Bản án số 66/2025/DS-PT ngày 19/02/2025 của TAND tỉnh Cà Mau về tranh chấp về thừa kế tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 66/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 66/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 66/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 66/2025/DS-PT ngày 19/02/2025 của TAND tỉnh Cà Mau về tranh chấp về thừa kế tài sản |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp về thừa kế tài sản |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Cà Mau |
Số hiệu: | 66/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 19/02/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | bà yêu cầu những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông K và đang ở trên đất gồm bà Phan Thị N sinh năm 1959 (mẹ ông K), bà Bùi Ánh T1 (vợ ông K), anh Trần Duy K2 và Trần Duy K1 (con ông K) phải giao cho bà quản lý, sử dụng ½ diện tích phần đất ông Trần Văn K3 để lại, không yêu cầu nhận giá trị đất |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH CÀ MAU
Bản án số: 66/2025/DS-PT
Ngày 19 - 02 - 2025
(V/v tranh chấp chia thừa kế)
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANHNƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT
NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Ninh Quang Thế
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Thành Lập
Ông Đặng Minh Trung
- Thư ký phiên tòa: Bà Hứa Như Nguyện là Thư ký Tòa án nhân dân
tỉnh Cà Mau.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau tham gia phiên tòa:
Ông Bùi Trung Biển – Kiểm sát viên.
Trong các ngày 13,19 tháng 02 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh
Cà Mau xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 549/2024/TLPT-
DS ngày 28 tháng 11 năm 2024 về tranh chấp chia thừa kế.
Do bản án dân sự sơ thẩm số 178/2024/DS-ST ngày 24 tháng 9 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện Cái Nước bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 402/2024/QĐ-PT
ngày 20 tháng 12 năm 2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Trần Bích T, sinh năm 1986; Địa chỉ cư trú: Ấp B, xã
L, huyện C, tỉnh Cà Mau (Có mặt).
- Bị đơn: Ông Trần Minh K, sinh năm 1978 Cư trú: Ấp B, xã L, huyện
C, tỉnh Cà Mau (đã chết).
Người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của ông Trần Minh K:
1. Bà Bùi Ánh T1, sinh năm 1982. Địa chỉ cư trú: Ấp B, xã L, huyện C,
tỉnh Cà Mau (Có mặt).
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của bà T1: Ông Nguyễn Văn T2, là
Luật sư thuộc văn phòng Luật sư Ngô Đình C thuộc đoàn Luật sư tỉnh C (Có
mặt).
2. Bà Phan Thị N, sinh năm 1959. Địa chỉ cư trú: Ấp B, xã L, huyện C,
tỉnh Cà Mau.
Người đại diện theo uỷ quyền cho bà Phan Thị N: Ông Bùi Minh B, sinh
năm 1950. Địa chỉ cư trú: Ấp B, xã L, huyện C, tỉnh Cà Mau (Có mặt).
3. Cháu Trần Duy K1, sinh năm 2011. Địa chỉ cư trú: Ấp B, xã L, huyện
C, tỉnh Cà Mau.
Người giám hộ cho cháu K1: Bà Bùi Ánh T1, sinh năm 1981. Địa chỉ cư
trú: Ấp B, xã L, huyện C, tỉnh Cà Mau (Có mặt).
4. Anh Trần Duy K2, sinh năm 2002. Địa chỉ cư trú: Ấp B, xã L, huyện
C, tỉnh Cà Mau.
Người đại diện theo uỷ quyền cho anh Trần Duy K2: Ông Phan Văn L,
sinh năm 1970; Địa chỉ cư trú: Ấp B, xã L, huyện C, tỉnh Cà Mau (Có mặt).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Nguyễn Thị Ánh N1, sinh năm 1969 .
Người đại diện theo uỷ quyền cho bà Nguyễn Thị Ánh N1: Bà Trần Bích
T, sinh năm 1986 (là nguyên đơn trong vụ án) theo văn bản ủy quyền ngày
13/01/2025 (Có mặt).
2. Ông Trần Văn T3, sinh năm 1952 (Có mặt).
3. Bà Dương Thị L1, sinh năm 1938.
Người đại diện theo uỷ quyền cho bà Dương Thị L1: Ông Trần Văn T3,
sinh năm 1952 (Có mặt).
4. Ông Trần Ngọc H, sinh năm 1994.
Người đại diện theo uỷ quyền cho ông Trần Ngọc H: Bà Trần Bích T, sinh
năm 1986 (là nguyên đơn trong vụ án) (Có mặt).
Người có liên quan và đại diện của họ cùng địa chỉ cư trú: Ấp B, xã L,
huyện C, tỉnh Cà Mau.
- Người kháng cáo: Bà Bùi Ánh T1 là ngươi thừa kế tố tụng của bị đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Nguyên đơn bà Trần Bích T trình bày: Cha của bà là ông Trần Văn K3
sinh năm 1953, mẹ bà là Nguyễn Thị Ánh N1 chung sống với nhau như vợ
chồng vào năm 1985 không có đăng ký kết hôn. Ông Trần Văn K3 chết ngày
29/12/2019 không để lại di chúc. Các con của ông K3 gồm có Trần Minh K sinh
năm 1978, Trần Bích T sinh năm 1986. Tài sản ông K3 để lại gồm có phần đất
diện tích theo đo đạc thực tế là 7.377,7m
2
tọa lạc ấp B, xã L, huyện C, tỉnh Cà
Mau. Phần đất đã có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do ông Trần Văn K3
đứng tên. Sau khi ông K3 chết thì phần đất trên do vợ và con của ông K quản lý,
sử dụng. Nay bà yêu cầu chia thừa kế đối với phần đất nêu trên, bà yêu cầu
được nhận ½ diện tích phần đất vị trí phía bên phải tính từ hướng lộ bê tông đến
hậu đất theo đo đạc thực tế thể hiện tại các cạnh M8M12M6M7 tại bản Trích đo
hiện trạng ngày 21/3/2022 của Công ty TNHH MTV T6. Do trước đây phần đất
trên do ông K và gia đình của ông K quản lý, sử dụng. Ông Trần Minh K chết
ngày 14/6/2021 nên nay bà thay đổi yêu cầu khởi kiện, bà yêu cầu những người
thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông K và đang ở trên đất gồm bà Phan Thị N
sinh năm 1959 (mẹ ông K), bà Bùi Ánh T1 (vợ ông K), anh Trần Duy K2 và
Trần Duy K1 (con ông K) phải giao cho bà quản lý, sử dụng ½ diện tích phần
đất ông Trần Văn K3 để lại, không yêu cầu nhận giá trị đất.
Bà Bùi Ánh T1 trình bày: Phần đất tranh chấp ông Trần Văn K3 đã được
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 1998. Đến năm 2008 ông K3 cho
ông K 01 công đất mặt tiền, khi cho có làm giấy tay có ông Trần Văn T3 ký
chứng kiến. Đến năm 2012 ông K3 giao toàn bộ phần đất còn lại cho ông K
quản lý, canh tác. Thời điểm đó ông K3 có thế chấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất để vay tiền ngân hàng số tiền 30.000.000 đồng. Năm 2015 ông K đã bỏ
tiền ra trả nợ ngân hàng thay cho ông K3 và lấy giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất về nên ông K3 đã cho ông K toàn bộ phần đất nếu trên, khi giao có làm giấy
tay có bà Ngô Thị T4 và ông Phan Văn L ký chứng kiến. Do đó bà không đồng
ý toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn vì phần đất nêu trên ông K3 đã làm
giấy cho ông K và ông K đã bỏ tiền ra trả nợ ngân hàng cho ông K3.
Ông Bùi Minh B là đại diện theo ủy quyền của người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan bà Phan Thị N thống nhất lời trình bày của bà T1, không có bổ
sung gì thêm.
Ông Phan Văn L là đại diện theo ủy quyền của cháu Trần Duy K2 thống
nhất lời trình bày của bà T1, không có bổ sung gì thêm.
Ông Trần Văn T3 là đại diện theo uỷ quyền cho bà Dương Thị L2 trình
bày: Bà L2 là mẹ ruột của ông K3, do ông K3 chết không để lại di chúc nên bà
L2 thống nhất giao kỷ phần thừa kế được hưởng cho cháu của bà là bà T để đảm
bảo bà T nhận được ½ di sản thừa kế của ông K3 để lại theo như yêu cầu khởi
kiện của bà T.
Bà Trần Bích T là đại diện theo uỷ quyền cho ông Trần Ngọc H trình bày:
ông H là con nuôi của ông K3 thể hiện tại giấy khai sinh của ông H. Do ông K3
chết không để lại di chúc nên ông H thống nhất giao kỷ phần thừa kế được
hưởng cho bà T để đảm bảo bà T nhận được ½ di sản thừa kế của ông K3 để lại
theo như yêu cầu khởi kiện của bà T.
Từ nội dung trên, tại Bản án dân sự sơ thẩm số 178/2024/DS-ST ngày 24
tháng 9 năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện Cái Nước Quyết định:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trần Bích T đối với ông Trần Minh
K về việc “Chia thừa kế quyền sử dụng đất”.
Chia cho bà Dương Thị L1, ông Trần Ngọc H, bà Trần Bích T phần diện
tích đất 3.133,4m
2
thể hiện tại các cạnh M6M7M8M9M12 trong Bản vẽ hiện
trạng ngày 21/3/2022 của Công ty TNHH T6. Chấp nhận sự tự nguyện của bà
Dương Thị L1, ông Trần Ngọc H về việc giao toàn bộ phần đất diện tích đất
3.133,4m
2
trên cho bà Trần Bích T quản lý, sử dụng. Buộc bà Bùi Ánh T1 phải
giao lại phần đất diện tích đất 3.133,4m
2
thể hiện tại các cạnh
M6M7M8M9M12 trong Bảng vẽ hiện trạng ngày 21/3/2022 của Công ty TNHH
T6 cho bà Trần Bích T quản lý, sử dụng. Phần đất tọa lạc tại ấp B, xã L, huyện
C, tỉnh Cà Mau.
Giao phần đất diện tích 2.948,2m
2
thể hiện tại các cạnh
M1M2M3M4M5M6M11M12 trong Bảng vẽ hiện trạng ngày 21/3/2022 của
Công ty TNHH T6 lại cho những người thừa kế của ông Trần Minh K là bà Bùi
Ánh T1, bà Phan Thị N, anh Trần Duy K2, cháu Trần Duy K1 tiếp tục quản lý
sử dụng. Phần đất tọa lạc tại ấp B, xã L, huyện C, tỉnh Cà Mau.
Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về chi phí tố tụng, án phí và quyền kháng
cáo của các đương sự theo quy định.
Ngày 05/10/2024 bà T1 kháng cáo bản án sơ thẩm yêu cầu cấp phúc thẩm
không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Tại phiên toà phúc thẩm
Bà T1 không cung cấp thêm chứng cứ mới và cùng Luật sư bảo vệ quyền
lợi của mình cho rằng ông K là người quản lý đất có cải tạo làm tăng giá trị đất
cụ thể là tăng diện tích đất trong giấy chứng nhận QSDĐ từ 5.200m
2
lên
7.377,7m
2
, giấy chứng nhận QSDĐ cụ K3 thế chấp ngân hàng vợ chồng ông K
bỏ tiền ra chuộc về, ông H tuy là con nuôi nhưng giấy khai sinh không đúng
năm sinh và tên mẹ nhưng phía bà T1 không đặt ra, ông K3 đã có hai giấy cho
đất cho ông K toàn bộ phần đất này, nên kiến nghị HĐXX phân chia thừa kế
cho phía ông K bà T1 nhiều hơn cụ thể là thêm phần đất chôn cụ K3 kéo dài đến
hết hậu đất, về giá trị đất hiện tại theo thực tế toàn bộ phần đất khoảng
800.000.000đ.
Bà T cho rằng bà là con nhưng đi làm xa nên hàng tháng có gởi tiền về
người anh bà con lo cho cha, đất này là đất của cha nên bà yêu cầu chia đôi
phần đất của cha để lại, bà chỉ yêu cầu chia đôi như án sơ thẩm không yêu cầu
gì thêm, về giá trị đất theo giá trị thẩm định không ít hơn giá trị đó.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau phát biểu quan điểm: Về tố
tụng HĐXX và các đương sự chấp hành đúng quy định của bộ luật TTDS. Về
nội dung kiến nghị nghị HĐXX căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự
chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của bà T1 sửa bản án dân sự sơ thẩm số
178/2024/DS-ST ngày 24 tháng 9 năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện Cái
Nước theo hướng chia cho bà T phần đất có phần mộ của cụ K3 với diện tích
3.038,8m
2
, phía ông K phần đất còn lại có diện tích 4.338,9m
2
.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về hình thức, về nội dung và thời hạn kháng cáo được bà T1 thực hiện
đúng quy định tại các Điều 272, 273 Bộ luật TTDS, nên HĐXX xem xét yêu
cầu kháng cáo của bà theo trình tự phúc thẩm. Về thẩm quyền, cấp sơ thẩm xác
định đúng thẩm quyền và thụ lý giải quyết đúng quy định tại Điều 26, 35 Bộ
luật TTDS.
[2] Xét kháng cáo của bà T1: Tại phiên tòa bà T1 và Luật sư bảo vệ
quyền lợi cho bà cho rằng toàn bộ phần đất của cụ K3 để lại, trước khi qua đời
vào năm 2008 và 2018 cụ K3 đã cho toàn bộ phần đất này cho ông K thể hiện
tại giấy cho đất ngày 07/7/2008 (BL 207, 171) cho 1.300m
2
đất thổ cư mặt tiền
có xác nhận của trưởng ấp là ông Trần Văn T3, ngày 07/10/2018 (BL 205, 172)
cụ K3 cho tiếp phần đất còn lại, lần này giấy tặng cho không có xác nhận của
chính quyền, nên toàn bộ phần đất của cụ K3 để lại không phải là di sản thừa kế.
HĐXX xem xét hai hợp đồng cho đất nêu trên, nhận thấy đối với hợp đồng cho
đất ngày 07/7/2008 tuy chỉ là hợp đồng viết tay nhưng được chính quyền địa
phương xác nhận việc tặng cho này. Tuy hai bên chưa làm hồ sơ để tách QSDĐ
nhưng cụ K3 đã giao đất cho ông K sử dụng từ năm 2008 đến nay, ngoài ra ông
K đã bỏ tiền ra hơn 11.000.000đ chuộc đất thế chấp từ Ngân hàng về để sử
dụng. Sau khi cụ K3 mất ông K chôn cất cụ K3 trên phần đất này, nên việc tặng
cho này là phù hợp quy định của pháp luật được xem xét chấp nhận, vị trí phần
đất được tặng cho này được thể hiện tại thửa số 1, 2 theo bản vẽ hiện trạng ngày
21/03/2022 do Công ty TNHH MTV T6 xác lập. Còn đối với hợp đồng tặng cho
ngày 07/10/2018 không có người làm chứng và không có chính quyền địa
phương xác nhận, nên việc tặng cho này là chưa đảm bảo về mặt thủ tục quy
định của pháp luật về việc tặng cho. Do đó việc tặng cho này không được chấp
nhận, đồng nghĩa phần đất này là di sản thừa kế của cụ K3 để lại và được phân
chia theo quy định của pháp luật, cụ thể tổng diện tích theo đo vẽ có diện tích
7.377,7m
2
– 1.300m
2
đã cho, còn lại phần đất là di sản thừa kế có diện tích
6.077,7m
2
có vị trí tại thửa số 3, 4 theo bản vẽ hiện trạng ngày 21/03/2022 do
Công ty TNHH MTV T6 xác lập.
Về hàng thừa kế và người được hưởng thừa kế cấp sơ thẩm xác định đúng
nên HĐXX phúc thẩm không điều chỉnh lại.
Về kỷ phần được nhận: Theo đơn khởi kiện cũng như trong suốt quá trình
giải quyết tại cấp sơ thẩm và tại phiên tòa phúc thẩm, bà T yêu cầu chia thừa kế
và được nhận ½ diện tích đất của cụ K3 để lại, không yêu cầu nhiều hơn. Đối
với bà L1, ông H xác định không nhận tài sản thừa kế mà giao kỷ phần thừa kế
được hưởng cho bà T để đảm bảo cho bà T được hưởng ½ giá trị di sản của cụ
K3 để lại. Như vậy giới hạn yêu cầu khởi kiện của bà T cũng như việc giao kỷ
phần thừa kế của bà L1 với ông H cho bà T chỉ trong phạm vi ½ giá trị di sản
của cụ K3 để lại. Nên HĐXX chấp nhận yêu cầu phân chia thừa kế của bà T và
phân chia phần đất cụ K3 để lại cho bà T và phía ông K mỗi bên 50% là phù
hợp.
Như nhận định trên diện tích đất là di sản thừa kế của cụ K3 để lại còn
6.077,7m
2
chia hai mỗi bên được hưởng 3.038,8m
2
. Lẽ ra phần đất chia thừa kế
có vị trí tại thửa số 3, 4 theo bản vẽ. Tuy nhiên do cụ K3 hiện được chôn cất
trên vị trí đất đã tặng cho ông K, hiện ông K đã mất, bà T là con duy nhất của cụ
K3 cần được trực tiếp quản lý mồ mả và thờ cúng cụ K3. Nên khi phân chia đất
cần giao phần đất có ngôi mộ cụ K3 cho bà T quản lý chăm sóc, vì vậy HĐXX
điều chỉnh lại ranh đất mà cấp sơ thẩm đã phân chia, cụ thể là đoạn M6M12 tịnh
tiến về phía đoạn M7M8 theo bản vẽ hiện trạng bổ sung ngày 17/02/2025 sao
cho đảm bảo phần đất phân chia cho bà T có ngôi mộ của cụ K3 và phần đất
phân chia cho phía ông K có diện tích 1.300m
2
+ 3.038,9m
2
= 4.338,9m
2
. Vì vậy
HĐXX sửa một phần án sơ thẩm và điều chỉnh lại cách tuyên án về việc giao
đất thẳng cho bà T không thông qua bà L1, ông H vì bà L1, ông H đã thể hiện
có lời khai cho bà T kỷ phần thừa kế mà mình được hưởng.
Đối với bà N, bà T1, anh K2 và cháu K1 ngoài tư cách là người thừa kế tố
tụng của ông K thì những người này còn có tư cách tố tụng là người có quyền
lợi nghĩa vụ liên quan, cấp sơ thẩm thiếu sót vấn đề này. Tuy nhiên quá trình tố
tụng họ đều có tham gia, có lời trình bày và biết được kết quả xét xử, nên thiếu
sót này không ảnh hưởng đến quyền lợi của họ, mặt khác cháu K1 chưa được 16
tuổi nên quyền và nghĩa vụ của cháu do bà T1 đại diện.
Quan điểm của đại diện VKS tham gia phiên tòa phù hợp với nhận định
của HĐXX.
[3] Về án phí: Án phí sơ thẩm được điều chỉnh lại cho phù hợp với việc
phân chia và người được hưởng thừa kế, các đương sự phải chịu án phí có giá
ngạch trên số di sản được nhận. Án phí phúc thẩm bà T1 không phải chịu theo
quy định tại điều 148 Bộ luật TTDS.
[4] Các phần khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị
cấp phúc thẩm không xem xét đến.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 2 Điều 308; Điều 148. 309 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị
quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc
hội quy định án phí, lệ phí Tòa án. Chấp nhận một phần kháng cáo của bà Bùi
Ánh T1. Sửa bản án dân sự sơ thẩm số 178/2024/DS-ST ngày 24 tháng 9 năm
2024 của Tòa án nhân dân huyện Cái Nước. Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trần Bích T về việc yêu cầu “Chia
thừa kế quyền sử dụng đất” của cụ Trần Văn K3 để lại, tại ấp B, xã L, huyện C,
tỉnh Cà Mau. Cụ thể phân chia như sau:
- Bà Trần Bích T được chia và quản lý, sử dụng phần đất có diện tích đất
3.038,8m
2
thể hiện tại các cạnh M6M7M8M9M12 theo bản vẽ hiện trạng bổ
sung ngày 17/02/2025 của Công ty TNHH T6 là di sản của cụ Trần Văn K3 để
lại.
- Những người thừa kế của ông Trần Minh K là bà Nguyễn Ánh T5, bà
Phan Thị N, anh Trần Duy K2 được tiếp tục quản lý sử dụng phần đất có diện
tích 4.338,9m
2
thể hiện tại các cạnh M1M2M3M4M5M6M11M12 theo bản vẽ
hiện trạng bổ sung ngày 17/02/2025 của Công ty TNHH T6 là di sản của cụ
Trần Văn K3 để lại.
(Kèm theo hai sơ đồ bản vẽ của Công ty TNHH T6 ngày 21/3/2022 và
17/02/2025).
2. Buộc bà Nguyễn Ánh T5, bà Phan Thị N, anh Trần Duy K2 có trách
nhiệm giao lại phần đất diện tích đất 3.038,8m
2
thể hiện tại các cạnh
M6M7M8M9M12 theo bản vẽ hiện trạng bổ sung ngày 17/02/2025 của Công ty
TNHH T6 (Nêu trên) cho bà Trần Bích T quản lý, sử dụng.
3. Chi phí tố tụng: Bà Trần Bích T; và phía bà Nguyễn Ánh T5, bà Phan
Thị N, anh Trần Duy K2 mỗi bên phải chịu 1/2 chi phí tố tụng bao gồm chi phí
đo đạc, định giá tổng cộng là 25.558.500 đồng. Do bà T đã nộp xong nên phía
bà T5, bà N, anh K2 phải trả lại cho bà T số tiền 12.779.200 đồng (Mười hai
triệu bảy trăm bảy mươi chín nghìn hai trăm đồng).
Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, người
phải thi hành án không thi hành khoản tiền nêu trên thì người phải thi hành án
phải trả lãi đối với số tiền chậm thi hành theo quy định tại Điều 357 và Điều
468 Bộ luật dân sự.
4. Về án phí dân sự:
- Án phí sơ thẩm: Bà Trần Bích T phải chịu 29.244.800 đồng, ngày 22
tháng 3 năm 2022 bà đã nộp tạm ứng 10.000.000 đồng theo biên lai thu số
0006244 được đối trừ, bà phải nộp tiếp số tiền 19.244.800 đồng.
Bà Nguyễn Ánh T5, bà Phan Thị N, anh Trần Duy K2 cùng nhau phải
chịu 39.032.900 đồng.
- Án phí phúc thẩm: Bà Bùi Ánh T1 không phải chịu ngày 22 tháng 10
năm 2024 bà đã nộp tạm ứng 300.000 đồng theo biên lai thu số 0018778 được
hoàn lại.
5. Các phần khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có
hiệu lực kể từ khi hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành
án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật
Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều
30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
- Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau;
- Tòa án nhân dân huyện Cái Nước;
- Chi cục THADS huyện Cái Nước;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ;
- Lưu án văn.
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Ninh Quang Thế
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 12/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 23/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 22/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Bản án số 35/2025/DS-PT ngày 20/01/2025 của TAND cấp cao tại Hà Nội về tranh chấp về thừa kế tài sản
Ban hành: 20/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 20/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 17/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 16/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 16/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 15/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 14/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 10/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 10/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 09/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Bản án số 17/2025/DS-PT ngày 09/01/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp về thừa kế tài sản
Ban hành: 09/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 07/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 06/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Bản án số 01/2025/DS-PT ngày 02/01/2025 của TAND cấp cao tại Hà Nội về tranh chấp về thừa kế tài sản
Ban hành: 02/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 31/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 31/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm