,6m
2
(chỉ chênh 2,6m
2
so với quy định là 1.520m
2
); mục đích sử dụng
đất phù hợp. Do đó, việc Toà án cấp sơ thẩm căn cứ khoản 1 Điều 83 Nghị định
số 16/2022/NĐ-CP ngày 28/01/2022 của Chính phủ để đưa ra phán quyết là
không phù hợp vì công trình xây dựng của ông đã được thi công và hoàn thành
việc nghiệm thu vào năm 2001. Trong toàn bộ quá trình từ năm 2001 đến năm
2021, ông không bị lập bất cứ biên bản xử phạt nào đối với việc xây dựng công
trình nêu trên, nhưng đến ngày 26/5/2022, Chủ tịch A ban hành Quyết định số
188/QĐ-KPHQ buộc ông L tháo dỡ công trình.
Ngoài ra, đường T có lộ giới 40m thuộc trung tâm Thành phố H nên hệ số
sẽ được cộng thêm tương ứng là 0.75 và 0.92, tổng hệ số sử dụng đất đối với
8
khu nhà ở riêng lẻ là 7.8. Trong khi đó, hệ số sử dụng đất của ông chỉ có 7.61,
không phải 8.12 như người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của A trình bày. Ông
đã sống ổn định tại đây và không có tranh chấp với các hộ gia đình xung quanh.
Năm 1994, cơ quan Nhà nước chỉ cho phép xây dựng công trình có chiều
cao tầng tối đa là 3 tầng và thời điểm này ông L đã xây dựng vượt thêm 2 tầng.
Đến năm 2001, các cơ quan có thẩm quyền đã tiến hành kiểm tra và hợp thức
hoá 5 tầng cho ông L bằng biên bản nghiệm thu công trình, điều này thể hiện
việc cơ quan Nhà nước đã công nhận công trình của ông L là hợp pháp. Năm
2014, ông L cơi nới thêm 9m
2
diện tích tầng lửng, xây dựng thêm các tầng 6,7
(có che mái tôn). Đến năm 2022, UBND phường N phát hiện và lập biên bản về
việc vi phạm xây dựng diện tích tầng lửng tăng thêm. Sau này ông L mới tiếp
tục xây dựng tăng thêm phần diện tích tại tầng 6, tầng 7 và hộ gia đình ông L đã
sinh sống ổn định tại đây. Như vậy, hành vi vi phạm hành chính đã kết thúc nên
việc Toà án cấp sơ thẩm căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 83 Nghị định số
16/2022/NĐ-CP ngày 28/01/2022 của Chính phủ là không phù hợp và đề xuất A
nên cân nhắc xử phạt ông L theo hình thức phạt tiền.
Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của người khởi kiện,
sửa bản án sơ thẩm.
Ngưi bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của Chủ tịch A là ông Nguyễn Phước
T trình bày:
Năm 1994, A đã phát hiện việc ông Nguyễn L xây dựng công trình có diện
tích và số tầng vượt quá quy định cho phép. Thời điểm đó cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền đã xử lý vi phạm và Sở Xây dựng đã cập nhật phần vi phạm vào
biên bản hoàn công của ông Nguyễn L. Theo Đồ án quy hoạch phân khu tỷ lệ
1/2000 khu dân cư phường N, Quận A tại Quyết định số 3140/QĐ-UBND ngày
25/7/2019, quy định đối với chiều cao tầng của toàn bộ khu dân cư phường
Nguyễn Cư T3 là không vượt quá 22 tầng.
Năm 2022, A đã lập biên bản kiểm tra về việc vi phạm xây dựng công trình
của ông Nguyễn L. Hệ số sử dụng đất như ông L trình bày là hệ số ưu đãi chỉ
dành cho dự án, không phải cho nhà ở riêng lẻ. A có xem xét về trường hợp của
ông L đề nghị được đóng lợi tức bằng 40% giá trị phần xây dựng trái phép, tuy
nhiên cần phải phù hợp với Quy chế quản lý kiến trúc Thành phố H được ban
hành kèm theo Quyết định số 56/2021/QĐ-UBND ngày 28/12/2021 và Đồ án
quy hoạch phân khu tỷ lệ 1/2000 khu dân cư phường N, Quận A. Công trình xây
dựng của ông L thuộc khu vực nhà ở riêng lẻ thì hệ số được xác định theo quy
hoạch phân khu là 5; trong khi biên bản hoàn công năm 2001 của ông L thì xác
định hệ số sử dụng đất của ông L là 6.94. Sau này ông L xây dựng thêm các tầng
9
nên hệ số đã tăng lên đến 8.12. Như vậy công trình xây dựng của ông L không
phù hợp với quy hoạch nên buộc phải tháo dỡ công trình.
Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của ông
Nguyễn L, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ
Chí Minh tham gia phiên toà:
Về tố tụng: Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng các quy định của Luật Tố
tụng hành chính về phiên tòa phúc thẩm. Những người tham gia tố tụng đã thực
hiện đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định.
Về nội dung: Xét thấy, ông Nguyễn L xây dựng nhà ở không được cấp giấy
phép, đã bị lập biên bản xử phạt vi phạm hành chính. Do đã hết thời hiệu xử
phạt nên việc A buộc ông L phải tháo dỡ công trình xây dựng vi phạm là đúng
quy định pháp luật. Tại phiên toà, ông L không cung cấp được tài liệu, chứng cứ
mới nào mới. Do đó, căn cứ khoản 1 Điều 241 Luật Tố tụng hành chính, đại
diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của ông
Nguyễn L, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Hội đồng xét xử căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên
tòa, kết quả tranh tụng công khai tại phiên tòa, có đủ cơ sở để kết luận: Toàn bộ
diễn biến vụ án như phần tóm tắt nội dung đã được viện dẫn ở trên. Xét kháng
cáo của người khởi kiện ông Nguyễn L, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các
tài liệu, chứng cứ, ý kiến của đương sự, người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, ý
kiến của Kiểm sát viên như sau:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Người bị kiện Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận A, Thành phố Hồ Chí
Minh có đơn xin xét xử vắng mặt. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà
Võ Ngọc T1 vắng mặt nhưng đương sự, người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của đương sự và đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí
Minh đều thống nhất xét xử vắng mặt bà T1. Theo quy định tại khoản 4 Điều
225 Luật Tố tụng hành chính 2015, Tòa án tiến hành phiên tòa vắng mặt người
tham gia tố tụng nêu trên.
[1.2] Về đối tượng khởi kiện, thời hiệu khởi kiện và thẩm quyền giải quyết:
Quyết định buộc khắc phục hậu quả số 188/QĐ-KPHQ ngày 26/5/2022 của
Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh đối với ông
Nguyễn L là quyết định hành chính thuộc đối tượng khởi kiện của vụ án hành
10
chính tại Tòa án theo quy định tại khoản 1 Điều 30 Luật Tố tụng hành chính
năm 2015.
Ngày 18/5/2023, ông Nguyễn L khởi kiện yêu cầu hủy Quyết định buộc
khắc phục hậu quả số 188/QĐ-KPHQ ngày 26/5/2022 nêu trên, là còn thời hiệu
và thuộc thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm của Tòa án nhân dân Thành
phố Hồ Chí Minh theo quy định tại khoản 4 Điều 32; điểm a khoản 2 Điều 116
Luật Tố tụng hành chính.
[2] Về nội dung: Xét tính hợp pháp của Quyết định buộc khắc phục hậu
quả số 188/QĐ-KPHQ ngày 26/5/2022
[2.1] Về trình tự, thủ tục, thẩm quyền ban hành:
Ngày 04/08/1993, ông Nguyễn L là chủ sở hữu nhà số C đường T, Quận A
và ông Nguyễn Hữu Đ là người ký hợp đồng thuê sử dụng nhà 302 (phía sau)
đường T, Quận A thỏa thuận cùng đứng tên xin hợp khối xây dựng mới và thỏa
thuận với Công ty I chia lối đi giữa 02 nhà (0,70 m x 15m) mỗi bên một nửa
(0,35 m x 15 m) để xây dựng hợp khối sử dụng riêng.
Ngày 15/4/1994, Văn phòng Kiến trúc sư trưởng Thành phố K cấp Giấy
phép xây dựng số 268/GPXD cho phép xây dựng mới và hợp khối 02 nhà số C
đường T, phường N, Quận A với cấu trúc 03 tầng. Ngày 16/11/1994, Đội Cảnh
sát trật tự Q3 lập Biên bản vi phạm xây dựng đối với ông Nguyễn L; nội dung vi
phạm: Xây dư diện tích lầu 3, xây thêm diện tích lầu 4 và lầu 5. Ngày
07/12/1994, Ủy ban nhân dân Quận A đã ra Quyết định số 1472/QĐ-UB xử phạt
vi phạm hành chính đối với ông Nguyễn L.
Ngày 31/8/2001, Sở Xây dựng Thành phố H lập Biên bản kiểm tra công
trình hoàn thành số 398/BBHC tại nhà số C T, phường N, Quận A với quy mô
trệt, lửng, 05 lầu, sân thượng, bao lơn; tổng diện tích sàn xây dựng được công
nhận phù hợp quy hoạch là: 1.296,47m
2
.
Ngày 30/7/2014, Ủy ban nhân dân Quận A ban hành Quyết định xử phạt vi
phạm hành chính số 736/QĐ-XPHC xử phạt ông Nguyễn L đối với hành vi tổ
chức thi công xây dựng công trình nhà ở riêng lẻ đô thị không có Giấy phép xây
dựng mà theo quy định phải có Giấy phép xây dựng tại địa chỉ số C (phía sau)
và 304 đường T, phường N, Quận A.
Theo Biên bản vi phạm hành chính do Ủy ban nhân dân phường N, Quận
A, Thành phố Hồ Chí Minh lập ngày 19/5/2022 có sự chứng kiến của ông
Nguyễn L ghi nhận công trình xây dựng của ông L không có giấy phép xây
dựng, cụ thể:
11
- Xây tăng diện tích sử dụng tại tầng lửng với diện tích: [(8,22m x 9,5m)+
(4,55m x 2,93m)] – (8,8m x 7m) = 29,82m².
- Xây tăng diện tích sử dụng tại lầu 6 với diện tích: (10,9m x 4,1m) + (6,2m
x 8,22m) = 95,65m²;
- Xây tăng diện tích sử dụng tại lầu 7, cụ thể: Lắp dựng khung sắt vách
kính, vách tường cao 1,2m mái tôn, diện tích (5,9m x 8,22m) = 48,498m²; lắp
dựng mái tôn vách tường cao 1,2m, diện tích: (5,9m x 5,8m)/2 x 8,22m =
48,087m².
Theo Biên bản xác minh tình tiết vụ việc vi phạm hành chính do Ủy ban
nhân dân phường N, Quận A lập ngày 18/5/2022, ghi nhận ý kiến của Tổ dân
phố thì thời điểm ông L xây dựng phần diện tích lầu 6 và lầu 7 là vào năm 2006;
phần diện tích phát sinh thêm tại tầng lửng là vào năm 2014.
Do thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính đã hết nên Chủ tịch Ủy ban nhân
dân Quận A không ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính mà ban
hành Quyết định buộc thực hiện khắc phục hậu quả số 188/QĐ-KPHQ ngày
26/5/2022 buộc ông Nguyễn L phải tháo dỡ phần diện tích xây dựng không giấy
phép và tháo dỡ các hạng mục vi phạm theo Biên bản vi phạm hành chính ngày
19/5/2022 là đúng trình tự, thủ tục, thời hạn và thẩm quyền theo quy định tại
Điều 28, Điều 38, khoản 2 Điều 65, Điều 85 Luật Xử lý vi phạm hành chính;
phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 5; điểm a khoản 7 Điều 16 Nghị định số
16/2022/NĐ-CP ngày 28/01/2022 của Chính phủ.
[2.2] Về nội dung:
Đối với các phần diện tích mà ông Nguyễn L xây dựng vào năm 1994 (xây
dư diện tích lầu 3, xây thêm diện tích lầu 4 và lầu 5) vi phạm Giấy phép xây
dựng đã được cấp số 268/GPXD ngày 15/4/1994 nhưng được xác định là phù
hợp với quy hoạch (tổng diện tích sàn 1.296,47m
2
) nên đã được xem xét cho tiếp
tục tồn tại.
Đối với các phần diện tích xây dựng không giấy phép vi phạm theo Biên
bản vi phạm hành chính lập ngày 19/5/2022 (xây tăng diện tích sử dụng tại tầng
lửng 29,82m²; xây tăng diện tích sử dụng tại lầu 6 với diện tích: 95,65m²; xây
tăng diện tích sử dụng tại lầu 7 với diện tích 48,498m²; lắp dựng mái tôn vách
tường cao 1,2m, diện tích 48,087m²), ông Nguyễn L cho rằng đã sửa chữa và tồn
tại từ năm 2003 đến năm 2014 nhằm mục đích sử dụng, phù hợp với công năng
của tòa nhà, không lấn chiếm, không vi phạm chỉ giới xây dựng, không tranh
chấp nên đề nghị được giữ nguyên các phần diện tích này.
12
Tuy nhiên, căn cứ quy chế quản lý kiến trúc Thành phố H được ban hành
kèm theo Quyết định số 56/2021/QĐ-UBND ngày 28/12/2021 và Đồ án quy
hoạch phân khu tỷ lệ 1/2000 khu dân cư phường N, Quận A được phê duyệt tại
Quyết định số 3140/QĐ-UBND ngày 25/7/2019 của Ủy ban nhân dân Thành
phố H thì các phần diện tích của căn nhà số C đường T, phường N, Quận A do
ông Nguyễn L xây dựng vi phạm theo Biên bản vi phạm hành chính lập ngày
19/5/2022 được xác định không phù hợp quy hoạch xây dựng nên không đủ điều
kiện để tồn tại.
Do đó, ông Nguyễn L khởi kiện yêu cầu hủy Quyết định buộc thực hiện
khắc phục hậu quả số 188/QĐ-KPHQ ngày 26/5/2022 của Chủ tịch Ủy ban nhân
dân Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh, là không có cơ sở để chấp nhận.
Từ những căn cứ nêu trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét và không chấp
nhận yêu cầu kháng cáo của người khởi kiện ông Nguyễn L, giữ nguyên quyết
định của bản án sơ thẩm.
[3] Về án phí hành chính phúc thẩm: Người khởi kiện ông Nguyễn L phải
chịu do yêu cầu kháng cáo không được chấp nhận nhưng do ông là người cao
tuổi và có đơn xin được miễn án phí, lệ phí Tòa án nên Hội đồng xét xử miễn án
phí cho ông L theo quy định.
Các quyết định khác của bản án hành chính sơ thẩm không có kháng cáo,
kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 241 Luật Tố tụng hành chính;
Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường
vụ Quốc hội;
Bác kháng cáo của người khởi kiện ông Nguyễn L, giữ nguyên quyết định
của bản án sơ thẩm.
1. Tuyên xử: Bác toàn bộ yêu cầu của ông Nguyễn L khởi kiện đối với
Quyết định buộc khắc phục hậu quả số 188/QĐ-KPHQ ngày 26/5/2022 của Chủ
tịch Ủy ban nhân dân Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh.
2. Án phí hành chính phúc thẩm: Ông Nguyễn L được miễn.
3. Các quyết định khác của bản án hành chính sơ thẩm không có kháng cáo,
kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.
4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
13
Nơi nhận:
- Tòa án nhân dân tối cao;
- VKSNDCC tại TP. Hồ Chí Minh;
- TAND TP. Hồ Chí Minh;
- VKSND TP. Hồ Chí Minh;
- Cục THADS TP. Hồ Chí Minh;
- Đương sự;
- Lưu HSVA (NTCL) (20);
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Trần Thị Hòa Hiệp
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 20/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 19/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 18/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 17/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Bản án số 60/2025/DS-PT ngày 14/02/2025 của TAND tỉnh Cà Mau về tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất
Ban hành: 14/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 14/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 14/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 13/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 13/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 13/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 13/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 13/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Bản án số 53/2025/DS-PT ngày 12/02/2025 của TAND tỉnh Cà Mau về tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất
Ban hành: 12/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 12/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 12/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 11/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 11/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 11/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 11/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 11/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm