Bản án số 53/2025/DS-PT ngày 12/02/2025 của TAND tỉnh Cà Mau về tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 53/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 53/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 53/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 53/2025/DS-PT ngày 12/02/2025 của TAND tỉnh Cà Mau về tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Cà Mau |
Số hiệu: | 53/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 12/02/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Ông T có yêu cầu địa phương hòa giải nhưng không thành, vì vậy ông T khởi kiện yêu cầu chia thừa kế phần đất diện tích 2.845m2 tọa lạc tại ấp B, xã H, thành phố C, tỉnh Cà Mau theo quy định pháp luật. |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU
Bản án số: 53/2025/DS-PT
Ngày 12 – 02– 2025
V/v chia di sản thừa kế là quyền
sử dụng đất
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Thành Lập
Các Thẩm phán: Ông Đặng Minh Trung
Ông Ninh Quang Thế
- Thư ký phiên tòa: Bà Hứa Như Nguyện - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh Cà
Mau.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau tham gia phiên toà: Ông
Nguyễn Văn Điện – Kiểm sát viên.
Ngày 12 tháng 02 năm 2025 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau xét xử
phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 476/2024/TLPT-DS ngày 07 tháng 11
năm 2024 về việc tranh chấp chia di sản thừa kế là quyền sử dụng đất.
Do bản án dân sự sơ thẩm số: 327/2024/DS-ST ngày 17 tháng 9 năm 2024
của Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 357/2024/QĐ-PT ngày 25
tháng 11 năm 2024 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Phạm T, sinh năm 1954 (Có mặt);
Địa chỉ cư trú: Ấp B, xã H, thành phố C, tỉnh Cà Mau.
- Bị đơn:
1. Ông Nguyễn Văn K, sinh năm 1956 (Có mặt);
2. Bà Trương Thị N, sinh năm 1958 (Có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt);
Cùng địa chỉ cư trú: Ấp B, xã H, thành phố C, tỉnh Cà Mau.
Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của ông Nguyễn Văn K: Ông Nguyễn
Văn N1, là Luật sư của Văn phòng L3 - thuộc Đoàn Luật sư tỉnh C (Có mặt).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Nguyễn Hoàng N2, sinh năm 1951 (Vắng mặt);
2. Ông Nguyễn Văn S, sinh năm 1953 (Vắng mặt);
Cùng địa chỉ cư trú: Ấp B, xã H, thành phố C, tỉnh Cà Mau.
3. Bà Nguyễn Hồng T1, sinh năm 1959 (Vắng mặt);
Địa chỉ cư trú: Ấp C, xã H, thành phố C, tỉnh Cà Mau.
4. Bà Nguyễn Tuyết L, sinh năm 1962 (Vắng mặt);
5. Ông Nguyễn Văn T2 (Vắng mặt);
6. Ông Nguyễn Hoàng A (Vắng mặt);
7. Bà Nguyễn Yến H (Vắng mặt);
8. Ông Nguyễn Văn H1 (Vắng mặt);
Cùng địa chỉ cư trú: Ấp X, xã H, thành phố C, tỉnh Cà Mau.
9. Bà Nguyễn Thị H2 (Vắng mặt);
Địa chỉ cư trú: Ấp L, xã A, huyện Đ, tỉnh Bạc Liêu (vắng mặt).
10. Ông Phạm Minh T3 (Vắng mặt);
11. Bà Phạm Thị N3, sinh năm 1967 (Vắng mặt);
12. Bà Nguyễn Hồng V, sinh năm 1966 (Vắng mặt);
13. Anh Phạm Minh S1, sinh năm 1993 (Vắng mặt)
14. Anh Phạm Tuấn V1, sinh năm 1996 (Vắng mặt);
Cùng địa chỉ cư trú: Ấp X, xã H, thành phố C, tỉnh Cà Mau.
15. Chị Phạm Xuân T7, sinh năm 1992 (Vắng mặt);
Địa chỉ cư trú: Ấp T, xã P, huyện P, tỉnh Cà Mau
- Người kháng cáo: Ông Nguyễn Văn K và bà Trương Thị N, là bị đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
- Theo ông Phạm T trình bày:
Ông ngoại của ông T tên Nguyễn Thiện L1 có hai vợ: Người vợ thứ nhất tên
Tăng Thị S2, ông L1 với bà S2 có 03 người con gồm: Bà Nguyễn Thị T4 (đã chết),
ông Nguyễn Văn T5 (đã chết), bà Nguyễn Thị T6 (là mẹ của ông T, đã chết).
Người vợ thứ hai tên Võ Thị L2, ông L1 với bà L2 có 06 người con gồm: Ông
Nguyễn Hoàng N2, ông Nguyễn Văn S, ông Nguyễn Văn B (đã chết), bà Nguyễn
Hồng T1, ông Nguyễn Văn K, bà Nguyễn Tuyết L.
Lúc còn sống ông L1 với bà S2 có tạo lập được phần đất diện tích 2.845m
2
,
tọa lạc tại ấp B, xã H, thành phố C, tỉnh Cà Mau, nhưng chưa được cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất.
Bà Tăng Thị S2 chết ngày 08/6/1993, ông Nguyễn Thiện L1 chết ngày
01/6/1998, bà Võ Thị L2 chết ngày 02/9/2013, khi chết không để lại di chúc. Năm
2023, vợ chồng ông K có trao đổi với ông N2, ông S, bà T1 và bà L đồng ý để cho
vợ chồng ông K đứng tên làm giấy chứng nhận quyền sử dụng đối với phần đất
ông L1 và bà S2 để lại, sau khi làm giấy xong sẽ phân chia lại cho ông T ½ diện
tích, vì ông T thờ cúng bà Tăng Thị S2. Việc vợ chồng ông K làm giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất thì ông T không hay; sau khi vợ chồng ông K được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất thì không thực hiện việc phân chia phần đất cho
ông T như đã trao đổi. Ông T có yêu cầu địa phương hòa giải nhưng không thành,
vì vậy ông T khởi kiện yêu cầu chia thừa kế phần đất diện tích 2.845m
2
tọa lạc tại
ấp B, xã H, thành phố C, tỉnh Cà Mau theo quy định pháp luật.
- Theo ông Nguyễn Văn K trình bày:
Ông Nguyễn Văn K không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của ông T vì phần
đất diện tích 2.845m
2
tọa lạc tại ấp B, xã H, thành phố C, tỉnh Cà Mau có nguồn
gốc của cha mẹ ông là ông Nguyễn Thiện L1 và bà Võ Thị L2 tạo lập trước năm
1975, chứ không phải của ông Nguyễn Thiện L1 và bà Tăng Thị S2 như ông T
trình bày. Từ khi tạo lập phần đất này thì cha mẹ ông quản lý sử dụng đến năm
1995 tặng cho lại vợ chồng ông, vợ chồng ông đăng ký kê khai quản lý sử dụng,
đến năm 2023 được Ủy ban nhân dân thành phố C cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất diện tích 2.845m
2
, thuộc thửa số 48, tờ bản đồ số 20, tọa lạc tại ấp B, xã
H, thành phố C, tỉnh Cà Mau, việc đăng ký cấp quyền sử dụng đất cho vợ chồng
ông là hợp pháp, đúng theo quy định pháp luật.
Từ khi được cha mẹ tặng cho đất, được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng,
vợ chồng ông sử dụng ổn định liên tục không tranh chấp với ai, cũng không ai
ngăn cản hoặc đòi lại đất để chia thừa kế. Ông T yêu cầu chia thừa kế phần đất này
nhưng ông T không có tài liệu, chứng cứ chứng minh đây là di sản thừa kế, trong
khi đây là tài sản thuộc quyền sử dụng của vợ chồng ông, việc ông T khởi kiện yêu
cầu chia thừa kế là không có cơ sở nên ông không đồng ý với yêu cầu của ông T.
- Theo bà Trương Thị N trình bày:
Bà Trương Thị N và ông Nguyễn Văn K là vợ chồng, bà N thống nhất với
lời trình bày của ông K về nguồn gốc đất và quá trình quản lý sử dụng đất. Bà N
không đồng ý theo yêu cầu khởi kiện của ông T.
- Theo ông Nguyễn Hoàng N2, ông Phạm Minh T3, bà Phạm Thị N3, ông
Nguyễn Văn T2, ông Nguyễn Hoàng A và bà Nguyễn Hồng V trình bày:
Nguồn gốc phần đất tranh chấp giữa ông T với ông K, bà N trước đây là của
ông Nguyễn Thiện L1 và bà Tăng Thị S2. Do đất không có giấy tờ, ông L1 và bà
S2 chết không để lại di chúc, con cháu đông, nên các anh, em, cô chú thống nhất
để ông K đứng ra làm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, sau khi làm giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất xong giấy sẽ chia lại cho ông T ½ diện tích, vì ông T thờ
cúng bà S2 từ trước đến nay. Nhưng khi được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất thì ông K không thực hiện chia đất cho ông T nên xảy ra tranh chấp yêu cầu
phân chia thừa kế. Nếu được phân chia thừa kế, ông Nguyễn Hoàng N2, ông Phạm
Minh T3, bà Phạm Thị N3, ông Nguyễn Văn T2, ông Nguyễn Hoàng A và bà
Nguyễn Hồng V đồng ý nhận và giao lại cho ông T hưởng, ngoài ra không ý kiến
gì khác.
- Theo ông Nguyễn Văn S trình bày:
Ông Nguyễn Văn S là anh ruột ông Nguyễn Văn K, là con ông Nguyễn
Thiện L1 và bà Võ Thị L2. Theo ông được biết phần đất tranh chấp trước đây do
ông L1 và bà L2 tạo lập. Ông L1 và bà L2 chết không để lại di chúc, do khi còn
sống ông K là người nuôi dưỡng nên tiếp tục giao cho ông K quản lý sử dụng. Đến
năm 2023, ông K làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, ông có ký
vào biên bản xác minh nguồn gốc đất, từ chối nhận phần di sản thừa kế và đồng ý
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông K. Nay ông vẫn giữ nguyên ý kiến
giao phần đất này cho ông K quản lý sử dụng, trường hợp Tòa án chia thừa kế thì
ông đồng ý nhận và giao lại cho ông K hưởng. Đối với yêu cầu khởi kiện của ông
T thì ông không đồng ý.
- Theo bà Nguyễn Hồng T1, bà Nguyễn Tuyết L trình bày:
Bà Nguyễn Hồng T1 và bà Nguyễn Tuyết L là con ông Nguyễn Thiện L1 và
bà Võ Thị L2, bà L2 là vợ sau của ông L1.
Nguồn gốc phần đất tranh chấp giữa ông T với ông K, bà N trước đây là của
ông L1 và vợ trước là bà Tăng Thị S2 tạo lập, đất chưa có giấy tờ nên từ trước đến
nay không ai sử dụng canh tác trên đất.
Năm 1950, ông L1 có vợ hai là bà Võ Thị L2, ông L1 và bà L2 tạo lập chỗ ở
mới sống tại ấp B, xã H, thành phố C. Năm 1998, ông L1 chết không để lại di
chúc. Do phần đất ông L1 và vợ trước là bà Tăng Thị S2 tạo lập nhưng chưa được
cấp giấy tờ nên anh em có họp lại và thống nhất cho ông Nguyễn Văn K và vợ là
Trương Thị N đứng ra làm giấy, khi đó ông K và bà N hứa sẽ chia lại cho ông T ½
diện tích đất để thờ cúng bà Tăng Thị S2.
Năm 2023, ông K và bà N làm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo thừa
kế, nhưng từ khi được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đến nay ông K và
bà N không thực hiện chia lại cho ông T theo lời đã hứa mà lập hợp đồng để
chuyển tên sang cho con ông K và bà N thì bị ngăn cản.
Khi ông K và bà N làm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không để nguồn
gốc đất của bà Tăng Thị S2 mà để nguồn gốc đất của bà Võ Thị L2 là không đúng,
ông K không chia cho ông T là người đã nuôi dưỡng và thờ cúng bà Tăng Thị S2 là
không phù hợp, trái với với sự tin tưởng của anh em, dòng họ đã bàn bạc thống
nhất trước đó. Nay bà Nguyễn Hồng T1 và bà Nguyễn Tuyết L thống nhất chia cho
ông T ½ diện tích đất 2.845m
2
tọa lạc tại ấp B, xã H, thành phố C, tỉnh Cà Mau.
Riêng đối với phần thừa kế của bà T1 và bà L thì bà T1 và bà L từ chối nhận.
- Theo bà Nguyễn Yến H trình bày:
Bà Nguyễn Yến H xác định không liên quan gì đến vụ kiện nên từ chối làm
việc với Tòa án, từ chối nhận văn bản tố tụng và khước từ tham gia tố tụng tại vụ
án.
- Theo ông Nguyễn Văn H1 trình bày:
Phần đất tranh chấp thừa kế giữa ông T với ông K, bà N thì ông không yêu
cầu gì, ông từ chối nhận phần di sản thừa kế nêu trên.
- Theo bà Nguyễn Thị H2 trình bày:
Bà Nguyễn Thị H2 là con của ông Nguyễn Văn T5 và là chị bà con với ông
T. Về nguồn gốc phần đất tranh chấp giữa ông T với ông K, bà N thì bà không
được rõ vì khi đó bà còn nhỏ, đến khi lớn thì bà lấy chồng về sinh sống tại ấp L, xã
A, huyện Đ, tỉnh Bạc Liêu cho đến nay. Việc ông T khởi kiện yêu cầu chia thừa kế
đối với phần đất trên thì bà đồng ý, nếu bà được phân chia phần thừa kế thì bà từ
chối nhận.
- Theo anh Phạm Minh S1 và anh Phạm Tuấn V1 trình bày:
Anh Phạm Minh S1 và anh Phạm Tuấn V1 là con ông Phạm Minh C và bà
Nguyễn Hồng V. Ông C chết ngày 14/5/2021, hiện các anh đang sinh sống cùng
với bà V. Nay ông T khởi kiện yêu cầu chia thừa kế đối với phần đất tọa lạc tại ấp
B, xã H, thành phố C, tỉnh Cà Mau thì anh S1 và anh V1 thống nhất đối với yêu
cầu của ông T; trường hợp các anh được phân chia thừa kế đối với phần đất này thì
các anh từ chối nhận.
- Theo chị Phạm Thị Xuân T7 trình bày:
Chị Phạm Thị Xuân T7 là con ông Phạm Minh C và bà Nguyễn Hồng V.
Phần đất tranh chấp giữa ông T với ông K, bà N theo chị được biết có nguồn gốc
của ông Nguyễn Thiện L1 và bà Tăng Thị S2. Chị đồng ý với yêu cầu khởi kiện
chia thừa kế của ông T; trường hợp chị được phân chia thừa kế đối với phần đất
này thì chị từ chối nhận.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số: 327/2024/DS-ST ngày 17 tháng 9 năm 2024 của
Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau quyết định:
Di sản thừa kế là phần đất diện tích 2.845m
2
, thuộc thửa số 48, tờ bản đồ số
20, tọa lạc tại ấp B, xã H, thành phố C, tỉnh Cà Mau.
Chấp nhận yêu cầu của ông Phạm T, chia di sản thừa kế theo pháp luật.
Ông Phạm T được nhận phần đất diện tích 1.570,5m
2
, thuộc một phần thửa
số 48, tờ bản đồ số 20, tọa lạc tại ấp B, xã H, thành phố C, tỉnh Cà Mau, phần đất
được giới hạn bởi các mốc M1M2’M4’M5M6M7 theo bản biên tập “Trích đo hiện
trạng” ngày 11/9/2024 của Công ty trách nhiệm hữu hạn P.
Ông Nguyễn Văn K được nhận phần đất diện tích 1.274,5m
2
, thuộc một
phần thửa số 48, tờ bản đồ số 20, tọa lạc tại ấp B, xã H, thành phố C, tỉnh Cà Mau,
phần đất được giới hạn bởi các mốc M2’M2M3M4M4’ theo bản biên tập “Trích đo
hiện trạng” ngày 11/9/2024 của Công ty trách nhiệm hữu hạn P.
Buộc ông Phạm T có nghĩa vụ hoàn trả chi phí san lắp cho ông Nguyễn Văn
K và bà Trương Thị N số tiền 66.243.000 đồng.
Buộc ông Nguyễn Văn K có nghĩa vụ hoàn trả cho ông Phạm T chi phí đo
đạc, định giá số tiền 7.692.000 đồng.
Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về chi phí tố tụng, lãi suất chậm trả, án phí
và quyền kháng cáo của đương sự.
Ngày 02/10/2024, ông Nguyễn Văn K và bà Trương Thị N có đơn kháng
cáo, yêu cầu sửa bản án sơ thẩm, không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của
ông Phạm Thuần .
Tại phiên tòa phúc thẩm, ông Nguyễn Văn K giữ nguyên kháng cáo, bà
Trương Thị N vắng mặt và có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt.
Phần tranh luận tại phiên toà:
Luật sư N1 phát biểu: Nguồn gốc đất là do ông L1 và bà L2 tạo lập, đến năm
1995 ông L1 tặng cho lại ông K, ông K đứng tên mục kê năm 2009. Năm 2003,
ông K chuyển nhượng cho bà Huỳnh Thị X phần đất ngang 09m, dài 12m nhưng
không có ai ngăn cản, tranh chấp. Đến năm 2022 ông K đăng ký kê khai cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất và được cấp năm 2023, nên phần đất không còn là
di sản thừa kế như ông T yêu cầu. Từ năm 1995 ông K là người quản lý đất, sau
khi được cấp quyền sử dụng đất thì ông K đã san lấp mặt bằng. Tại biên bản xác
minh nguồn gốc đất có ông T ký tên nguồn gốc đất do ông L1, bà L2 tạo lập.
Trong vụ án có một số người liên quan không có yêu cầu độc lập, không nộp tạm
ứng án phí nhưng án sơ thẩm chia thừa kế và giao cho ông T hưởng là không phù
hợp. Do đó, kiến nghị Hội đồng xét xử cấp nhận kháng cáo của ông K, sửa bản án
sơ thẩm, không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông T.
Ông K phát biểu: Thống nhất ý kiến tranh luận của Luật sư N1 nhưng bổ
sung thêm: Năm 2003 ông chuyển nhượng cho bà Huỳnh Thị X phần đất ngang
09m, dài 12m, có các anh, chị, em thống nhất ký tên đồng ý cho ông chuyển
nhượng.
Ông T phát biểu: Không có tài liệu chứng cứ nào chứng minh phần đất do
ông L1 và bà L2 tạo lập và tặng cho ông K; yêu cầu giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau tham gia phiên toà phát biểu
quan điểm: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng
dân sự, không chấp nhận kháng cáo của ông Nguyễn Văn K và bà Trương Thị N,
giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Xét kháng cáo của ông Nguyễn Văn K và bà Trương Thị N, Hội đồng xét xử
xét thấy:
[1] Quá trình giải quyết vụ án các đương sự đều xác định ông Nguyễn Thiện
L1 có hai vợ, người vợ thứ nhất tên Tăng Thị S2 và người vợ thứ hai tên Võ Thị
L2.
[2] Về nguồn gốc đất yêu cầu phân chia thừa kế theo ông T trình bày, khi
ông L1 sống chung với bà S2, ông L1 và bà S2 có tạo lập được phần đất theo đo
đạc thực tế diện tích là 2.845m
2
, tọa lạc tại ấp B, xã H, thành phố C, tỉnh Cà Mau.
Đối với ông K và bà N cho rằng phần đất theo đo đạc thực tế diện tích là 2.845m
2
,
tọa lạc tại ấp B, xã H, thành phố C, tỉnh Cà Mau có nguồn gốc do ông L1 và bà L2
tạo lập được sau khi ông L1 và bà L2 chung sống với nhau.
[3] Xét lời trình bày của các bên đương sự về nguồn gốc đất, thấy rằng:
[3.1] Sinh thời ông Nguyễn Thiện L1 có hai vợ là thực tế, điều này đã được
các đương sự cùng thừa nhận, cụ thể người vợ thứ nhất của ông L1 tên Tăng Thị
S2, ông L1 với bà S2 có 03 người con gồm: Bà Nguyễn Thị T4, ông Nguyễn Văn
T5, bà Nguyễn Thị T6 (là mẹ của ông T); người vợ thứ hai của ông L1 tên Võ Thị
L2, ông L1 với bà L2 có 06 người con gồm: Ông Nguyễn Hoàng N2, ông Nguyễn
Văn S, ông Nguyễn Văn B, bà Nguyễn Tuyết T8, ông Nguyễn Văn K, bà Nguyễn
Tuyết L.
[3.2] Tại đơn trình bày ý kiến ngày 30/8/2024 của ông Nguyễn Hoàng N2 (là
con ông L1 và bà L2), ông Phạm Minh T3 và bà Phạm Thị N3 (là các con bà T6),
bà Nguyễn Hồng V (là vợ ông C, con bà T6), ông Nguyễn Văn T2 và ông Nguyễn
Hoàng A (là các con ông T5); Văn bản trình bày ý kiến ngày 30/8/2024 của bà
Nguyễn Hồng T1 và bà Nguyễn Tuyết L (là con ông L1 và bà L2); Bản tự khai
ngày 04/9/2024 của chị Phạm Thị Xuân T7 (là con ông C, cháu bà T6), đều xác
định nguồn gốc phần đất tranh chấp thừa kế giữa ông T với ông K và bà N có diện
tích là 2.845m
2
, thuộc thửa số 48, tờ bản đồ số 20, tọa lạc tại ấp B, xã H, thành phố
C, tỉnh Cà Mau có nguồn gốc do ông L1 và bà S2 tạo lập được trong thời gian ông
L1 và bà S2 chung sống với nhau. Lời trình bày của các đương sự nêu trên là phù
hợp với trình bày của ông K tại Văn bản trình bày ý kiến ngày 03/01/2024, thừa
nhận nguồn gốc phần đất tranh chấp thừa kế do ông L1 và bà S2 tạo lập.
[3.3] Đối với ông Nguyễn Văn S trình bày không xác định được nguồn gốc
phần đất do ông L1 và bà S2 hay ông L1 và bà L2 tạo lập. Đối với bà Nguyễn Yến
H, ông Nguyễn Văn H1 và bà Nguyễn Thị H2 (là các con ông T5), anh Phạm Minh
S1 và anh Phạm Tuấn V1 (là các con ông C, cháu bà T6) có văn bản trình bày ý
kiến về yêu cầu tranh chấp thừa kế giữa ông T với ông K và bà N, các đương sự
cũng không phản đối ý kiến của ông T cho rằng phần đất tranh chấp thừa kế diện
tích 2.845m
2
, thuộc thửa số 48, tờ bản đồ số 20, tọa lạc tại ấp B, xã H, thành phố C,
tỉnh Cà Mau có nguồn gốc do ông L1 và bà S2 tạo lập.
[3.4] Mặc khác, ông Nguyễn Hoàng N2, ông Phạm Minh T3, bà Phạm Thị
N3, ông Nguyễn Văn T2, ông Nguyễn Hoàng A, bà Nguyễn Hồng V, bà Nguyễn
Hồng T1, bà Nguyễn Tuyết L còn trình bày do đất không có giấy tờ, khi ông L1
chết không để lại di chúc, con cháu đông, nên anh, em, cô, chú thống nhất để ông
K đứng ra làm giấy chứng nhận quyền sử dụng kê khai nguồn gốc đất do ông L1
và bà L2 tạo lập để thuận tiện làm giấy chứng nhận, sau khi làm xong sẽ chia lại
cho ông T ½ diện tích, vì ông T thờ cúng bà S2 từ trước đến nay.
[3.5] Đồng thời, tại biên bản hoà giải ngày 28/11/2023 của ấp B, xã H, ông
K trình bày: Phần đất của ông bà để lại, họp lại thân tộc lấy ý kiến thống nhất cho
ông T mà không biết là bao nhiêu mét. Tại biên bản hoà giải của ấp B, xã H ngày
09/01/2024, ông K đồng ý chia cho ông T phần đất ngang 08m và phần tam giác;
ông T không đồng ý, mà yêu cầu chia 10m. Tại biên bản hoà giải ngày 17/6/2024
của Ủy ban nhân dân xã H, ông K đồng ý chia cho ông T phần đất ngang 06m, dài
53,65m và góc xéo cặp lộ xi măng 04m; ông T không đồng ý.
[3.5] Hơn nữa, tại phiên toà phúc thẩm ông K còn trình bày năm 2003 ông
có chuyển nhượng cho bà Huỳnh Thị X phần đất ngang 09 m, dài 72m; khi chuyển
nhượng có các anh, chị, em của ông ký tên đồng ý cho ông chuyển nhượng. Vấn đề
đặt ra, nếu phần đất ông L1 và bà L2 đã tặng cho ông K từ năm 1995 như ông K
trình bày thì ông K sẽ có quyền định đoạt chuyển nhượng cho người khác, nhưng
vì sao khi ông K chuyển nhượng cho bà X thì phải có các anh, chị, em của ông K
ký tên đồng ý cho chuyển nhượng. Điều này chứng minh, thời điểm này phần đất
vẫn còn là di sản thừa kế, nên việc ông K trình bày phần đất ông được ông L1 và
bà L2 tặng cho từ năm 1995 là chưa có cơ sở.
[3.6] Đối với trình bày của ông K và Luật sư cho rằng phần đất ông K đã
đứng tên Sổ mục kê từ năm 2009; tuy nhiên, việc ông K đứng tên Sổ mục kê chỉ
được nêu trong biên bản xác minh về nguồn gốc đất khi lập thủ tục hồ sơ để cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông K đứng tên, nhưng hồ sơ cũng không
thể hiện có Sổ mục kê như trong biên bản xác minh nguồn gốc đất đã nêu. Hơn
nữa, Sổ mục kê cũng chưa phải là căn cứ pháp lý để xác định về quyền sử dụng đất
của ông K đối với phần đất nêu trên.
[3.7] Từ những cơ sở trên, xét thấy lời trình bày của ông T về nguồn gốc
phần đất tranh chấp thừa kế có diện tích đo đạc thực tế 2.845m
2
, thuộc thửa số 48,
tờ bản đồ số 20, tọa lạc tại ấp B, xã H, thành phố C, tỉnh Cà Mau do ông L1 và bà
S2 tạo lập là có căn cứ. Vì vậy nội dung biên bản xác minh nguồn gốc đất, phiếu
lấy ý kiến khu dân cư về nguồn gốc đất do Ủy ban nhân dân xã H, thành phố C
thực hiện có tại hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số DI 364681 ngày
31/3/2023 cho ông Nguyễn Văn K và bà Trương Thị N thể hiện nguồn gốc đất do
ông L1 và bà L2 tạo lập là chưa đúng với thực tế, do ông K và bà N cố tình khai
không đúng về nguồn gốc đất để thuận tiện khi lập hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất. Do đó, Toà án cấp sơ thẩm xác định phần đất tranh chấp theo
đo đạc thực tế diện tích 2.845m
2
, thuộc thửa số 48, tờ bản đồ số 20, tọa lạc tại ấp
B, xã H, thành phố C, tỉnh Cà Mau là di sản thừa kế của ông L1 để lại và phân chia
cho ông T được hưởng diện tích 1.570,5m
2
; phân chia cho ông K được hưởng diện
tích 1.274,5m
2
như Bản án sơ thẩm xét xử là có căn cứ.
[4] Từ phân tích trên, cấp phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của ông
Nguyễn Văn K và bà Trương Thị N, giữ nguyên bản án sơ thẩm là phù hợp.
[5] Án phí dân sự phúc thẩm ông Nguyễn Văn K và bà Trương Thị N được
miễn chịu án phí (được miễn dự nộp).
[6] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị
có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị nên không đặt
ra xem xét.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy
định về án phí, lệ phí Tòa án.
Không chấp nhận kháng cáo của ông Nguyễn Văn K và bà Trương Thị N.
Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số: 327/2024/DS-ST ngày 17 tháng 9
năm 2024 của Toà án nhân dân thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau.
Tuyên xử:
- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Phạm Thuần .
Xác định phần đất theo đo đạc diện tích 2.845m
2
, thuộc thửa số 48, tờ bản
đồ số 20, tọa lạc tại ấp B, xã H, thành phố C, tỉnh Cà Mau là di sản thừa kế của ông
Nguyễn Thiện L1 để lại.
Phân chi cho ông Phạm T được nhận phần đất diện tích 1.570,5m
2
, thuộc
một phần thửa số 48, tờ bản đồ số 20, tọa lạc tại ấp B, xã H, thành phố C, tỉnh Cà
Mau, phần đất được giới hạn bởi các mốc M1M2’M4’M5M6M7 theo bản biên tập
“Trích đo hiện trạng” ngày 11/9/2024 của Công ty trách nhiệm hữu hạn P.
Phân chia cho ông Nguyễn Văn K được nhận phần đất diện tích 1.274,5m
2
,
thuộc một phần thửa số 48, tờ bản đồ số 20, tọa lạc tại ấp B, xã H, thành phố C,
tỉnh Cà Mau, phần đất được giới hạn bởi các mốc M2’M2M3M4M4’ theo bản biên
tập “Trích đo hiện trạng” ngày 11/9/2024 của Công ty trách nhiệm hữu hạn P.
(Có bản biên tập “Trích đo hiện trạng” ngày 11/9/2024 của Công ty trách
nhiệm hữu hạn P kèm theo).
- Buộc ông Phạm T có nghĩa vụ hoàn trả chi phí san lắp cho ông Nguyễn
Văn K và bà Trương Thị N số tiền 66.243.000 đồng.
- Buộc ông Nguyễn Văn K có nghĩa vụ hoàn trả cho ông Phạm T chi phí đo
đạc, định giá số tiền 7.692.000 đồng.
Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu người
phải thi hành án không thanh toán xong các khoản tiền nêu trên thì phải trả thêm
khoản lãi phát sinh theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật
dân sự tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành.
- Án phí dân sự sơ thẩm: Ông T, ông K, bà N được miễn chịu án phí.
- Án phí dân sự phúc thẩm: Ông K và bà N được miễn chịu án phí.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu
lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân
sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành
án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật
thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30
Luật thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau;
- Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau;
- Chi cục THADS thành phố Cà Mau;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ;
- Lưu án văn;
- Lưu VT(TM:TANDTCM).
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Thành Lập
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Bản án số 60/2025/DS-PT ngày 14/02/2025 của TAND tỉnh Cà Mau về tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất
Ban hành: 14/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 24/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 13/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 06/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 31/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 24/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 24/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 16/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 06/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 28/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 27/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 18/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 07/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 29/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 07/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Bản án số 610/2024/DS-PT ngày 30/09/2024 của TAND TP. Hà Nội về tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm