Bản án số 274/2024/DS-PT ngày 24/12/2024 của TAND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu về tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 274/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 274/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 274/2024/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 274/2024/DS-PT ngày 24/12/2024 của TAND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu về tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu |
Số hiệu: | 274/2024/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 24/12/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Bà Lê Thị Xuân L, sinh năm 1974 khởi kiện Ông Lê Văn P, sinh năm 1968 và bà Nguyễn Thị Kim L1, sinh năm 1975 về việc |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU
Bản án số: 274/2024/DS-PT
Ngày 24 - 12 - 2024
V/v “ Tranh chấp di sản thừa kế,
hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Ông Cao Xuân Long
Các Thẩm phán: Ông Cao Minh Vỹ
Bà Bùi Thị Thương
- Thư ký phiên tòa: Bà Hồ Thị Tâm – Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh Bà
Rịa - Vũng Tàu.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu: Ông Thái
Quốc Bảo - Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.
Trong các ngày 17, 24 tháng 12 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh
Bà Rịa - Vũng Tàu xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số
183/2024/TLPT-DS ngày 03/10/2024 về việc “Tranh chấp di sản thừa kế, hủy
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 07/2024/DS-ST ngày 04/3/2024 của Tòa án
nhân dân huyện Châu Đức bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 310/2024/QĐ-PT ngày
29/10/2024 và Quyết định hoãn phiên tòa số 301/2024/QĐ-PT ngày 29/11/2024
giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Bà Lê Thị Xuân L, sinh năm 1974 (có mặt);
Địa chỉ: Đường C, thôn Q, xã N, huyện C, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: ông Nguyễn Bá T, sinh
năm 1987; địa chỉ: A tầng C, N, phường Đ, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh
(có mặt).
Bị đơn: Ông Lê Văn P, sinh năm 1968 (có mặt) và bà Nguyễn Thị Kim
L1, sinh năm 1975 (có mặt).
Địa chỉ: Số F, thôn G, xã S, huyện C, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
2
1. Bà Võ Thị Thanh M, sinh năm 1970 (vắng mặt) và ông Lê Chí C, sinh
năm 2000 (vắng mặt);
Địa chỉ: số A N, tổ F, khu phố P, phường L, thành phố T, Thành phố Hồ
Chí Minh.
Người đại diện theo ủy quyền của bà M, ông C: Bà Lê Thị Xuân L, sinh
năm 1974; địa chỉ: Đường C, thôn Q, xã N, huyện C, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (có
mặt).
2. Bà Lê Thị Thu H, sinh năm 1961 (vắng mặt);
Địa chỉ: số G, thôn G, xã S, huyện C, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
Người đại diện theo ủy quyền: Bà Lê Thị Xuân L, sinh năm 1974; địa chỉ:
đường C, thôn Q, xã N, huyện C, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (có mặt).
3. Ông Nguyễn Văn Minh D, sinh năm 1962 (vắng mặt);
Địa chỉ: 4 đường X, phường B, quận B, thành phố Hồ Chí Minh .
4. Bà Nguyễn Thị Thùy T1, sinh năm 1982 (vắng mặt);
Địa chỉ: 4 đường X, phường B, quận B, thành phố Hồ Chí Minh.
5. Ông Nguyễn Văn Minh H1, sinh năm 1983 (vắng mặt) và ông Nguyễn
Văn Minh T2, sinh năm 1996 (vắng mặt).
Địa chỉ: 4 đường X, phường B, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo ủy quyền của ông H1, ông T2: Ông Lê Xuyên H2,
sinh năm 1967 (có mặt);
Địa chỉ: Đường C, thôn Q, xã N, huyện C, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
6. Bà Lê Thị Thu T3, sinh năm 1964 (có mặt);
Địa chỉ: đường C, thôn Q, xã N, huyện C, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
7. Bà Lê Thị Thu T4, sinh năm 1970 (vắng mặt);
Địa chỉ: A đường N, phường T, thành phố V, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
Người đại diện theo ủy quyền tham gia tố tụng: Bà Lê Thị Xuân L, sinh
năm 1974; địa chỉ: Đường C, thôn Q, xã N, huyện C, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (có
mặt).
8. Bà Lê Thị Hoài N, sinh năm 1972 (có mặt);
Địa chỉ: đường số A, thôn T, xã S, huyện C, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
9. Bà Lê Thị Xuân H3, sinh năm 1980 (có mặt);
Địa chỉ: Số G, thôn G, xã S, huyện C, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
10. Ủy ban nhân dân huyện C, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
Địa chỉ: Thị trấn N, huyện C, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
3
Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Tấn B – Trưởng Văn phòng
(vắng mặt).
Người kháng cáo:
1. Bà Lê Thị Xuân L, sinh năm 1974; là nguyên đơn trong vụ án;
2. Ông Lê Văn P, sinh năm 1968 và bà Nguyễn Thị Kim L1, sinh năm
1975; là bị đơn trong vụ án;
3. Bà Lê Thị Thu H, bà Lê Thị Thu T4, bà Võ Thị Thanh M, ông Lê Chí
C, bà Lê Thị Xuân H3; là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
1. Theo đơn khởi kiện, quá trình tham gia tố tụng và tại phiên tòa,
nguyên đơn - bà Lê Thị Xuân L và người đại diện theo ủy quyền trình bày:
Cha bà L là cụ Lê Văn S, sinh năm 1936, chết năm 2004; mẹ bà L là cụ
Nguyễn Thị T5, sinh năm 1937, chết năm 1981.
Hai cụ có 09 người con chung gồm:
1. Ông Lê Văn C1, sinh năm 1958, chết năm 2001. Ông C1 có vợ là bà
Võ Thị Thanh M, sinh năm 1970 và 01 con chung ông Lê Chí C, sinh năm 2000;
2. Bà Lê Thị Thu H, sinh năm 1961;
3. Bà Lê Thị Kim H4, sinh năm 1962, chết năm 2000. Bà H4 có chồng là
ông Nguyễn Văn Minh D, sinh năm 1962 và 03 con chung là bà Nguyễn Thị
Thùy T1, sinh năm 1982, ông Nguyễn Văn Minh H1, sinh năm 1983, ông
Nguyễn Văn Minh T2, sinh 1996;
4. Bà Lê Thị Thu T3, sinh năm 1964;
5. Ông Lê Văn P, sinh năm 1968;
6. Bà Lê Thị Thu T4, sinh năm 1970;
7. Bà Lê Thị Hoài N, sinh năm 1972;
8. Bà Lê Thị Xuân L, sinh năm 1974;
9. Bà Lê Thị Xuân H3, sinh năm 1980.
Tài sản 02 cụ để lại gồm: Quyền sử dụng đất diện tích khoảng 510m
2
thuộc thửa số 404 và 405, tại xã S, huyện C, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu. Trong đó,
thửa 404 vào năm 2015, ông P đã tự ý kê khai và được cấp giấy chứng nhận cho
ông Lê văn P diện tích 235m2, còn thửa 405 chưa được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất.
Về nguồn gốc đất: Năm 1972, 02 cụ từ Quảng Trị vào xã S, huyện C, tỉnh
Bà Rịa Vũng Tàu lập nghiệp thì đã được chế độ cũ cấp và khai phá thêm. Hai cụ
làm nhà và sinh sống tới khi chết. Trên phần đất có 02 căn nhà cấp 4 đã được 02
4
cụ xây dựng để ở. Hai cụ S và cụ T5 chết không để lại di chúc. Di sản để lại
chưa chia thừa kế.
Năm 2015, ông Lê Văn P đã tự ý đi kê khai và được nhà nước cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa 404. Việc ông P tự ý kê khai và
được Ủy ban nhân dân huyện C cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất khi
chưa có sự đồng ý của các đồng thừa kế khác là chưa đúng quy định pháp luật.
Do vậy, bà Lê Thị Xuân L yêu cầu Tòa án giải quyết: 1/ Hủy giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho ông Lê Văn P; 2/ Công nhận tổng diện tích
đất khoảng 510m
2
gồm thửa 404 và thửa 405 xã S, huyện C là di sản của cụ
Nguyễn Thị T5 và cụ Lê Văn S. Đồng thời, chia đều cho 09 người con của 02
cụ, mỗi mười 01 kỷ phần bằng nhau.
Ngày 30/01/2019, bà L có sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện, theo đó: Hủy
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho ông Lê Văn P diện tích 235m
2
thuộc
thửa đất số 404, tờ bản đồ 43, tại xã S, huyện C; công nhận diện tích 510m
2
thuộc thửa đất số 404, 405 là tài sản chung thuộc quyền sử dụng của ông S và bà
T5; Đề nghị chia thừa kế theo pháp luật quyền sử dụng đất diện tích 510m
2
gồm
thửa đất 404 và thửa đất 405, tại xã S, huyện C cho 09 người con của ông S, bà
T5, mỗi người hưởng một phần di sản bằng nhau. Bà L xin nhận quyền sử dụng
đất số 405, và đồng ý thanh toán lại giá trị cho các đồng thừa kế khác.
Ngày 24/02/2023, bà L tiếp tục bổ sung đơn khởi kiện với nội dung: Hủy
Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất diện tích 235m
2
thuộc thửa số 404, tờ bản
đồ số 43, tại xã S, huyện C đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông
Lê Văn P, công chứng số 1660, quyển số 01/2021 TP/CC-SCC/HĐGD ngày
28/4/2021 tại Văn phòng C2; Ông P phải có trách nhiệm hoàn trả số tiền vay cho
Ngân hàng N2 - Chi nhánh huyện C – Phòng G.
Đến ngày 28/6/2023, bà L có đơn xin rút yêu cầu khởi kiện đối với yêu
cầu khởi kiện ngày 24/02/2023 vì ông P đã thanh toán khoản vay tại Ngân hàng
N2 - Chi nhánh huyện C – Phòng G.
Ngày 29/11/2023, các ông bà: Võ Thị Thanh M, Lê Chí C, Lê Thị Thu H,
Lê Thị Thu T4, Nguyễn Văn Minh H1, Nguyễn Văn Minh T2 và Lê Thị Xuân L
có văn bản thỏa thuận về việc phân chia thừa kế như sau: Bà Nguyễn Xuân L2
đại diện đứng tên nhận di sản thừa kế và sau đó, bà L2 có nghĩa vụ chuyển
nhượng diện tích được cấp và chia đều cho các đồng thừa kế khác.
2. Trong quá trình giải quyết vụ án tại Tòa án, bị đơn ông Lê Văn P, bà
Nguyễn Thị Kim L1 trình bày:
Ông P và bà L1 là vợ chồng hợp pháp. Cha của ông P là cụ Lê Văn S sinh
năm 1936. Năm 2000, ông S có mời ông Tạ Ngọc N1 là cán bộ địa chính xã S
xuống để đo đạc và tách thửa đối với hửa đất số 404, tờ 43, tọa lạc tại xã S,
huyện C, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Vào ngày 31/4/2004, Ban bồi thường và giải
phóng mặt bằng huyện C, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu có đến gặp cha của ông P để
kê khai đất, vì cha ông P đã cho ông P rồi nên ông S để toàn quyền cho ông P kê
5
khai thửa đất nói trên theo biên bản kiểm kê số 119/BBKK ngày 30/01/2004;
thành phần tham gia kiểm kê gồm có: Ban BTTH và GPMB huyện và các bên
có liên quan. Đến ngày 15/5/2004 ông P được UBND tỉnh B quyết định phê
duyệt kinh phí đền bù. Đến ngày 15/10/2004 cha của ông P là ông S đột ngột
qua đời. Vợ chồng ông P đã sống ổn định trên mảnh đất đó cho đến nay. Ông P
cho rằng việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông P ngày
05/11/2015 đối với thửa đất số 404, tờ bản đồ số 43, diện tích 167m
2
(trong đó
có 40m
2
đất thổ cư, 127m
2
đất trồng cây hàng năm khác) là hợp pháp. Như vậy,
qua ý kiến của nguyên đơn ông P không đồng ý chia di sản thừa kế thửa đất số
404, tờ bản đồ số 43; còn đối với thửa đất 405 thì ông P không có ý kiến gì.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Bà Lê Thị Thu H trình bày:
Bà H là con chung của cụ S và cụ T5. Bà đồng ý với lời trình bày của đại
diện nguyên đơn về cha, mẹ và các anh chị em; bà đồng ý về nguồn gốc di sản
của cha mẹ bà để lại.
Bà H có quan điểm như sau: Bà đồng ý với ý kiến khởi kiện của nguyên
đơn. Theo đó, đề nghị Hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho ông
Lê Văn P. Công nhận tổng diện tích đất khoảng 510m
2
gồm thửa 404 và thửa
405, tờ bản đồ số 43, tại xã S, huyện C thuộc quyền sử dụng của cha mẹ bà H là
bà Nguyễn Thị T5 và ông Lê Văn S, Đồng thời, chia đều cho 09 người con của
02 cụ, mỗi người 01 kỷ phần bằng nhau.
- Bà Lê Thị Thu T3 trình bày:
Bà là con chung của cụ S và cụ T5. Bà đồng ý với lời trình bày của đại diện
nguyên đơn về cha, mẹ và các anh chị em; bà đồng ý về nguồn gốc di sản của
cha mẹ bà để lại.
Về chia di sản thừa kế bà có ý kiến như sau:
Đối với thửa 404: Cha bà đã cho ông P nên đây là tài sản của ông P nên
bà không đồng ý chia thừa kế.
Đối với thửa 405: Bà đề nghị Tòa án công nhận đây là di sản thừa kế của
cha mẹ bà, đồng thời chia đều cho 09 người con theo quy định của pháp luật. Bà
đề nghị được đồng sở hữu thửa đất 405. Vì đây là di sản của cha mẹ để lại mục
đích làm nơi thờ tự bố mẹ bà nên bà muốn các anh chị em để lại.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bà Lê Thị Thu T3 đồng ý nhường phần di sản
của mình được hưởng chuyển qua cho bà Lê Thị Xuân H3.
- Bà Lê Thị Xuân H3, bà Lê Thị Hoài N trình bày:
Bà là con chung của cụ S và cụ T5. Bà đồng ý với lời trình bày của đại
diện nguyên đơn về cha, mẹ và các anh chị em; bà đồng ý về nguồn gốc di sản
của cha mẹ bà để lại.
Bà H3, bà N đồng ý chia thừa kế như sau:
6
Đối với thửa đất số 404: Do cha bà đã cho ông P, quyền sử dụng đất đã
cấp giấy chứng nhận cho ông Lê Văn P. Do vậy, các bà không đồng ý chia thửa
đất 404; không yêu cầu Tòa án hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp
cho ông P.
Đối với phần diện tích còn lại thuộc thửa đất số 405: Đất chưa được cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì bà H3, bà N đề nghị Tòa án công nhận
đây là di sản thừa kế của cha mẹ bà H3, bà N đồng thời chia đều cho 09 người
con, trong đó, các bà được hưởng mỗi người 01 phần.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bà Lê Thị Hoài N đồng ý nhường phần di sản
của mình được hưởng chuyển qua cho bà Lê Thị Xuân H3.
- Bà Lê Thị Thu T4, bà Võ Thị Thanh M và ông Lê Chí C trình bày:
Quan điểm của bà T4, bà M, ông C đồng ý với nguyên đơn. Theo đó: yêu
cầu Tòa án giải quyết hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho ông
Lê Văn P. Công nhận tổng diện tích đất khoảng 510m
2
gồm thửa 404 và thửa
405, tờ bản đồ số 43, tại xã S, huyện C thuộc quyền sử dụng của bà Nguyễn Thị
T5 và ông Lê Văn S, đồng thời chia đều cho 09 người con.
- Ông Nguyễn Văn Minh H1, ông Nguyễn Văn Minh T2 trình bày:
Quan điểm của ông H1 và ông T2, đồng ý kiến với ý kiến của nguyên đơn
là bà L2. Theo đó: yêu cầu Tòa án giải quyết hủy giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất đã cấp cho ông Lê Văn P. Công nhận tổng diện tích đất khoảng 510m
2
gồm thửa 404 và thửa 405, tờ bản đồ số 43, tại xã S, huyện C thuộc quyền sử
dụng của bà Nguyễn Thị T5 và ông Lê Văn S, đồng thời chia đều cho 09 người
con.
- Ông Nguyễn Văn Minh D trình bày:
Ông D và bà Lê Thị Kim H4 là vợ chồng có 03 người con chung gồm:
Nguyễn Thị Thùy T1, sinh năm 1982, Nguyễn Văn Minh H1, sinh năm 1983,
Nguyễn Văn Minh T2, sinh năm 1996. Năm 2000 bà H4 mất do tai nạn giao
thông. Ông D có ý kiến về vụ án như sau: Ông D không nhận phần thừa kế này
và đồng ý để lại cho ông H1 và ông T2. Đề nghị Tòa án phân chia theo quy định
của pháp luật. Ông D xin được vắng mặt tất cả các buổi làm việc của Tòa án và
không thắc mắc khiếu nại gì về sau.
- Ủy ban nhân dân huyện C trình bày:
Ủy ban nhân dân huyện C nhận được thông báo thụ lý vụ án số
12/2019/TL-DS ngày 16/01/2019 của Tòa án nhan dân huyện C. Việc này, Ủy
ban nhân dân có ý kiến như sau: phần diện tích liên quan đến nội dung khởi kiện
của bà Lê Thị Xuân L thuộc các thửa 404, 405, tờ bản đồ địa chính số 43, tại xã
S, huyện C. Trong đó thửa 404 đã được Ủy ban nhân dân huyện C cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số CA 977080 ngày 05/11/2015 cho ông Lê Văn
P với diện tích 167m
2
, mục đích sử dụng đất ở là 40m
2
, đất trồng cây hàng năm
khác là 127m
2
. Trong quá trình giải quyết hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử
7
dụng đất cho ông P, Ủy ban nhân dân huyện C chưa nhận được đơn thư tranh
chấp hay khiếu nại nào liên quan đến quyền sử dụng đất này.
Đối với thửa 405, tờ bản đồ số 43, tại xã S, hiện chưa thể hiện thông tin
người sử dụng đất trong hồ sơ địa chính đang lưu giữ tại Chi nhánh văn phòng
đăng ký đất đai huyện C. Do đó, Ủy ban nhân dân huyện đề nghị Tòa án nhân
dân huyện Châu Đức xem xét, giải quyết công nhận quyền sử dụng đất cho chủ
sử dụng đất hợp pháp; Ủy ban nhân dân huyện sẽ thực hiện nội dung các phần
việc mà bản án hoặc quyết định của Tòa án theo đúng quy định của pháp luật.
4. Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 07/2024/DS-ST ngày 04/3/2024 của Tòa
án nhân dân huyện Châu Đức đã tuyên xử:
1. Đình chỉ giải quyết một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc
Hủy Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất diện tích 235m
2
thuộc thửa số 404 tờ
bản đồ số 43 xã S, huyện C đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông
Lê Văn P.
2. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị Xuân L về việc
tranh chấp di sản thừa kế đối với ông Lê Văn P, Nguyễn Thị Kim L1.
2.1. Xác định hàng thừa kế thứ nhất của cụ Lê Văn S và Nguyễn Thị T5
hiện nay gồm: Ông Lê Văn P, bà Lê Thị Xuân L, bà Lê Thị Thu H; bà Lê Thị
Thu T3, bà Lê Thị Thu T4, bà Lê Thị Hoài N, bà Lê Thị Xuân H3; Người thừa
kế của ông C1: Bà Võ Thị Thanh M và ông Lê Chí C; người thừa kế của bà H4:
Bà Nguyễn Thị Thùy T1, ông Nguyễn Văn Minh H1 và ông Nguyễn Văn Minh
T2.
2.2. Di sản chung của cụ Lê Văn S và Nguyễn Thị T5 gồm: Quyền sử
dụng diện tích 439m
2
thuộc thửa 404, 405 tờ bản đố số 43 xã S, huyện C, tỉnh
Bà Rịa - Vũng Tàu. Ngoài ra, các đương sự không có yêu cầu phân chia di sản
nào khác.
2.3. Di sản của cụ Lê Văn S và Nguyễn Thị T5 được phân chia như sau:
2.3.1. Ông Lê Văn P được quyền sử dụng đất diện tích 167m
2
thửa 404 xã
S, huyện C và tài sản trên đất.
2.3.2. Các ông bà Lê Thị Xuân L, Lê Thị Thu H; Lê Thị Thu T3, Lê Thị
Thu T4, Lê Thị Hoài N, Lê Thị Xuân H3, bà Nguyễn Thị Thùy T1, ông Nguyễn
Văn Minh H1, ông Nguyễn Văn Minh T2, bà Võ Thị Thanh M, ông Lê Chí C
đồng sử dụng diện tích 272m
2
thuộc thửa 405 xã S, huyện C và tài sản trên đất.
2.3.3. Buộc ông Lê Văn P phải thanh toán cho bà Lê Thị Xuân L, Lê Thị
Thu H; Lê Thị Thu T3, Lê Thị Thu T4, Lê Thị Hoài N, Lê Thị Xuân H3, mỗi
người: 82.500.000đ (T6 mươi hai triệu năm trăm ngàn đồng); Buộc giao cho ông
Lê Chí C và bà Võ Thị Thanh M số tiền 82.500.000đ (T6 mươi hai triệu năm
trăm ngàn đồng); buộc giao cho bà Nguyễn Thị Thùy T1, ông Nguyễn Văn
Minh H1 và ông Nguyễn Văn Minh T2 số tiền 82.500.000đ (T6 mươi hai triệu
năm trăm ngàn đồng).
8
(Kch thưc, vị tr tứ cận và diện tch các thửa đất trên được xác định
theo sơ đồ vị tr khu đất do Văn phòng đăng ký đất đai huyện C lập ngày
28/12/2023, km theo bản án).
Các đương sự có nghĩa vụ liên hệ với cơ quan nhà nước có thẩm quyền để
tiến hành các thủ tục chỉnh lý và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo
quy định của pháp luật.
3. Không chấp nhận yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số
CA 977080 do UBND huyện C cấp ngày 05/11/2015 cho ông Lê Văn P với diện
tích 167m
2
thửa 405 tờ 43 xã S, huyện C, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí, chi phí tố tụng, nghĩa vụ thi
hành án và quyền kháng cáo của các bên đương sự theo quy định của pháp luật.
5. Nội dung kháng cáo:
5.1. Nguyên đơn - bà Lê Thị Xuân L và người có quyền lợi nghĩa vụ liên
quan bà Lê Thị Thu H, bà Lê Thị Thu T4, bà Võ Thị Thanh M, ông Lê Chí C nộp
đơn kháng cáo có nội dung:
Yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa một phần bản án sơ thẩm, cụ thể:
+ Bác việc ông Lê Văn P được hưởng công quản lý di sản 10% là
641.800.000đ, mà ông P chỉ được hưởng phần thừa kế như các đồng thừa kế
khác.
+ Tuyên bà Lê Thị Xuân L, bà Lê Thị Thu H, bà Lê Thị Thu T3, bà Lê
Thị Thu T4, bà Lê Thị Hoài N, bà Lê Thị Xuân H3, bà Nguyễn Thị Thùy T1,
ông Nguyễn Văn Minh H1, ông Nguyễn Văn Minh T2, bà Võ Thị Thanh M và
ông Lê Chí C được đồng sử dụng thửa đất số 405, tờ bản đồ 43, tại xã S với đề
xuất: Ngoài 5 kỷ phần thừa kế những người trên được hưởng thì họ sẽ thối lại
cho 4 người thừa kế gồm ông P và các bà T3, N, H3 số tiền dư ra sau khi lấy giá
trị thửa đất 405 trừ cho tổng giá trị của 5 kỷ phần. Ông P, bà T3, bà N và H3
đồng sử dụng thửa 404, tờ bản đồ 43, tại xã S.
+ Tuyên hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CA 977080 do
UBND huyện C cấp ngày 05/11/2015 cho ông Lê Văn P với diện tích 167m
2
thuộc thửa số 404, tờ bản đồ 43, tọa lạc tại xã S, huyện C.
+ Xác định lại giá trị di sản để làm cơ sở giải quyết vụ án.
5.2. Bị đơn - ông Lê Văn P, bà Nguyễn Thị Kim L1 nộp đơn kháng cáo có
nội dung:
Yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết: sửa bản án sơ thẩm theo hướng
không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cụ thể: đối với thửa đất
404, tờ bản đồ 43, diện tích 176m
2
, tọa lạc tại xã S đề nghị Tòa án công nhận
quyền sử dụng đất cho ông Lê Văn P, không phải là di sản thừa kế. Đối với thửa
đất 405, tờ bản đồ 43, diện tích 272m
2
, tọa lạc tại xã S, đề nghị Tòa án công
nhận là di sản cha mẹ để lại, dùng vào việc thờ cúng, không đồng ý chia.
9
5.3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan - bà Lê Thị Xuân H3 nộp đơn
kháng cáo có nội dung:
Yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa một phần bản án sơ thẩm, cụ thể: Bà
H3 yêu cầu phân chia lại di sản thừa kế, xem xét đến công lao quản lý di sản,
công lao phụng dưỡng và chăm sóc cha mẹ để xem xét cho bà H3 được hưởng
nhiều hơn một suất thừa kế mà bản án sơ thẩm đã phân chia.
6. Tại phiên tòa phúc thẩm:
Nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, người kháng cáo giữ
nguyên yêu cầu kháng cáo. Các bên đương sự không thỏa thuận được việc giải
quyết vụ án và không cung cấp tài liệu, chứng cứ mới.
7. Kiểm sát viên phát biểu ý kiến:
Về tố tụng: Quá trình thụ lý, giải quyết vụ án và tại phiên tòa, Thẩm phán,
thành viên Hội đồng xét xử và những người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng
quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ vào khoản 2
Điều 308, 309 Bộ luật Tố tụng dân sự; không chấp nhận kháng cáo của ông Lê
Văn P, bà Nguyễn Thị Kim L1 và chấp nhận một phần kháng cáo của các ông
(bà): Lê Thị Xuân L và bà Lê Thị Thu H, bà Lê Thị Thu T4, bà Võ Thị Thanh
M, ông Lê Chí C, bà Lê Thị Xuân H3.
Sửa một phần bản án dân sự sơ thẩm số 07/2024/DS-ST ngày 04/3/2024
của Tòa án nhân dân huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu theo hướng:
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị Xuân L về việc tranh chấp
di sản thừa kế, cụ thể:
+ Xác định di sản thừa kế của cụ Lê Văn S và cụ Nguyễn Thị T5 chết để
lại gồm: Quyền sử dụng đất có diện tích 167m
2
, thuộc thửa đất số 404, tờ bản đồ
số 43, tại xã S, huyện C có giá trị 1.930.000.000 đồng và Quyền sử dụng đất có
diện tích 272m
2
thuộc thửa đất 405, tờ bản đồ số 43, tại xã S, huyện C, cùng tài
sản gắn liền với thửa đất có tổng giá trị là: 2.994.155.000 đồng.
+ Phân chia di sản thừa kế theo hướng:
- Giao cho bà Lê Thị Xuân L được quyền quản lý, sử dụng, định đoạt
quyền sử dụng có diện tích 272m
2
, thuộc thửa đất 405, tờ bản đồ số 43, tại xã S,
huyện C và tài sản gắn liền với thửa đất bao gồm 01 căn nhà 01 tầng, loại 3 và
01 mái che tôn; buộc bà Lê Thị Xuân L phải thanh toán giá trị di sản được
hưởng cho các thừa kế.
- Giao cho ông Lê Văn P được quyền quản lý, sử dụng định đoạt quyền sử
dụng có diện tích 167m
2
, thuộc thửa đất 404, tờ bản đồ số 43, tại xã S, huyện C
và buộc ông Lê Văn P phải thanh toán giá trị di sản được hưởng cho các thừa kế.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
10
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại
phiên tòa, căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của kiểm sát viên. Hội
đồng xét xử phúc thẩm nhận định:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Đơn kháng cáo của người kháng cáo đảm bảo đúng thủ tục, nội dung
và nộp trong thời hạn theo quy định tại các Điều 272, 273 của Bộ luật Tố tụng
dân sự nên hợp lệ; Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận xem xét lại bản án sơ
thẩm theo trình tự phúc thẩm.
[1.2] Sự vắng mặt của các đương sự tại phiên tòa: Tòa án đã tống đạt
quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa hợp lệ; các đương sự
vắng mặt không có lý do chính đáng hoặc sự kiện bất khả kháng, một số đương
sự vắng mặt đã có đơn xin xét xử vắng mặt và đây là phiên tòa lần thứ hai nên
theo quy định tại khoản 3 Điều 296 Bộ luật tố tụng dân sự thì Hội đồng xét xử
tiến hành xét xử vắng mặt họ.
[2] Xét nội dung kháng cáo của bà Lê Thị Xuân L, ông Lê Văn P, bà
Nguyễn Thị Kim L1, bà Lê Thị Thu H, bà Lê Thị Thu T4, bà Võ Thị Thanh M,
ông Lê Chí C và bà Lê Thị Xuân H3 thì thấy:
[2.1] Xác định hàng thừa kế của cụ S, cụ T5:
Cụ Lê Văn S, sinh năm 1936 và cụ Nguyễn Thị T5, sinh năm 1937 là vợ
chồng. Cụ T5 chết năm 1981 và cụ S chết năm 2004; có 09 người con chung
gồm các ông bà: Lê Văn C1, Lê Thị Thu H, Lê Thị Kim H4, Lê Thị Thu T3, Lê
Văn P, Lê Thị Thu T4, Lê Thị Hoài N, Lê Thị Xuân L và Lê Thị Xuân H3.
Ông Lê Văn C1 chết năm 2001, có vợ là bà Võ Thị Thanh M và 01 con là
ông Lê Chí C. Bà Lê Thị Kim H4 chết năm 2000, có chồng là ông Nguyễn Văn
Minh D và 03 con là bà Nguyễn Thị Thùy T1, ông Nguyễn Văn Minh H1 và ông
Nguyễn Văn Minh T2.
Đối chiếu quy định tại Điều 651, 652 Bộ luật dân sự 2015, theo đó hàng
thừa kế thứ nhất của cụ S và cụ T5 bao gồm 09 người con gồm các ông (bà): Lê
Văn C1, Lê Thị Thu H, Lê Thị Kim H4, Lê Thị Thu T3, Lê Văn P, Lê Thị Thu
T4, Lê Thị Hoài N, Lê Thị Xuân L và Lê Thị Xuân H3. Do ông C1 chết nên
phần di sản thừa kế mà ông C1 được hưởng sẽ chia cho thừa kế của ông C1
gồm: bà M, ông C; bà H4 đã chết nên phần di sản của bà H4 được hưởng sẽ
được chia cho thừa kế của bà H4 gồm: ông D, bà T1, ông H1, ông T2; vì ông D
cho lại các con nên kỷ phần thừa kế của bà H4 sẽ được chia cho 03 người con.
[2.2] Xác định di sản thừa kế của cụ S, cụ T5 chết để lại:
[2.2.1] Theo các đương sự thừa nhận thì cụ Lê Văn S và cụ Nguyễn Thị
T5 tạo lập được tài sản chung là quyền sử dụng đất gồm các thửa đất số 404 và
405, tờ bản đồ 43, tại xã S, huyện C, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Theo kết quả đo
vẽ của Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai huyện C xác nhận ngày
28/12/2023, thì diện tích đất thực tế còn lại là 439m
2
, trong đó: thửa đất số 404
11
có diện tích 167m
2
đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Lê
Văn P; thửa đất số 405 có diện tích 272m
2
chưa được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất.
[2.2.2] Đối với thửa đất số 405, tờ bản đồ số 43, tại xã S, huyện C:
Ủy ban nhân dân huyện C có văn bản số 2077/UBND-TNMT ngày 26/7/2022
cung cấp thông tin cho Tòa án, trong đó có nội dung “…thửa đất số 405 tờ bản
đồ số 43, tại xã S hiện nay chưa thể hiện thông tin người sử dụng đất trong hồ
sơ địa chnh đang lưu trữ tại Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai huyện C.
Do đó, Ủy ban nhân dân huyện đề nghị Tòa án nhân dân huyện Châu Đức xem
xét, giải quyết công nhận quyền sử dụng đất cho chủ sử dụng đất hợp pháp; Ủy
ban nhân dân huyện sẽ thực hiện nội dung các phần việc mà bản án hoặc quyết
định của cơ quan Tòa án theo đúng quy định của pháp luật....”. Quyền sử dụng
thửa đất số 405, tờ bản đồ số 43, tại xã S, huyện C được gia đình cụ S sử dụng
ổn định lâu dài, không có tranh chấp, phù hợp với quy hoạch, kế hoạch sử dụng
đất tại địa phương. Tại phiên tòa phúc thẩm: Các thừa kế của cụ S, cụ T5 cùng
xác nhận thửa đất số 405, diện tích 272m
2
chưa được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất là di sản thừa kế do cụ S, cụ T5 chết để lại. Vì thửa đất này
chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, do đó cần xác định giá trị
quyền sử dụng đất theo loại đất nông nghiệp; Tòa án cấp sơ thẩm xác định giá trị
đất theo loại đất ở là không có căn cứ. Do vậy, Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp
nhận nội dung kháng cáo của bà L về việc xác định giá trị của thửa đất, cụ thể
xác định diện tích 272m
2
thuộc thửa đất số 405 có giá trị (272m
2
x 10.000.000
đồng/m²) = 2.720.000.000 đồng là di sản của cụ S và cụ T5 để lại.
Về tài sản gắn liền với thửa đất 405 gồm có: 01 căn nhà 01 tầng, loại 3 giá
trị là 267.372.000 đồng và 01 mái che tôn giá trị 6.783.000 đồng. Theo xác nhận
của các đương sự thì tài sản này do cụ S xây dựng; khi cụ S chết thì bà Lê Thị
Xuân H3 tiếp tục sử dụng. Bà H3 cho rằng: trong quá trình ở có sửa chữa nhỏ;
tuy nhiên, bà H3 không cung cấp được tài liệu, chứng cứ chứng minh về giá trị
sửa chữa. Do đó, Hội đồng xét xử xác định tài sản gắn liền với thửa đất 405 có
tổng giá trị 274.155.000 đồng là di sản của cụ S, cụ T5 để lại.
Tòa án cấp sơ thẩm không phân chia giá trị tài sản gắn liền với thửa đất
405 cho các thừa kế của cụ S, cụ T5 là không đúng quy định của pháp luật.
Như vậy, tổng giá trị di sản là quyền sử dụng đất thửa đất số 405, tờ bản
đồ số 43 và tài sản gắn liền với đất là: 2.720.000.000 đồng + 274.155.000 đồng
= 2.994.155.000 đồng.
[2.2.3] Đối với thửa đất số 404, tờ bản đồ số 43, tại xã S, huyện C:
Bị đơn – ông P, bà L1 và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan - bà T3,
bà N, bà H3 cho rằng: Thửa đất số 404 đã được cụ S và cụ T5 cho ông P từ năm
2000. Từ đó đến nay, ông P sử dụng liên tục, ổn định, lâu dài và ông P đã được
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Do ông S đã tặng cho ông P nên đó là
tài sản riêng của ông P, không phải là di sản thừa kế nên không đồng ý phân
chia. Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy:
12
Hồ sơ địa chính thể hiện ông Lê Văn P là người kê khai thửa đất số 404
tại sổ mục kê. Ngày 17/6/2015, ông P có đơn xin cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất thể hiện đất có nguồn gốc: “Hộ ông Lê Văn S khai phá năm 1972 trực
tiếp canh tác và làm nhà ở từ năm 1972, đến năm 2000 cho lại con ruột là ông
Lê Văn P, hộ ông P trực tiếp canh tác và làm nhà ở ổn định từ năm 2000 đến
nay”. Ngày 05/11/2015, ông P đã được UBND huyện C cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất diện tích 167m
2
, thửa đất số 404, tờ bản đồ số 43, tại xã S,
huyện C, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Tại hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất không có tài liệu, chứng cứ nào thể hiện việc ông S tặng cho ông P thửa đất
404. Trong quá trình giải quyết vụ án, ông P không cung cấp được chứng cứ nào
khác để chứng minh ông P được cụ S tặng cho đất. Mặt khác, theo xác nhận của
các đương sự thì quyền sử dụng đất của thửa 404 là tài sản chung của cụ S và cụ
T5 tạo lập trong thời kỳ hôn nhân. Việc cụ S định đoạt tài sản chung khi cụ T5
đã chết, mà không có ý kiến của những người con là không phù hợp và xâm
phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của các con cụ T5. Đồng thời, quá trình
ông P kê khai đăng ký quyền sử dụng đất và nhận tiền đền bù khi giải phóng mặt
bằng thì ông P đại diện cho hộ gia đình cụ S, không phải kê khai riêng cho ông
P. Vì vậy, ông Lê Văn P, bà Nguyễn Thị Kim L1 và bà T3, bà N, bà H3 cho
rằng: Thửa đất 404, tờ bản đồ số 43 không phải là di sản thừa kế của cụ S, cụ T5
là không có cơ sở để chấp nhận.
Tòa án cấp sơ thẩm xác định phần đất 167m
2
, thuộc thửa đất số 404, tờ
bản đồ số 43, tại xã S, huyện C có giá trị 1.930.000.000 đồng là di sản thừa kế
của cụ S và cụ T5 để lại là có căn cứ. Do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm không
có cơ sở để chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông P, bà L1 về việc: xác định
thửa đất số 404, tờ bản đồ số 43, tại xã S, huyện C có diện tích đất 167m
2
là của
ông P.
Về tài sản gắn liền với thửa đất 404 gồm có: 01 căn nhà 01 tầng loại 3 giá
trị là 140.370.000 đồng; 01 nhà kho loại 3 giá trị là 156.998.400 đồng; nhà kho
nằm ngoài giấy chứng nhận có giá trị 102.652.800 đồng; tổng giá trị tài sản gắn
liền với thửa đất số 404 là: 400.021.500 đồng. Theo xác nhận của các đương sự,
thì những tài sản trên do ông P, bà L1 tạo lập từ năm 2000. Vì vậy, Hội đồng xét
xử xác định: Tài sản gắn liền với thửa đất 404 không phải là di sản thừa kế của
cụ S, cụ T5 để lại.
[2.3] Phân chia di sản thừa kế:
[2.3.1] Cụ S, cụ T5 chết không để lại di chúc, nên di sản thừa kế của cụ S
và cụ T5 được phân chia theo pháp luật (quy định tại điểm a khoản 1 Điều 650
Bộ luật Dân sự 2015).
[2.3.2] Phân chia di sản thừa kế là thửa đất 404, tờ bản đồ số 43: Ông Lê
Văn P là người đại diện các anh chị em đi kê khai quyền sử dụng đất, quản lý,
tôn tạo, thờ cúng cha mẹ. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm phân chia cho ông P được
hưởng công sức tương đương 10% tổng giá trị di sản của thửa đất 404, tờ bản đồ
số 43. Cụ thể: Ông P được hưởng công sức đối với di sản này là: 10% x
13
1.930.000.000 đồng = 193.000.000 đồng là có căn cứ. Vì vậy Hội đồng xét xử
phúc thẩm không có cơ sở để chấp nhận kháng cáo đối với nội dung này của bà
Lê Thị Xuân L, bà Lê Thị Thu H, bà Lê Thị Thu T4, bà Võ Thị Thanh M, ông
Lê Chí C.
Phần tài sản còn lại được chia đều cho các đồng thừa kế, mỗi người được
hưởng một kỷ phần bằng nhau; cụ thể: (1.930.000.000 đồng – 193.000.000
đồng) : 9 phần = 193.000.000 đồng.
Căn cứ vào nhu cầu, thực tế sử dụng đất thì có căn cứ xác định ông P đã
sinh sống ổn định, lâu dài trên thửa đất số 404, tờ bản đồ số 43, diện tích 167m
2
và tài sản gắn liền với đất thuộc quyền sở hữu của ông P, bà L1 nên Tòa án cấp
sơ thẩm phân chia cho ông P quyền sử dụng thửa đất nêu trên và buộc ông P
phải thanh toán giá trị di sản cho các thừa kế còn lại là có cơ sở, cụ thể:
+ Phải thanh toán cho thừa kế của ông Lê Văn C1 (gồm bà Võ Thị Thanh
M, anh Lê Chí C) số tiền 193.000.000 đồng;
+ Phải thanh toán cho thừa kế của bà Lê Thị Kim H4 (gồm bà Nguyễn Thị
Thùy T1, ông Nguyễn Văn Minh H1 và Nguyễn Văn Minh T2; ông Nguyễn Văn
Minh D); tuy nhiên, ông D chồng bà Hòa đồng Ý giao lại cho các con; nên ông
P có trách nhiệm thanh toán cho bà Nguyễn Thị Thùy T1, ông Nguyễn Văn
Minh H1 và Nguyễn Văn Minh T2 tổng số tiền 193.000.000 đồng;
+ Phải thanh toán cho bà Lê Thị Thu H số tiền 193.000.000 đồng;
+ Phải thanh toán cho bà Lê Thị Thu T3 số tiền 193.000.000 đồng;
+ Phải thanh toán cho bà Lê Thị Thu T4 số tiền 193.000.000 đồng;
+ Phải thanh toán cho bà Lê Thị Hoài N số tiền 193.000.000 đồng;
+ Phải thanh toán cho bà Lê Thị Xuân L số tiền 193.000.000 đồng;
+ Phải thanh toán cho bà Lê Thị Xuân H3 số tiền 193.000.000 đồng.
[2.3.3] Phân chia di sản thừa kế là thửa đất 405, tờ bản đồ số 43 và tài sản
gắn liền với đất như sau:
Mặc dù, bà H3 không cung cấp được tài liệu, chứng cứ liên quan đến việc
sửa chữa tài sản có trên đất; nhưng theo xác nhận của các đương sự tại phiên tòa
phúc thẩm thì trong quá trình ở, bà H3 có sửa chữa một phần mái tôn, tô trát
tường… Do đó, để đảm bảo một phần quyền lợi cho bà H3, Hội đồng xét xử
phúc thẩm chấp nhận một phần kháng cáo của bà H3, chia thêm phần công sức
đóng góp cho bà H3 đối với tài sản có trên đất là 10%; cụ thể: bà H3 được
hưởng công sức đóng góp đối với di sản là tài sản gắn liền với đất là: 10% x
274.155.000 đồng = 27.415.500 đồng.
Ông Lê Văn P không có công sức đóng góp đối với di sản là thửa đất 405,
tờ bản đồ số 43 và tài sản gắn liền với đất; do đó Tòa án cấp sơ thẩm phân chia
cho ông P 10% giá trị của di sản này là không có căn cứ. Vì vậy, Hội đồng xét
xử phúc thẩm chấp nhận một phần kháng cáo của bà Lê Thị Xuân L, bà Lê Thị
14
Thu H, bà Lê Thị Thu T4, bà Võ Thị Thanh M, ông Lê Chí C và sửa nội dung
này của Tòa án cấp sơ thẩm.
Di sản còn lại là giá trị quyền sử dụng đất của thửa đất 405, tờ bản đồ số
43 và phần tài sản còn lại của tài sản gắn liền với thửa đất được chia đều cho các
đồng thừa kế, mỗi người hưởng một kỷ phần bằng nhau; cụ thể: [2.720.000.000
đồng + (274.155.000 đồng – 27.415.500 đồng)] : 9 phần = 329.637.000 đồng.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bà Lê Thị Xuân L kháng cáo yêu cầu được nhận
di sản thừa kế là thửa đất số 405, tờ bản đồ số 43 và tài sản gắn liền với đất. Các
thừa kế khác đều xác định không có khả năng tài chính để nhận hiện vật và
thanh toán giá trị di sản cho các thừa kế còn lại. Tòa án cấp sơ thẩm cho rằng
việc chia quyền sử dụng đất cho mỗi người thừa kế không đảm bảo đủ diện tích
tối thiểu theo quy định của pháp luật nên giao toàn bộ di sản thừa kế này cho các
đồng thừa kế đứng tên đồng sử dụng là không phù hợp. Bởi lẽ, hiện nay các thừa
kế của cụ S, cụ T5 đang mâu thuẫn nhau, việc phân chia đồng sở hữu như Tòa
án cấp sơ thẩm sẽ dẫn đến phát sinh tranh chấp về phân chia tài sản chung. Do
đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của bà L
giao di sản thừa kế là quyền sử dụng thửa đất số 405, tờ bản đồ số 43 và tài sản
gắn liền với đất cho bà Lê Thị Xuân L và buộc bà L thanh toán giá trị di sản cho
các thừa kế còn lại; cụ thể:
+ Phải thanh toán cho thừa kế của ông Lê Văn C1 (gồm bà Võ Thị Thanh
M, anh Lê Chí C) số tiền 329.637.000 đồng;
+ Phải thanh toán cho thừa kế của bà Lê Thị Kim H4 (gồm bà Nguyễn Thị
Thùy T1, ông Nguyễn Văn Minh H1, Nguyễn Văn Minh T2 và ông Nguyễn Văn
Minh D); tuy nhiên, ông D chồng bà Hòa đồng Ý giao lại cho các con; nên ông
P có trách nhiệm thanh toán cho bà Nguyễn Thị Thùy T1, ông Nguyễn Văn
Minh H1 và Nguyễn Văn Minh T2 tổng số tiền 329.637.000 đồng;
+ Phải thanh toán cho bà Lê Thị Thu H số tiền 329.637.000 đồng;
+ Phải thanh toán cho bà Lê Thị Thu T3 số tiền 329.637.000 đồng;
+ Phải thanh toán cho bà Lê Thị Thu T4 số tiền 329.637.000 đồng;
+ Phải thanh toán cho bà Lê Thị Hoài N số tiền 329.637.000 đồng;
+ Phải thanh toán cho ông Lê Văn P số tiền 329.637.000 đồng;
+ Phải thanh toán cho bà Lê Thị Xuân H3 số tiền 357.052.500 đồng.
[2.4] Tại phiên tòa phúc thẩm, bà Lê Thị Thu T3, bà Lê Thị Hoài N đồng
ý nhường phần di sản của mình được hưởng chuyển qua cho bà Lê Thị Xuân H3
nên Hội đồng xét xử ghi nhận. Do đó, ông P và bà L không phải có trách nhiệm
thanh toán cho bà N, bà T3; ông P, bà L phải có trách nhiệm thanh toán đối với
phần giá trị di sản của bà T3, bà N đáng ra được hưởng cho người nhận là bà
H3; cụ thể:
Ông P phải thanh toán cho bà Lê Thị Xuân H3 tổng số tiền (193.000.000
đồng x 3 (suất của bà H3, bà T3, bà N) = 579.000.000 đồng;
15
Bà L phải thanh toán cho bà Lê Thị Xuân H3 tổng số tiền 357.052.500
đồng (suất của bà H3) + 329.637.000 đồng x 2 (suất của bà N, bà T3) =
1.016.326.500 đồng.
[2.5] Sau khi khấu trừ nghĩa vụ thanh toán giá trị di sản thừa kế của ông P
và bà L thì bà L phải có nghĩa vụ thanh toán cho ông P số tiền chênh lệch là:
329.637.000 đồng – 193.000.000 đồng = 136.637.000 đồng.
[2.6] Xét yêu cầu kháng cáo của bà Lê Thị Xuân L, bà Lê Thị Thu H, bà
Lê Thị Thu T4, bà Võ Thị Thanh M, ông Lê Chí C về việc hủy giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 404, tờ bản đồ số 43 cấp cho ông Lê Văn
P:
Như đã phân tích ở trên, thửa đất 404, tờ bản đồ số 43 được chia cho ông
Lê Văn P quản lý và sử dụng; ông P có trách nhiệm thanh toán giá trị di sản cho
các thừa kế còn lại của cụ S, cụ T5. Do vậy, không cần thiết phải hủy giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho ông Lê Văn P đối với thửa đất 404. Do
vậy, Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận yêu cầu kháng cáo này của bà
Lê Thị Xuân L, bà Lê Thị Thu H, bà Lê Thị Thu T4, bà Võ Thị Thanh M và ông
Lê Chí C.
[3] Các nội dung khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng
nghị nên Hội đồng xét xử phúc thẩm không xem xét, giải quyết.
[4] Về chi phí định giá, thẩm định tại chỗ, sao lục hồ sơ và đo vẽ sơ đồ vị
trí: Tổng chi phí tố tụng là 8.575.000 đồng. Do bà L đã nộp đủ nên mỗi suất thừa
kế phải trả cho bà L số tiền 952.700 đồng.
[5] Về án phí dân sự sơ thẩm:
Người thừa kế của ông Lê Văn C1 (gồm bà Võ Thị Thanh M, anh Lê Chí
C); người thừa kế của bà Lê Thị Kim H4 (gồm bà Nguyễn Thị Thùy T1, ông
Nguyễn Văn Minh H1, ông Nguyễn Văn Minh T2); bà Lê Thị Thu H; bà Lê Thị
Thu T4 và bà B1 Lê Thị Xuân L phải chịu án phí sơ thẩm có giá ngạch đối với
phần di sản được hưởng (193.000.000 đồng + 329.637.000 đồng = 522.637.000
đồng); tương ứng mỗi suất thừa kế phải chịu số tiền án phí là: 24.905.480 đồng.
Ông Lê Văn P phải chịu án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch đối với phần
di sản được hưởng (193.000.000 đồng + 193.000.000 đồng + 329.637.000 đồng
= 715.637.000 đồng); tương ứng số tiền án phí là: 32.625.480 đồng.
Bà Lê Thị Xuân H3 phải chịu án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch đối với
phần di sản được hưởng (579.000.000 đồng + 1.016.326.500 đồng =
1.595.326.500 đồng); tương ứng số tiền án phí là: 59.859.795 đồng.
[6] Về án phí dân sự phúc thẩm:
Ông Lê Văn P, bà Nguyễn Thị Kim L1 phải chịu án phí dân sự phúc thẩm
300.000 đồng;
16
Bà Lê Thị Xuân L và bà Lê Thị Thu H, bà Lê Thị Thu T4, bà Võ Thị
Thanh M, ông Lê Chí C, bà Lê Thị Xuân H3 không phải chịu án phí dân sự phúc
thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 2 Điều 308, 309 Bộ luật tố tụng dân sự;
Không chấp nhận kháng cáo của ông Lê Văn P, bà Nguyễn Thị Kim L1
và chấp nhận một phần kháng cáo của các ông (bà): Lê Thị Xuân L và bà Lê Thị
Thu H, bà Lê Thị Thu T4, bà Võ Thị Thanh M, ông Lê Chí C, bà Lê Thị Xuân
H3.
Sửa một phần bản án dân sự sơ thẩm số 07/2024/DS-ST ngày 04/3/2024
của Tòa án nhân dân huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu; cụ thể:
Áp dụng: Các Điều 609, 613, 618, 623, 651, 652, 660 688 của Bộ luật dân
sự 2015; Điều 26, 29 Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của
Ủy ban Thường vụ Quốc Hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử
dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Đình chỉ giải quyết một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc
Hủy Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 1660, quyển 01/2021/TP/CC-
SCC/HĐGD do Văn phòng C2 chứng nhận ngày 28/4/2021 đối với diện tích đất
235m
2
, thuộc thửa đất số 404, tờ bản đồ số 43, tại xã S, huyện C đã cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Lê Văn P.
2. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị Xuân L về việc
tranh chấp di sản thừa kế đối với ông Lê Văn P, bà Nguyễn Thị Kim L1.
2.1. Xác định di sản thừa kế của cụ Lê Văn S và cụ Nguyễn Thị T5 để lại
gồm: Quyền sử dụng đất có diện tích 167m
2
, thuộc thửa đất số 404, tờ bản đồ số
43, tại xã S, huyện C có giá trị 1.930.000.000 đồng; Quyền sử dụng đất có diện
tích 272m
2
, thuộc thửa đất số 405, tờ bản đồ số 43, tại xã S, huyện C và tài sản
gắn liền với đất có tổng giá trị là: 2.994.155.000 đồng.
2.2. Chia di sản thừa kế của cụ Lê Văn S và Nguyễn Thị T5 chết để lại
theo pháp luật như sau:
2.2.1. Đối với quyền sử dụng đất có diện tích 272m2, thuộc thửa đất số
405, tờ bản đồ số 43, tại xã S, huyện C và tài sản gắn liền với thửa đất:
+ Giao cho bà Lê Thị Xuân L được quyền quản lý, sử dụng, định đoạt
quyền sử dụng đất có diện tích 272m
2
, thuộc thửa đất đất 405, tờ bản đồ số 43,
tại xã S, huyện C và tài sản gắn liền với thửa đất bao gồm 01 căn nhà 01 tầng
loại 3 và 01 mái che tôn.
17
+ Buộc bà Lê Thị Xuân L phải thanh toán giá trị di sản được hưởng cho
các thừa kế còn lại, cụ thể:
- Bà Lê Thị Xuân L phải thanh toán cho thừa kế của ông Lê Văn C1 (gồm
bà Võ Thị Thanh M, anh Lê Chí C) tổng số tiền 329.637.000đ (Ba trăm hai
mươi chín triệu sáu trăm ba mươi bảy ngàn đồng);
- Bà Lê Thị Xuân L phải thanh toán cho thừa kế của bà Lê Thị Kim H4
(gồm bà Nguyễn Thị Thùy T1, ông Nguyễn Văn Minh H1 và Nguyễn Văn Minh
T2) tổng số tiền 329.637.000đ (Ba trăm hai mươi chín triệu sáu trăm ba mươi
bảy ngàn đồng);
- Bà Lê Thị Xuân L phải thanh toán cho bà Lê Thị Thu H số tiền
329.637.000đ (Ba trăm hai mươi chín triệu sáu trăm ba mươi bảy ngàn đồng);
- Bà Lê Thị Xuân L phải thanh toán cho bà Lê Thị Thu T4 số tiền
329.637.000đ (Ba trăm hai mươi chín triệu sáu trăm ba mươi bảy ngàn đồng);
- Bà Lê Thị Xuân L phải thanh toán cho ông Lê Văn P số tiền
136.637.000đ (Một trăm ba mươi sáu triệu sáu trăm ba mươi bảy ngàn đồng);
- Bà Lê Thị Xuân L phải thanh toán cho bà Lê Thị Xuân H3 số tiền
1.016.329.000đ (Một tỷ không trăm mười sáu triệu ba trăm hai mươi chín ngàn
đồng).
2.2.2. Đối với quyền sử dụng đất có diện tích 167 m
2
, thuộc thửa đất số
404, tờ bản đồ số 43, tại xã S, huyện C:
+ Giao cho ông Lê Văn P được quyền quản lý, sử dụng, định đoạt quyền
sử dụng đất có diện tích 167m
2
, thuộc thửa đất số 404, tờ bản đồ số 43, tại xã S,
huyện C.
+ Buộc ông Lê Văn P phải thanh toán giá trị di sản được hưởng cho các
thừa kế còn lại, cụ thể:
- Ông Lê Văn P phải thanh toán cho thừa kế của ông Lê Văn C1 (gồm bà
Võ Thị Thanh M, anh Lê Chí C) tổng số tiền 193.000.000đ (Một trăm chín mươi
ba triệu đồng);
- Ông Lê Văn P phải thanh toán cho thừa kế của bà Lê Thị Kim H4 (gồm
bà Nguyễn Thị Thùy T1, ông Nguyễn Văn Minh H1 và ông Nguyễn Văn Minh
T2) tổng số tiền 193.000.000đ (Một trăm chín mươi ba triệu đồng);
- Ông Lê Văn P phải thanh toán cho bà Lê Thị Thu H số tiền
193.000.000đ (Một trăm chín mươi ba triệu đồng);
- Ông Lê Văn P phải thanh toán cho bà Lê Thị Thu T4 số tiền
193.000.000đ (Một trăm chín mươi ba triệu đồng);
- Ông Lê Văn P phải thanh toán cho bà Lê Thị Xuân H3 số tiền
579.000.000đ (Năm trăm bảy mươi chín triệu đồng).
18
3. Ông Lê Văn P, bà Lê Thị Xuân L được quyền liên hệ cơ quan nhà nước
có thẩm quyền để được đăng ký biến động sang tên quyền sử dụng đất, tài sản
gắn liền với thửa đất được phân chia ở trên theo quy định của pháp luật.
4. Không chấp nhận yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số
CA 977080 do UBND huyện C cấp ngày 05/11/2015 cho ông Lê Văn P với diện
tích 167 m
2
, thuộc thửa đất số 404, tờ bản đồ số 43, tại xã S, huyện C, tỉnh Bà
Rịa - Vũng Tàu.
5. Về chi phí tố tụng:
Mỗi suất thừa kế gồm: Thừa kế của ông Lê Văn C1 (gồm bà Võ Thị
Thanh M, anh Lê Chí C); thừa kế của bà Lê Thị Kim H4 (gồm bà Nguyễn Thị
Thùy T1, ông Nguyễn Văn Minh H1 và ông Nguyễn Văn Minh T2); bà Lê Thị
Thu H; bà Lê Thị Thu T4; ông Lê Văn P phải trả lại cho bà Lê Thị Xuân L số
tiền 952.700đ (Chín trăm năm mươi hai ngàn bảy trăm đồng).
Bà Lê Thị Xuân H3 phải trả lại cho bà Lê Thị Xuân L số tiền 2.858.000đ
(Hai triệu tám trăm năm mươi tám ngàn đồng).
6. Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án, hàng tháng bên phải thi hành án
còn phải trả cho bên được thi hành án một khoản tiền lãi theo mức lãi suất quy
định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự tương ứng với thời gian chưa thi hành
án.
7. Về án phí dân sự sơ thẩm:
Mỗi suất thừa kế gồm: Thừa kế của ông Lê Văn C1 (gồm bà Võ Thị
Thanh M, anh Lê Chí C); thừa kế của bà Lê Thị Kim H4 (gồm bà Nguyễn Thị
Thùy T1, ông Nguyễn Văn Minh H1, Nguyễn Văn Minh T2); bà Lê Thị Thu H
và bà Lê Thị Thu T4 phải chịu án phí dân sự sơ thẩm 24.905.480đ (Hai mươi
bốn triệu chín trăm linh năm ngàn bốn trăm tám mươi đồng).
Bà Lê Thị Xuân L phải chịu án phí dân sự sơ thẩm 24.905.480đ (Hai
mươi bốn triệu chín trăm linh năm ngàn bốn trăm tám mươi đồng); được khấu
trừ vào số tiền 5.556.000 đồng và 300.000 đồng đã nộp tại Chi cục Thi hành án
dân sự huyện Châu Đức theo biên lai thu tiền án phí lệ phí số 0005950 ngày
16/01/2019 và số 0000928 ngày 14/3/2023, nên còn phải nộp 19.049.480đ
(Mười chín triệu không trăm bốn mươi chín ngàn bốn trăm tám mươi đồng).
Ông Lê Văn P phải chịu án phí dân sự sơ thẩm 32.625.480đ (Ba mươi hai
triệu sáu trăm hai mươi lăm ngàn bốn trăm tám mươi đồng).
Bà Lê Thị Xuân H3 phải chịu án phí dân sự sơ thẩm 59.859.795đ (Năm
mươi chín triệu tám trăm năm mươi chín ngàn bảy trăm chín mươi lăm đồng).
8. Về án phí dân sự phúc thẩm:
Ông Lê Văn P, bà Nguyễn Thị Kim L1 phải chịu án phí dân sự phúc thẩm
300.000đ (Ba trăm ngàn đồng); được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí phúc
thẩm đã nộp 300.000 đồng theo biên lai thu tiền số 0001996 ngày 02/4/2024 của
Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Đức; ông P, bà L1 đã nộp xong.
19
Hoàn trả lại số tiền tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp 300.000đ (Ba trăm
ngàn đồng) cho bà Lê Thị Xuân L theo biên lai thu tiền số 0001992 ngày
02/4/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Đức.
Hoàn trả lại số tiền tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp 300.000đ (Ba trăm
ngàn đồng) cho bà Lê Thị Thu H, bà Lê Thị Thu T4, bà Võ Thị Thanh M, ông
Lê Chí C theo biên lai thu tiền số 0001993 ngày 02/4/2024 của Chi cục Thi hành
án dân sự huyện Châu Đức.
Hoàn trả lại số tiền tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp 300.000đ (Ba trăm
ngàn đồng) cho bà Lê Thị Xuân H3 theo biên lai thu tiền số 0001999 ngày
03/4/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Đức.
9. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án (ngày
24/12/2024).
10. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2
Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành
án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện
thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b
và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định
tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
(Kèm theo là Mảnh trch đo địa chnh của Chi nhánh Văn phòng Đăng ký
đất đai huyện C xác nhận ngày 28/12/2023)
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh BR-VT;
- TAND huyện Châu Đức;
- VKSND huyện Châu Đức;
- Chi cục THADS huyện Châu Đức;
- Các đương sự;
- Lưu: Hồ sơ, Tòa DS, VP.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Cao Xuân Long
Tải về
Bản án số 274/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 274/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 06/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 18/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 07/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 29/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 07/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Bản án số 610/2024/DS-PT ngày 30/09/2024 của TAND TP. Hà Nội về tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 28/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 27/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 27/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 27/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 27/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 26/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 26/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 26/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm