Bản án số 610/2024/DS-PT ngày 30/09/2024 của TAND TP. Hà Nội về tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 610/2024/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 610/2024/DS-PT ngày 30/09/2024 của TAND TP. Hà Nội về tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND TP. Hà Nội
Số hiệu: 610/2024/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 30/09/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Nguyễn Thị L - Nguyễn Văn V
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 610/2024/DS-PT
Ngày: 30/9/2024
V/v: Tranh chấp thừa kế
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:
Các Thẩm phán:
Thư ký phiên tòa:
Bà Trần Thị Liên Anh
Bà Nguyễn Thị Hồng Hạnh
Ngô Tuyết Băng
Bà Nguyễn Thùy Trang, Thư ký
Tòa án
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Nội: Trịnh Thu Tân,
Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.
Ngày 30 tháng 9 năm 2024, tại trụ sTòa án nhân dân Thành phố
Nội xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 73/2024/TLPT-DS ngày
22/02/2024 về việc “Tranh chấp thừa kế”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 42/2023/DSST ngày 28/12/2023 của Tòa
án nhân dân huyện Thanh Oai, Thành phố Hà Nội bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xphúc thẩm số 357/2024/QĐ-PT
ngày 30/7/2024; Quyết định hoãn phiên tòa số 476/2024/QĐPT-HPT ngày
15/8/2024; Quyết định hoãn phiên tòa số 520/2024/QĐPT-HPT ngày
06/9/2024; Quyết định hoãn phiên tòa s 535/2024/QĐPT-HPT ngày 16/9/2024
giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Nguyễn Thị L, sinh năm 1960.
Trú tại: Tổ 1, Cổ Bản, phường Đồng Mai, quận Đông, Thành phố
Nội.
Bị đơn: Ông Nguyễn Trung V, sinh năm 1971.
Trú tại: Thôn Trung, xã Cao Viên, huyện Thanh Oai, Thành phố Hà Nội.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Bà Nguyễn Thị Huệ, sinh năm 1974.
Địa chỉ: Khu Chiềng Khến, thị trấn Mãn Đức, huyện Tân Lạc, tỉnh Hòa
Bình.
Người đại diện theo y quyền của bà Huệ: Ông Nguyễn Đức Toàn, sinh
năm 1974;
- Bà Nguyễn Thị Bảy, sinh năm 1977.
Trú tại: Số nhà 8, ngõ 10 đường xóm Kênh, thôn Trung, Cao Viên,
huyện Thanh Oai, Thành phố Hà Nội.
- Anh Nguyễn Trung Lâm, sinh năm 2003 (con trai ông Vụ bà Bẩy);
- Chị Nguyễn Thị Lệ, sinh năm 2000 (con gái ông Vụ bà Bẩy);
- Anh Đậu Xuân Hậu (chồng chị Lệ), sinh năm 1995;
2
- Cháu Đậu Nguyễn Hồng Anh, sinh năm 2002 (con gái chị Lệ anh Hậu).
Do anh Hậu, chị Lệ là đại diện theo pháp luật.
Cùng trú tại: Thôn Trung, xã Cao Viên, huyện Thanh Oai, Thành phố Hà
Nội.
Do có kháng cáo của ông Nguyễn Trung V bị đơn; bà Nguyễn Thị Bảy
là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo án sơ thẩm vụ án có nội dung như sau:
Nguyên đơn trình bày:
1.Về quan hệ huyết thống: Bố của Lan cụ Nguyễn Trung Thụ, sinh
năm 1938, chết ngày 06/02/2010; mẹ Lan cụ Nguyễn Thị Thành, sinh
năm 1935, chết ngày 13/5/2009. Bmẹ sinh được 02 người con chung là:
Nguyễn Thị L, sinh năm 1960; Nguyễn Thị Huệ, sinh năm 1974. Ngoài
ra hai cụ không có con riêng hoặc con nuôi nào khác.
Về di sản: Hai cụ nhà đất tại thửa đất số 26, tờ Bản đồ số 20 Cao
Viên, huyện Thanh Oai, Thành phố Nội diện tích 332m
2
. Nguồn gốc đất
này do Nhà nước giao cho bố mẹ , hiện đứng tên chủ sử dụng cụ
Nguyễn Trung Thụ. Quá trình sử dụng bố mẹ tôn tạo, phát triển, xây dựng
lên ngôi nhà cấp 4 trên một phần diện tích đất này, khoảng 1996 gia đình cải
tạo ngôi nhà này hiện ông Nguyễn Trung V đã tự ý phá dỡ toàn bộ để xây
dựng nhà tầng kiên cố.
Ngoài diện tích đất cụ Thụ đứng tên chủ sử dụng nêu trên hai cụ còn
những di sản sau:
- Thửa đất số 49, tờ Bản đồ số 20 Cao Viên, có diện tích là 227m
2
đất
vườn, địa chỉ: Thôn Trung, xã Cao Viên, huyện Thanh Oai, Thành phố Hà Nội,
hiện đứng tên chủ sử dụng là cụ Nguyễn Trung Thụ.
- Đất nông nghiệp (Quỹ đất I):
a) Xứ đồng Chùa Quê diện tích 545m
2
, số thửa 111/419, tờ Bản đồ số 4,
diện tích đất này đã vào quy hoạch Nhà nước đã bồi thường, hiện số tiền bồi
thường ông Nguyễn Trung V đã nhận quản (Phần tiền của cụ Thụ, cụ Thành
hiện ông Vụ đang giữ toàn bộ) còn phần của bà Huệ đã nhận;
b) Xứ đồng Soi Viên diện tích 129m
2
, số thửa 135/127, tờ Bản đồ số 9;
c) Xứ đồng Tài diện tích 75m
2
, số thửa 25/19, tờ Bản đồ số 19. Hiện
còn 02 thửa đất này đứng tên cụ Nguyễn Trung Thụ (đã giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất)- (Theo như Bảy trình bày hiện sổ đỏ này tkhi chính
quyền thu hồi đất vẫn giữ và chưa trả lại gia đình)
Toàn bộ khối di sản của bố mẹ nêu trên đứng tên cụ Nguyễn Trung
Thụ, khối di sản này hiện do ông Nguyễn Trung V là cháu gọi cụ Thụ bằng chú
trực tiếp quản lý, sử dụng.
Trước khi chết bố mẹ không để lại di chúc và quá trình sống bố mẹ
cũng chưa cho tặng, chuyển nhượng một phần hay toàn bộ di sản là thửa đất số
26, thửa đất số 49 và đất nông nghiệp cho bất kỳ ai.
Do điều kiện chị em lấy chồng xa n khoảng năm 1996, cụ Th
cho ông Nguyễn Trung V đến ở cùng nhà đất tại số thửa 26, tờ Bản đồ số 20 xã
Cao Viên để thuận tiện cho sinh hoạt, m ăn. Sau khi bố mẹ chết, ông
Nguyễn Trung V cùng vợ con người trực tiếp quản lý, sử dụng toàn bộ diện
3
tích nhà đất 332m
2
tại số thửa 26, tờ Bản đồ s20 Cao Viên và các tài sản
khác mà bố mẹ để lại tại Thôn Trung, Cao Viên, huyện Thanh Oai,
Thành phố Hà Nội cho đến nay.
Di sản bố mẹ để lại, chị em chưa nhu cầu sử dụng nên vẫn để
cho ông Nguyễn Trung V quản lý, sử dụng. Tuy nhiên, quá trình quản lý, sử
dụng di sản ông Nguyn Trung V đã tự ý đập phá toàn bộ nhà cửa nằm trên diện
tích đất 332m
2
tại số thửa 26, tờ Bản đồ số 20 Cao Viên để xây nhà của
riêng mình mà không hỏi ý kiến chị em là người thừa kế hợp pháp di sản.
Nay chị em nhu cầu khai thừa kế, quản sử dụng toàn bộ
khối di sản bố m để lại nhưng ông Nguyễn Trung V cho rằng toàn bộ di sản
bố mẹ để lại là của ông Nguyễn Trung V, lý do được bố m cho trong quá
trình sử dụng nhưng không giấy tờ chứng minh hợp pháp. phương án
hòa giải phân chia di sản thừa kế chấp nhận một phần diện tích đất ông
Nguyễn Trung V đã xây nhà tại thửa số 26, phần đất n lại của thửa số 26
những di sản khác trả cho chị em xây dựng nơi thờ cúng bố mẹ và sử dụng
nhưng ông Nguyễn Trung V không đồng ý, không hợp tác dẫn đến tranh chấp.
Bà yêu cầu Tòa án buộc ông Nguyễn Trung V giao nộp bản gốc Giấy giao quyền
thừa kế tài sản nhà đất để nhờ tòa án xem xét do nghi ngờ có dấu hiệu giả
mạo nhằm chiếm đoạt tài sản của gia đình .
yêu cầu Tòa án xem t giải quyết:
1. Xác định di sản thừa kế của bmẹ để lại tại địa chỉ Cao Viên,
huyện Thanh Oai, Tp. Hà Nội;
2. Chia thừa kế đối với di sản bmẹ cụ Nguyễn Trung Thụ cụ
Nguyễn Thị Thành để lại theo pháp luật thừa kế cho chị em thuộc hàng thừa
kế thứ nhất đối với toàn bộ diện tích nhà đất tại thửa đất số 26, tờ Bản đồ số 20,
diện tích 332m
2
; số thửa 49, tờ Bản đồ số 20 diện tích 227m
2
toàn bộ đất
nông nghiệp tại xã Cao Viên, huyện Thanh Oai, Tp. Hà Nội theo quy định pháp
luật.
Ngoài ra hai yêu cầu ông Vụ, Bảy phải trả lại số tiền khoảng
234.000.000 đồng tiền bồi thường thu hồi ruộng ông Vụ, Bảy đang giữ
của gia đình bà.
Bị đơn ông Nguyễn Trung V trình bày:
Về quan hệ huyết thống: Ông Thụ, Thành sinh được 02 người con
Nguyễn Thị L, Nguyễn Thị Huệ như trình bày là đúng. Nhà đất mang số
thửa 26, tờ Bản đồ số 20, diện tích 332,0m
2
; số thửa 49, tờ Bản đồ số 20, diện
tích 227,0m
2
toàn bộ đất nông nghiệp mang tên của ông Nguyễn Trung
Thụ.
Ông có 11 thước ruộng cấy (là đất ruộng của ông nhưng ghép vào sổ của
ông Thụ; thửa số 123/105 diện ch cụ thể 270m
2
). Bà Lan, Huệ
cũng thừa nhận thửa đất này là của riêng ông Vụ.
Vviệc Huệ, Lan yêu cầu đòi tài sản thửa đất số thửa 26 tờ
Bản đồ số 20, diện tích 332m
2
thì ông không đồng ý từ khi còn sống cụ Thụ,
cụ Thành đã giao nhờ vợ chồng ông trông nom đất đai, nhà cửa và giỗ Tết
hàng năm. Khi giao nhà đất thửa số 26 cho ông thì cụ Thụ, cụ Thành đã viết
giấy cho ông Giấy giao quyền thừa kế tài sản nhà đất ông đã nộp bản phô to
chứng thực của UBND xã cho Tòa án. Hiện nay bản gốc của tờ giấy giao
4
quyền thừa kế ông vẫn đang cất giữ nhà; Tòa án đã nhiều lần yêu cầu cung
cấp bản gốc cho Tòa án đđối chiếu nhưng ông không mang đến Tòa án để
trình do ông đã nộp bản pho to xác nhận của UBND Cao Viên nên
ông không trình bản gốc cho Tòa án.
Riêng về phần đất ruộng thửa đất số 49, t Bản đồ số 20 diện tích
227m
2
toàn bộ đất nông nghiệp mang tên của ông Nguyễn Trung Thụ;
Trong đó của ông 11 thước ruộng cấy (là của ông nhưng ghép vào sổ của
ông Thụ; thửa số 123/105 diện tích cụ thể 270m
2
phần đất này thì giao
trả lại cho ông); Ngoài 270m
2
của ông, ông lấy lại thì ông giao lại toàn bộ cho
Huệ, Lan quản lý, sử dụng; Riêng về phần tiền ruộng của cụ Thụ, cụ
Thành do Nhà nước thu hồi đất ruộng đã bồi thường còn khoảng 234 triệu đồng
hiện ông vẫn đang quản nay Huệ, Lan muốn lấy lại ông đề nghị Tòa
giải quyết theo pháp luật.
Về việc định giá tại thửa đất vườn là thửa số 49, tờ bản đồ số 20 gồm
13 cây bưởi, 03 cây mít chưa quả 01 cây xoan, khi hội đồng định giá tài
sản vợ chồng ông không mặt đó nay tại tòa án ông ông Mai Anh
Tuấn đã xemđọc Biên bản định giá tài sản ngày 13/6/2023 ông và ông Tuấn
hoàn toàn nhất trí với biên bản và không có ý kiến gì khác.
Ông Mai Anh Tuấn cũng đồng ý với ý kiến của ông Vụ không ý
kiến gì khác.
Theo Biên bản thẩm định, định giá tài sản ngày 01/6/2023 các tài sản trên
đất thửa đất số 26 gồm có:
+ 01 ngôi nhà 02 tầng xây dựng năm 2022 diện tích x 5.428.000 đồng giá
trị còn lại.
+ Sân trước nhà đtông nền lát gạch men hoa 50x50 làm năm 2023
diện tích x 319.000 đồng giá trị còn lại
+ Phía trước n01 lán lợp tôn xây dựng năm 2022 diện tích x 569.000
đồng/m
2
giá trị còn lại.
+ Khoảng trống đất có 03 cây sưa giá thành tiền: 1.000.000 đồng/cây x 3
cây = 3.000.000 đồng.
+ Phía trước nhà tường bao xây dựng năm 2022 diện tích x 615.000
đồng/m
2
giá trị còn lại.
+ Cổng trước nhà làm năm 2022: Cổng sắt cao 2,7 x 2,5 x 479.000
đồng/m
2
giá trị còn lại là 3.500.000 đồng.
+ Các tài sản trong nhà, Hội đồng định giá không định giá.
Về giá trị quyền sử dụng đất:
+ Giá trị quyền sử dụng đất tại thời điểm định giá tài sản địa phương là
17.000.000 đồng/m
2
; Đất nông nghiệp 162.000 đồng/m
2
(theo Quyết định số
30/2019/QĐ của UBND thành phố Hà Nội.)
Thửa đất số 49, tờ bản đồ số 20 tại thôn Trung, Cao Viên, huyện
Thanh Oai, Hà Nội.
Trên thửa đất gồm có: 13 cây bưởi đã có quả; 03 cây mít chưa có quả; 01
cây xoan.
- Hội đồng định giá tài sản trên đất:
+ 13 cây bưởi x 400.000 đồng/cây = 5.200.000 đồng.
+ 03 cây mít x 200.000 đồng/cây = 600.000 đồng.
5
+ 01 cây xoan x 60.000 đồng/cây = 60.000 đồng.
+ Trên đất có xây tường bao xây gạch 110 cao khoảng 1m
2
(tường không
phải ông Vụ xây- tường của hàng xóm)
+ Trên thửa đất phía đi vào trong đất có 01 cổng sắt xây 2 trụ (hiện đã cũ
hết khấu hao sử dụng), Hội đồng định giá không định giá.
Giá trị quyền sử dụng đất vườn là 3.000.000 đồng/m
2
Tại Bản án dân sự thẩm số 42/2023/DSST ngày 28/12/2023 của
Tòa án nhân dân huyện Thanh Oai, Thành phố Hà Nội đã quyết định:
1/ Chấp nhận đơn khởi kiện của bà Nguyễn Thị L về yêu cầu chia tài sản
thừa kế theo pháp luật.
2/ Chấp nhận yêu cầu của Nguyễn Thị L, Nguyễn Thị Huệ không
chia tách riêng phần tài sản thừa kế của 02 bà được hưởng.
3/ Xác nhận khối tài sản là di sản thừa kế do cụ Thụ, cụ Thành để lại là:
- Thửa đất s26, tờ Bản đồ số 20 Cao Viên, diện tích là 332,0m
2
.
Diện tích đo đạc thực tế 329,8m
2
(Có 01 nhà tầng công trình phụ do ông
Vụ Bảy y dựng năm 2022) tại địa chỉ: Thôn Trung, Cao Viên, huyện
Thanh Oai, thành phố Hà Nội, hiện đứng tên chủ sử dụng là ông Nguyễn Trung
Thụ.
- Thửa đất số 49, tờ Bản đồ số 20 diện tích 227,0m
2
đất vườn, (Diện
tích đo đạc thực tế 323,2m
2
tại địa chỉ: Thôn Trung, Cao Viên, huyện
Thanh Oai, Thành phố Nội, hiện đứng tên chủ sử dụng ông Nguyễn
Trung Thụ.
- Đất nông nghiệp (Quỹ đất I) gồm có:
a) Xứ đồng Soi Viên diện tích 129m
2
, số thửa 135/127, tờ Bản đồ số 9;
b) Xứ đồng Bà Tài diện tích 75m
2
, số thửa 25/19, tờ Bản đồ số 19.
c) Tiền bồi thường đất ruộng bị thu hồi: 234.000.000 đồng.
4/ Xác định hàng thừa kế thứ nhất của cụ Thụ, cụ Thành gồm bà Nguyễn
Thị L, bà Nguyễn Thị Huệ.
5/ Giao Nguyễn Thị L, Nguyễn Thị Huệ được quyền quản lý, sử
dụng diện tích 99,4m
2
đất trong tổng diện tích 329,8m
2
đất tại thửa số 26, tờ
Bản đồ số 20 tại thôn Trung, Cao Viên, huyện Thanh Oai, TP. Nội; (có
đồ cụ thể kèm theo). Được giới hạn bởi các điểm 1,2,13,12,1 Trị giá diện
tích đất là: (99,4m
2
x 17.000.000đ/m
2
= 1.689.800.000 đồng. Hai còn được
sở hữu chung phần lối đi chung diện tích 31,8m
2
(Tổng giá trị
540.600.000 đồng/3= 180.200.000 đồng) cùng với ông Vụ, bà Bảy.
Giao bà Nguyễn Thị L, Nguyễn Thị Huệ được quyền quản lý, sử dụng
223,2m
2
đất vườn 32,5m
2
đất nđi (có đcụ thể kèm theo) được giới
hạn bởi các điểm 1,2,3,4,5,6,7,8,9,10,11,12,13,14,15,16,17,1.
Giao Nguyễn Thị L, Nguyễn Thị Huệ được quyền quản lý,sử dụng
thửa đất ruộng thuộc Xứ đồng Soi Viên diện tích 129m
2
, số thửa 135/127, tờ
Bản đồ số 9 và Xứ đồng Bà Tài diện tích 75m
2
, số thửa 25/19, tờ Bản đồ số 19.
( Có giá trị là 33.048.000 đồng)
Giao ông Nguyễn Trung V, bà Nguyễn Thị Bảy được quyền quản lý, s
dụng nhà ở và công trình khác trên diện tích 198,6m
2
đất tại thửa số 26, tờ Bản
đồ số 20, tại thôn Trung, xã Cao Viên huyện Thanh Oai, Thành Phố Hà Nội (có
đồ kèm theo). Được giới hạn bởi các điểm 4,5,6,7,8,9,10,11,12,13,4. Trị giá
6
diện tích đất là: (198,6m
2
x 17.000.000đ/m
2
= 3.376.200.000 đồng. Ông Vụ,
Bảy còn được cùng sở hữu chung phần lối đi chung diện tích 31,8m
2
với
Lan, bà Huệ.
- Giao ông Nguyễn Trung V, bà Nguyễn Thị Bảy được quyền quản lý, sử
dụng thửa đất ruộng s123/105 diện tích cụ thể 270m
2
(Là đất ruộng của
riêng ông Vụ) hiện thửa đất ruộng vẫn đang đứng tên trong giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất mang tên ông Nguyễn Trung Thụ.
- Buộc ông Nguyễn Trung V, bà Nguyễn Thị Bảy phải thanh toán trả cho
Nguyễn Thị L,Nguyễn Thị Huệ số tiền 1.822.565.000 đồng.
(Phần cổng sắt hiện ông Vụ Bảy đang sử dụng buộc ông Vụ, Bảy
phải tháo dỡ trả lại mặt bằng sử dụng đất cho Lan, Huệ; Sau khi cổng sắt
được tháo dỡ ông Vụ, bà Bảy được quyền quản lý, sử dụng vật liệu này)
Khi bản án, quyết định hiệu lực pháp luật, các đương sự được giao
quản lý, sử dụng đất có quyền liên hệ với Cơ quan nhà nước có thẩm quyền căn
c vào bn án, quyết định ca Tòa án đề nghị cấp Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất phù hp vi kết qu gii quyết ca Tòa án.
Ngoài ra, Bản án còn tuyên ván phí và quyền kháng cáo của các đương
sự.
Không nhất trí với quyết định của bản án sơ thẩm, bị đơn ông Nguyễn
Trung V người quyền lợi nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thị Bảy kháng
cáo đối với bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Bị đơn ông Nguyễn Trung V người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan
Nguyễn Thị Bảy đề nghị HĐXX công nhận Giấy giao quyền thừa kế năm
2003. Xác định lại giá trị quyền sử dụng đất của thửa đất số 26 theo giá trị của
từng loại đất. Quá trình sinh sống cùng hai cụ, ông nhiều ng sức trong
việc chăm sóc hai cụ, tôn tạo đất, đóng thuế đất. Bản án sơ thẩm trích công sức
cho vợ chồng ông bằng 1/3 giá trị quyền sử dụng thửa đất số 26 chưa tương
xứng với công sức của ông bà. Đối với số tin đề ruộng thì Lan, Huệ
đã có văn bản cho ông nên vợ chồng ông không thanh toán số tiền này. Đề nghị
HĐXX sửa án sơ thẩm, công nhận cho vợ chồng ông toàn quyền sử dụng
thửa đất số 26. Trường hợp đề nghị của vợ chồng ông không được chấp nhận
thì đề nghị HĐXX trích tăng công sức cho vợ chồng ông. Vợ chồng ông
nguyện vọng nhận toàn bộ diện tích đất của thửa đất số 26 thanh toán bằng
giá trị cho Lan Huệ, nhưng thanh toán dần từng đợt. Bác yêu cầu của
nguyên đơn đối với số tiền đền bù ruộng.
Nguyên đơn Nguyễn Thị L, rút một phần yêu cầu khởi kiện đối với
diện tích lối đi vào thửa đất số 49. Theo đó nguyên đơn Lan đề nghị HĐXX
xác định diện tích đất đo thực tế 190,7m
2
đất vườn thuộc thửa đất số 49,
không bao gồm diện tích lối đi di sản của cụ Thụ, cụ Thành. Về lối đi vào
thửa đất số 49 bà sẽ khởi kiện vụ án dân sự khác.
Đề nghị HĐXX bác yêu cầu kháng cáo của bị đơn, giữ nguyên các nội
dung khác của bản án sơ thẩm.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị Huệ và đại diện
theo uỷ quyền thống nhất với ý kiến của bà Lan, đề nghị HĐXX bác kháng cáo
của ông Vụ bà Bẩy, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
7
Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Nguyễn Trung m, chị
Nguyễn Thị Lệ thống nhất với ý kiến của ông Vụ, bà Bẩy.
Quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hà Nội:
Về tố tụng: Hội đồng xét xcác đương sự tuân thủ đầy đủ các quy
định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Về nội dung: Sau khi phân tích nội dung vụ kiện, đại diện VKS nhân dân
Thành phố Nội đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm áp dụng Khoản 2
Điều 308 Bluật ttụng dân sự sửa Bản án dân sự thẩm số 42/2023/DSST
ngày 28/12/2023 của Tòa án nhân dân huyện Thanh Oai, Thành phố Nội v
giá trị di sản theo g của Hội đồng định giá cấp phúc thẩm. Bác kháng cáo của
ông Vụ bà Bẩy.
Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối với phần diện tích ngõ đi
thuộc thửa đất số 49.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ các tài liệu trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn
cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
1.Về hình thức: Đơn kháng cáo của b đơn ông Nguyễn Trung V
người quyền lợi nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thị Bảy nộp trong hạn luật
định, đã nộp dự phí kháng cáo, về hình thức là hợp lệ.
2. Về tố tụng: Nguyên đơn Lan t một phần yêu cầu khởi kiện về
diện tích lối đi vào thửa đất số 49. Việc rút đơn khởi kiện của nguyên đơn tự
nguyện, bị đơn đồng ý với việc rút một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn
nên đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối với diện tích lối
đi vào thửa đất số 49. Giành quyền khởi kiện về lối đi vào thửa đất số 49 cho
bà Lan bằng vụ kiện dân sự khác.
3. Về nội dung:
Về quan hệ huyết thống:
Cụ Nguyễn Trung Thụ chết năm 2010, cụ Nguyễn Thị Thành chết năm
2009. Hai cụ có 02 người con là: Bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1960; Nguyễn
Thị Huệ, sinh năm 1974. Ngoài ra ông Thụ, Thành không con riêng, con
nuôi và con ngoài giá thú.
Theo quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 651 Bộ luật dân sự 2015 hàng
thừa kế thứ nhất của cụ Thụ, cụ Thành Nguyễn Thị L, Nguyễn Thị
Huệ.
Năm 1996, cụ Thụ, cụ Thành cho ông Nguyễn Trung V, sinh năm
1971 con của anh trai ruột của cụ Thụ (năm đó ông Vụ đã 25 tuổi vừa
hoàn thành nghĩa vụ quân sự về nhà) đến cùng nhà đtrông nom ncửa
giúp đỡ khi tuổi già vì 02 người con gái (Lan, Huệ) đã đi lấy chồng xa.
Xét về tuổi tác cũng như về mặt pháp thì ông Nguyễn Trung V được xác
định chỉ là cháu đến ở cùng và trông nom nhà cửa vì vậy ông Vụ không phải là
con nuôi, con ngoài giá thú như quy định của luật.
Về di sản:
Theo nguyên đơn trình bày, sinh thời cụ Nguyễn Trung Thụ, cụ Nguyễn
Thị Thành tạo dựng và có các tài sản sau:
- Thửa đất số 26, tờ Bản đồ số 20 Cao Viên, diện tích 332m
2
đo
thực tế là 329,8m
2
. Tài sản nhà cấp 4 công trình phụ của bố mxây
8
dựng trên đất đã bị vợ chồng ông Vụ, Bảy tự ý phá dỡ m mới lại toàn
bộ năm 2022
- Thửa đất số 49, tờ Bản đồ số 20 Cao Viên, diện tích là 227m
2
, đo
thực tế 190,7m
2
đất vườn, địa chỉ: Thôn Trung, Cao Viên, huyện Thanh
Oai, Thành phố Hà Nội.
- Đất nông nghiệp (Quỹ đất I) gồm:
a) Xứ đồng Chùa Quê diện tích 545m
2
, sthửa 111/419 tờ Bản đồ số 4;
Diện tích đất này đã vào quy hoạch Nhà nước đã bồi thường, hiện số tiền bồi
thường ông Nguyễn Trung V đã nhận đang quản (Phần tiền 234.000.000
đồng của cụ Thụ, cụ Thành hiện ông Vụ đang giữ toàn bộ) còn phần tiền bồi
thường của riêng bà Huệ thì bà Huệ đã nhận;
b) Xứ đồng Soi Viên diện tích 129m
2
, số thửa 135/127 tờ Bản đồ số 9;
c) Xứ đồng Tài diện tích 75m
2
, số thửa 25/19 tờ Bản đồ số 19. Hiện
còn 02 thửa đất này đứng tên ông Nguyễn Trung Thụ.
Riêng thửa đất ruộng số 123/105 diện tích cụ thể là 270m
2
(Là phần
diện tích đất ruộng của riêng ông Nguyễn Trung V) hiện cùng nằm trong diện
tích đất đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên ông Nguyễn
Trung Thụ thì bà Lan, bà Huệ đều có ý kiến trả lại cho ông Vụ.
UBND xã cung cấp:
Theo hồ địa chính năm 1995- 1997, Sổ Mục kiêm thống ruộng
đất Cao Viên lập ngày 04/12/1997. Thửa đất số 26, tbản đồ số 20, diện
tích 332m
2
; Thửa đất s49, tờ bản đồ số 20, diện tích 227m
2
thể hiện chủ sử
dụng Nguyễn Trung Thụ. Hai thửa đất nguồn gốc cha ông để lại. Thửa
đất số 26 có 200m
2
đất ở, 132m
2
đất vườn.
Qtrình giải quyết vụ án ông Nguyễn Trung V xuất trình 01 bản
sao Giấy giao quyền thừa kế i sản nhà đất đề ngày 04/9/2003.
Tòa án cấp thẩm đã nhiều lần yêu cầu ông Nguyễn Trung V,
Nguyễn Thị Bảy xuất trình chứng cứ bản chính giấy giao quyền thừa kế
nhưng ông Vụ, Bảy không xuất trình bản gốc chxuất trình bản sao
chứng thực của UBND xã; Bà Lan, Huệ đã nhiều lần yêu cầu ông Vụ,
Bảy cần xuất trình bản chính để giám định xem đây thực sự bút tích của
cụ Thụ, cụ Thành hay không và có căn cứ xem xét thấu đáo văn bản giao quyền
thừa kế của cụ Thụ, cụ Thành theo bà Lan, Huệ cho biết từ trước đến nay
bố mẹ chưa bao giờ nói đến chuyện giao quyền thừa kế cho ai, mặc vẫn
ghi nhận việc ông Vụ là cháu sang ở cùng và trông nom các cụ, ngay cả các cụ,
các ông các bà trong nội tộc gia đình từ trước đến nay không ai nghe cụ Thụ, c
Thành nói giao quyền thừa kế thửa đất cho ông Vụ, Bảy tại văn bản Vi
bằng đã được lập các cụ trong nội tộc gia đình cũng đã ý kiến vviệc này.
Tại phiên tòa thẩm ông Vụ, Bảy trình bày là đã đánh mất bản gốc do đó
bản sao giấy giao quyền thừa kế mà ông Vụ, Bảy đã cung cấp cho Tòa án
không có giá trị pháp lý để xem xét trong vụ án này.
Tuy nhiên, qua xem xét bản sao do ông Vụ, Bảy cung cấp nhận thấy:
Theo quy định của Bộ luật dân sự 1995 tại Điều 656 BLDS 1995 thì: Văn bản
thừa kế không được dùng hiệu nếu nhiều trang thì phải đánh sthứ tự
từng trang, nhưng đây trong giấy rất nhiều chữ được viết tắt nhiều
trang nhưng không đánh số thứ tự từng trang….; ngoài ra sau khi người tài
9
sản chết thì di chúc phải được công bố (điều 675 BLDS 1995) ghi người
viết, người làm chứng là ai….và sau khi công bố di chúc thì cần phải giải thích
nội dung di chúc (Điều 676 BLDS 1995)…. Ngoài ra qua trình bày của các
đương sự thể thấy sinh thời cụ Thụ, cụ Thành rất nhiều loại tài sản khác
nhau ngoài diện tích 332m
2
hiện ông Vụ, bà Bảy đang quản lý… thửa đất
227m
2
đất vườn và diện tích đất ruộng nông nghiệp …trong khi đó từ trước đến
nay giữa cụ Thụ, cụ Thành, bà Lan, bà Huệ, ông Vụ, bà Bảy cho đến thời điểm
sau khi cụ Thụ, cụ Thành chết và đến thời điểm khi bà Lan, bà Huệ nhờ ông V
lấy hộ tiền bồi thường đất ruộng thì mối quan hệ tình cảm giữa Lan, Huệ
với ông Vụ, bà Bảy vẫn rất tốt, rất tình cảm, không có mâu thuẫn gì; như vậy
do khi cụ Thụ, cụ Thành khi viết giấy giao quyền thừa kế lại chỉ giao riêng
phần nhà đất mà các cụ đang ở cùng ông Vụ cho ông Vụ còn các phần đất khác
thì không nói gì đến và cũng không giao cho ai…?
Xét về việc xác nhận của trưởng xóm ông Nguyễn Doãn Đức xác
nhận ngày 04/9/2003 vào giấy giao quyền thừa kế thì thấy ông Đức thừa nhận
đã xác nhận vào giấy này tại gia đình ông; ông không nhớ chính xác là ai đã
đưa văn bản cho ông xác nhận tại gia đình ông vì đã lâu ông không nhớ rõ,
ông chỉ nhớ mang máng nhưng ông không tiện nêu tên?…; do ông Đức chỉ
trưởng xóm, không chức năng quản về đất đai mà vào văn bản xác
nhận diện tích đất trong văn bản trái pháp luật; nếu ông Đức với trách
nhiệm người làm chứng thì phải trước sự mặt của những người
thẩm quyền, ngoài ra phải mặt của cả hai vợ chồng cụ Thụ, cụ Thành tuy
nhiên văn bản không thể hiện khi ông Đức xác nhận thì ai đó, ai
người viết ra văn bản đó, ai là người đưa cho ông ký…. do đó việc ký xác nhận
của ông Đức là không có giá trị pháp lý.
Đối với chữ xác nhận của ông Nguyễn Văn Khá cán bộ địa chính
Cao Viên khi xác nhận vào văn bản giao quyền thừa kế, ông Khá cũng
lấy lý do đã lâu nên không nhớ chính xác ai đưa cho ông ký; Tuy nhiên
ông trình bày khi ông xác nhận vào văn bản thì ông tại UBND
chủ tịch xã ký đóng dấu ngay khi đó; Tuy nhiên ông trình bày không nhớ ai đưa
cho ông ký không nhớ ai người viết đưa ông ký; việc ông Khá trình
bày ông không nhớ ai người đưa cho ông văn bản này ông nhớ
không lắm nên ông không trình bày được ông chỉ nhớ khi đó ông xác
nhận ông cũng không xem sổ sách, giấy tờ về diện tích cụ thể của thửa đất
vẫn ký xác nhận vào văn bản, cũng không nhớ trước mặt người viết
hay không và có ký trước mặt chủ tịch xã hay không,…?; Ngoài ra ngày ông ký
ngày 05/9/2003 tức sau khi ông Đức một ngày ông trình bày tdo
ông tin tưởng ông Đức trưởng xóm đã nên ông cũng vào không
kiểm tra sổ sách, bản đồ địa chính; Mặt khác tại lời trình bày của ông Khá, ông
trình bày khi ông xác nhận vào văn bản tại thời điểm trụ sở UBND
ngay khi ông xong tông Tiến chủ tịch UBND cũng luôn vào
văn bản? Như vậy lời trình bày của ông văn bản thì hoàn toàn không phù
hợp do ông ghi ngày ngày 05/9/2003 ngày ông Đỗ Tiến chủ tịch
ngày 08/9/2003 ngày ông Đức ký ngày 04/9/2003. Ngày của
trưởng xóm, ngày của cán bộ địa chính ngày của chủ tịch UBND
trong văn bản là các ngày khác nhau hoàn toàn như vậy thể hiểu rằng văn
10
bản này do mt người viết ra sau đó từng người theo các ngày khác nhau
vào văn bản. Do đó văn bản giao quyền thừa kế này không đúng quy định
pháp luật và không có giá trị pháp lý vi phạm Điều 661 của Bộ luật dân sự năm
1995.
Khi Tòa án thụ vụ án tiến hành xác minh lời khai ông Đỗ Tiến
(nguyên chủ tịch xã) ngày 17/8/2023 thì ông Tiến trình bày ông xác
nhận chữ của ông vào đơn xin xác nhận của ông Nguyễn Trung V người
đến nhà ông nhờ đưa cho ông vào giấy xác nhận ông Nguyễn Trung
Nghi (là anh trai ruột của ông Vụ) đã đưa cho ông vào giấy xác nhận, ông
trình bày do nể nang ông Nghi ông Nghi nói với ông xác nhận đlàm
sổ đỏ nên đã xác nhận chữ trong văn bản; cũng trước đây ông Nghi
cũng làm cùng ở xã với ông (ông Nghi ở hội nông dân xã)
Ngoài ra theo như các đương sự trình bày về việc xác nhận vào văn
bản giao quyền thừa kế đã không làm đúng quy định tại Khoản 1 Điều 661
BLDS 1995; Mặt khác tại văn bản giao quyền thừa kế thì ông Nguyễn Trung V
cũng người đã ký, ghi họ tên vào văn bản này vậy đã vi phạm vào
Khoản 1 Điều 657 BLDS 1995 và ngoài ra ông Vụ cũng không công bố và giải
thích văn bản giao quyền thừa kế sau khi người tài sản chết như vậy đã vi
phạm điều 675, 676 BLDS 1995.
Từ những phân tích ở trên đủ cơ sở xác định Văn bản giao quyền thừa kế
tài sản nhà đất ghi ngày 04/9/2003 do ông Nguyễn Trung V, bà Nguyễn Thị
Bảy ghi tài sản nhà đất để lại giao cho ông Vụ, bà Bảy không hợp pháp
theo quy định của BLDS 1995.
Mặt khác Tòa án đã yêu cầu ông Vụ, Bảy xuất trình bản gốc của văn
bản nhưng ông Vụ, Bảy không xuất trình văn bản gốc qua xác minh tại
UBND xã Cao Viên cũng không lưu giữ văn bản này.
* Khi Nhà nước chính sách thu hồi đất ruộng canh tác của cụ Thụ, cụ
Thành ông Vụ, Bảy khi đó cùng nngười trú tại địa phương thì
bà Lan, bà Huệ có ủy quyền cho ông Vụ nhận lấy giúp stiền đền bù đất ruộng
của cụ Thụ, cụ Thành tại UBND nhưng sau khi lấy được tiền đền đất
ruộng của cụ Thụ, cụ Thành thì ông Vụ đã không hoàn trả lại tiền ruộng của
các cụ cho Lan, Huệ giữ số tiền này cho đến nay không hoàn trả lại
cho bà Lan, Huệ vậy bản án thẩm xác định stiền 234.000.000 đồng
này là di sản thừa kế của hai cụ để lại là có căn cứ.
Như vậy phần tài sản là di sản của cụ Nguyễn Trung Thụ, Nguyễn Thị
Thành gồm:
- Thửa đất số 26, tờ Bản đồ số 20 Cao Viên đo thực tế diện tích
329,8m
2
:
Qua xác minh UBND xã cung cấp trong 329,8m
2
đất có 200m
2
đất ở, còn
lại 129,8m
2
đất vườn. Theo Biên bản định giá ngày 04/7/2024 giá trị quyền s
dụng đất 17.052.000 đồng/m
2
, giá trị quyền sdụng đất vườn 948.000
đồng/m
2
, đất ruộng là 810.000 đồng/m
2
. Giá trị quyền sử dụng thửa đất số 26 là
3.533.450.400 đồng. Bản án thẩm tính gtrị quyền sử dụng thửa đất số 26
theo giá đất ở là chưa đúng. Kháng cáo của bị đơn về nội dung này là có căn cứ
nên sửa lại giá đất cho phù hợp.
11
- Thửa đất số 49, tBản đồ số 20 Cao Viên: Theo bản đồ 1995-1997
diện tích thửa 49 230m
2
không lối đi vào. Số đo thực tế 223,2m
2
,
bao gồm lối đi diện tích 32,5m
2
, diện tích còn lại của thửa là 190,7m
2
.
Qua xác minh, UBND cung cấp: Lối đi vào thửa đất 49 nằm toàn bộ
trên diện tích đất thuộc thửa 62, chủ sử dụng ông Nguyễn Trung Nghi. Bản
án thẩm xác định diện tích thửa đất theo số đo thực tế là 223,2m
2
bao gồm
cả phần ngõ đi thuộc thửa đất của ông Nghi chưa phù hợp với thực tế. Tại
cấp phúc thẩm nguyên đơn đơn xin rút yêu cầu đối với phần diện tích lối đi
này nên xác định thửa đất số 49 số đo thực tế 190,7m
2
, không bao gồm
phần diện tích lối đi. Diện tích đất thực tế biến động giảm nhưng nguyên đơn
không yêu cầu xem xét nên không xét.
G trị quyền sử dụng đất của thửa đất s 49 là: 190,7m
2
x 948.000
đồng/m
2
= 180.783.600 đồng.
- Đất nông nghiệp (Quỹ đất I) gồm có:
a) Xứ đồng Soi Viên diện tích 129m
2
, số thửa 135/127 tờ Bản đồ số 9 x
810.000 đồng/m
2
= 104.490.000 đồng.
b) Xứ đồng Tài diện tích 75m
2
, số thửa 25/19 tờ Bản đồ số 19 x
810.000 đồng/m
2
= 60.750.000 đồng.
- Tiền bồi thường đất ruộng bị thu hồi234.000.000 đồng.
Ngoài ra ông Vụ, bà Bảy còn có 270m
2
đất ruộng canh tác thửa đất số
123/105 hiện vẫn đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ruộng
mang tên cụ Nguyễn Trung Thụ.
Về công sức:
Ông Vụ, Bảy người đã cùng cụ Thụ, cụ Thành từ năm 1996 đến
năm 2010. Thời gian cùng các cụ khoảng hơn 10 năm và đã công sức
trông nom cụ Thụ, cụ Thành và tôn tạo đất. Bản ánthẩm trích ra khoảng 1/3
diện tích đất tại thửa đất số 26, tờ Bản đồ số 20 Cao Viên diện tích thực
tế 329,8m
2
để giao cho ông Vụ, Bảy quản lý, sử dụng phù hợp. Không có
căn cứ để trích tăng công sức cho ông Vụ bà Bẩy.
Giá trị quyền sử dụng thửa đất số 26 3.533.450.400 đồng, 1/3 giá trị
thửa đất tương đương 1.177.816.800 đồng.
Chia bằng giá trị:
Tổng giá trị di sản sau khi trích công sức cho ông Vụ Bẩy là: Gtrị
quyền sử dụng đất thửa 26 còn lại là 2.355.633.600 đồng + giá trị quyền sử
dụng đất thửa 49 180.783.600 đồng + giá trị quyền sử dụng đất ruộng x
đồng Soi Viên 104.490.000 đồng + đất ruộng xđồng Tài 60.750.000 đồng
+ tiền đền bù đất 234.000.000 đồng = 2.935.657.200 đồng
Chia thừa kế của cụ Thụ, cụ Thành cho hàng thừa kế thứ nhất của hai cụ
là bà Lan và bà Huệ. Mỗi bà được hưởng 1 kỷ phần có giá trị là: 2.935.657.200
đồng: 2 = 1.467.828.600 đồng.
Chia bằng hiện vật:
Ông Vụ, Bảy đã xây dựng nhà trên diện tích đất của cụ Thụ, cụ
Thành. Do công trình xây dựng là công trình kiên cố, khép kín và việc sử dụng
phần nhà đất không thể tách rời nên bản án thẩm giao phần diện tích đất
chênh lệch so với phần công sức ông Vụ, Bảy được hưởng của các cụ
cho ông Vụ, Bảy tiếp tục được quản lý, sử dụng; Phần diện tích đất chênh
12
lệch với công sức ông Vụ, bà Bảy được hưởng buộc ông Vụ, bà Bảy phải thanh
toán bằng tiền cho bà Lan, bà Huệ phù hợp.
Bà Lan, bà Huệ không yêu cầu Tòa án chia tách phần tài sản mà 2 chị em
được hưởng. Hai nguyện vọng nhận di sản bằng hiện vật và nhận chung
vào một khối nên ghi nhận.
* Giao Nguyễn Thị L, Nguyễn Thị Huệ được quyền sở hữu, sử
dụng diện tích 99,4m
2
đất các tài sản trên đất; ông Nguyễn Trung V,
Nguyễn Thị Bảy được quyền sở hữu, sử dụng nhà công trình khác trên
diện tích 198,6m
2
đất trong tổng diện tích 329,8m
2
đất tại thửa số 26, tờ Bản đồ
số 20, tại thôn Trung, Cao Viên huyện Thanh Oai, Thành Phố Nội. Ông
Nguyễn Trung V, Nguyễn Thị Bảy; Nguyễn Thị L, Nguyễn Thị Huệ
được sở hữu, sử dụng chung phần lối đi chung có diện tích 31,8m
2
.
Do thửa đất số 26 200m
2
đất ở, 129,8m
2
đất vườn nên tỉ lệ đất
61%, đất vườn 39%.
Trong 198,6m
2
đất giao ông Vụ, Bảy 120,44m
2
đất ở, 78,16m
2
đất
vườn. Giá trị là 2.053.685.385 đồng + 74.098.876 đồng = 2.127.784.261 đồng
Trong 99,4m
2
đất giao Lan, Huệ 60,28m
2
đất ở; 39,12m
2
đất
vườn. Giá trị là 1.027.876.774 đồng + 37.086.749 đồng = 1.064.963.523 đồng.
Trong 31,8m
2
ngõ đi chung 19,28m
2
đất ở, 12,52m
2
đất vườn. Giá trị
328.837.841 đồng + 11.864.775 đồng = 340.702.616 đồng: 3 = 113.567.539
đồng.
Tổng giá trị quyền sử dụng đất ông Vụ, bà Bẩy được nhận thuộc thửa 26
là: 2.127.784.261 đồng + 113.567.539 đồng ngõ đi chung = 2.241.351.800
đồng.
Tổng giá trị quyền sử dụng đất Lan, Huệ được nhận thuộc thửa 26
1.064.963.523 đồng + (113.567.539 đồng x 2) = 1.292.098.601 đồng.
Trên diện tích đất thuộc thửa đất số 26 giao nguyên đơn các công
trình do ông Vụ Bẩy xây dựng gồm: Phần sân gạch 45m
2
x 314.000 đồng x
96%= 13.564.800 đồng; lán lợp tôn phía trước nhà 20m
2
x 457.000 đồng x
96%= 8.774.400 đồng; tường bao 12,72m
2
x 698.000 đồng x 96%= 8.523.418
đồng; bBioga 3.569.000 đồng/m
3
x 25m
3
x 30% = 26.767.500 đồng. Tổng giá
trị là 57.630.118 đồng.
Bà Lan, Huệ phải thanh toán phần giá trị tài sản này 57.630.118
đồng cho ông Vụ, bà Bảy.
(Phần cổng sắt hiện ông Vụ Bảy đang sử dụng buộc ông Vụ, Bảy
phải tháo dỡ trả lại mặt bằng sử dụng đất cho Lan, Huệ; Sau khi cổng sắt
được tháo dỡ ông Vụ, bà Bảy được quyền quản lý, sử dụng vật liệu này)
* Giao Nguyễn Thị L, Nguyễn Thị Huệ được quyền sử dụng thửa
đất số 49, tờ Bản đồ số 20, huyện Thanh Oai, Thành phố Nội diện tích
190,7m
2
gtrị quyền sử dụng đất 180.783.600 đồng được giới hạn bởi
các điểm 1, 2, 3, 4, 5, 10, 11, 12, 13, 14, 15, 16, 17, 1 trên sơ đồ kèm theo.
Ông VBẩy phải di dời cây cối, tài sản khác trên đất để giao lại đất
cho nguyên đơn.
* Giao Nguyễn Thị L, Nguyễn Thị Huệ được quyền sử dụng thửa đất
ruộng thuộc xđồng Soi Viên diện tích 129m
2
, số thửa 135/127 tờ Bản đồ số 9
13
(có giá trị 104.490.000 đồng) x đồng Tài diện tích 75m
2
, số thửa
25/19 tờ Bản đồ số 19. ( có giá trị là 60.750.000 đồng)
* Giao ông Nguyễn Trung V, Nguyễn Thị Bảy được quyền sử dụng
thửa đất ruộng số 123/105 diện tích 270m
2
(Là đất ruộng của riêng ông
Vụ) hiện thửa đất ruộng vẫn đang đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất mang tên ông Nguyễn Trung Thụ.
* Buộc ông Nguyễn Trung V, Nguyễn Thị Bảy phải thanh toán trả
cho Nguyễn Thị L, Nguyễn Thị Huệ số tiền đề đất ruộng 234.000.000
đồng.
Thanh toán chênh lệch:
Công sức ông Vụ Bẩy được nhận giá trị 1.177.816.800 đồng.
Giá trị quyền sử dụng đất được giao 2.241.351.800 đồng. Ông Vụ Bẩy
phải thanh toán chênh lệch cho Lan, Huệ số tiền 2.241.351.800 đồng -
1.177.816.800 đồng = 1.063.535.000 đồng. Lan, bà Huệ phải thanh toán giá
trị tài sản trên đất cho vợ chồng ông Vụ là 57.630.118 đồng nên số tiền ông Vụ
Bẩy n phải thanh toán 1.063.535.000 đồng - 57.630.118 đồng =
1.005.904.882 đồng.
Tổng số tiền ông V Bẩy phải thanh toán cho Lan, Huệ
1.005.904.882 đồng + 234.000.000 đồng = 1.239.904.882 đồng.
c đương sự nga vụ liên hệ với cơ quan Nhàớc thẩm quyền để
đăng khai quyền sử dụng đất theo Quyết định của bản án theo quy định
pháp luật.
Quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Nội phù hợp với
nhận định của HĐXX.
Chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của bị đơn ông Vụ người
quyền lợi và nghĩa vụ liên quan bà Bẩy.
Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của bà Lan đối với phần ngõ đi vào
thửa đất số 49.
Về án phí:
Án phí dân sự phúc thẩm:
Do sửa án sơ thẩm, bị đơn ông Vụ và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên
quan bà Bẩy không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm, được nhận lại dự phí đã
nộp.
Án phí dân sự sơ thẩm:
Lan người cao tuổi nên được miễn án phí dân sự thẩm; Huệ,
ông Vụ, Bảy phải nộp án phí theo giá ngạch đối với phần tài sản được
hưởng.
- Ông Nguyễn Trung V, Nguyễn Thị Bảy phải nộp án phí đối với tổng
số tiền được hưởng là: 1.177.816.800 đồng = 47.334.504 đồng án phí dân sự
thẩm.
- Nguyễn Thị Huệ phải nộp án phí đối với tổng stiền được hưởng là:
1.467.828.600 đồng = 56.034.858 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
các lẽ trên, áp dụng Khoản 2 Điều 308 Bộ luật t tụng dân sự sửa
Bản án dân sự thẩm số 42/2023/DSST ngày 28/12/2023 của Tòa án nhân
dân huyện Thanh Oai, Thành phố Hà Nội.
QUYẾT ĐỊNH:
14
Căn cứ:
- Điều 611, 612, 613, 623, 624, 630, 635, 649, 650, 651, 658, 660, 685,
688 Bộ luật dân sự năm 2015;
- Điều 95, điều 167,170 Luật đất đai năm 2013.
- Điều 82 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính Phủ;
- Các điều 33, 40 Luật hôn nhân & gia đình năm 2014;
- Điểm đ Khoản 1 Điều 12, Điều 26, Điều 27, Điều 29 Nghị quyết
326/2016 của UBTVQH về án phí, lệ phí Tòa án.
Xử:
1/ Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Nguyễn Thị L về yêu cầu chia tài
sản thừa kế theo pháp luật.
Về huyết thống:
Cụ Nguyễn Trung Thụ chết năm 2010, cụ Nguyễn Thị Thành chết năm
2009. Hàng thừa kế thứ nhất của cụ Thụ, cụ Thành Nguyễn Thị L,
Nguyễn Thị Huệ. Ngoài ra cụ Thụ, cụ Thành không con riêng, con nuôi
con ngoài giá thú.
Về di sản:
Xác nhận di sản thừa kế do cụ Nguyễn Trung Thụ, cụ Nguyễn Thị Thành
để lại gồm:
- Thửa đất số 26, tờ Bản đồ số 20 Cao Viên, huyện Thanh Oai, Thành
phố Nội diện tích đo đạc thực tế là 329,8m
2
giá trị 3.533.450.400
đồng.
- Thửa đất số 49, tBản đồ số 20, huyện Thanh Oai, Thành phố Nội
diện tích đo đạc thực tế là 190,7m
2
đất vườn tại xã Cao Viên, huyện Thanh Oai,
Thành phố Hà Nội có giá trị 180.783.600 đồng.
- Đất nông nghiệp (Quỹ đất I) gồm có:
a) Xứ đồng Soi Viên diện tích 129m
2
, số thửa 135/127 tờ Bản đồ số 9
Cao Viên, huyện Thanh Oai, Thành phố Hà Nội có giá trị 104.490.000 đồng.
b) Xứ đồng Bà Tài diện tích 75m
2
, số thửa 25/19 tờ Bản đồ số 19 xã Cao
Viên, huyện Thanh Oai, Thành phố Hà Nội có giá trị 60.750.000 đồng.
- Tiền bồi thường đất ruộng bị thu hồi 234.000.000 đồng.
Về công sức:
Trích công sức cho ông Nguyễn Trung V Nguyễn Thị Bẩy bằng 1/3
giá trị quyền sử dụng thửa đất số 26 tờ Bản đồ số 20 Cao Viên
1.177.816.800 đồng.
Chia bằng giá trị:
Tổng giá trị di sản có giá trị 2.935.657.200 đồng.
Chia thừa kế của cụ Thụ, cụ Thành cho hàng thừa kế thứ nhất của hai cụ
Lan Huệ. Mỗi được hưởng 1 kỷ phần thừa kế giá trị
1.467.828.600 đồng.
Chia bằng hiện vật: (có sơ đồ kèm theo)
* Giao Nguyễn Thị L, Nguyễn Thị Huệ được quyền sở hữu, sử
dụng diện tích 99,4m
2
đất và các tài sản trên đất thuộc thửa đất số 26, tờ Bản đ
số 20 tại thôn Trung, Cao Viên, huyện Thanh Oai, Thành phố Nội, được
giới hạn bởi các điểm 1,2,13,12,1; Được sở hữu, sử dụng chung phần lối đi
15
chung có diện tích 31,8m
2
cùng với ông Vụ, bà Bảy được giới hạn bởi các điểm
2, 3, 4,13, 2. Tổng giá trị là 1.292.098.601 đồng.
Trên diện tích đất thuộc thửa đất số 26 giao nguyên đơn phần sân
gạch; lán lợp tôn phía trước nhà; tường bao; bể Bioga tổng giá trị
57.630.118 đồng. Bà Lan, Huệ phải thanh toán phần giá trị tài sản này cho
ông Vụ, Bảy 57.630.118 đồng. (Phần cổng sắt hiện ông Vụ Bảy đang
sử dụng buộc ông Vụ, Bảy phải tháo dỡ trả lại mặt bằng sử dụng đất cho
Lan, Huệ; Sau khi cổng sắt được tháo dông Vụ, Bảy được quyền quản
lý, sử dụng vật liệu này)
* Giao bà Nguyễn Thị L, Nguyễn Thị Huệ được quyền sử dụng din
tích 190,7m
2
đất vườn thuộc thửa đất số 49 tờ bản đồ số 20, Cao Viên,
huyện Thanh Oai, Thành phố Nội được giới hạn bởi các điểm 1, 2, 3, 4, 5,
10, 11, 12, 13, 14, 15, 16, 17, 1 có giá trị là 180.783.600 đồng.
Ông Nguyễn Trung V, bà Nguyễn Thị Bảy phải di dời toàn bộ cây cối và
tài sản trên thửa đất số 49 để trả lại mặt bằng cho bà Lan, bà Huệ.
* Giao Nguyễn Thị L, Nguyễn Thị Huệ được quyền sử dụng thửa
đất ruộng thuộc xđồng Soi Viên diện tích 129m
2
, thuộc thửa số 135/127, tờ
Bản đồ số 9 giá trị 104.490.000 đồng xđồng Tài diện tích 75m
2
, số
thửa 25/19, tờ Bản đồ số 19 xã Cao Viên, huyện Thanh Oai, Thành phố Hà Nội
có giá trị là 60.750.000 đồng
* Giao ông Nguyễn Trung V, Nguyễn Thị Bảy được quyền sở hữu,
sử dụng nhà công trình khác trên diện tích 198,6m
2
đất tại thửa số số 26,
tờ Bản đồ số 20, tại thôn Trung, Cao Viên huyện Thanh Oai, Thành Phố Hà
Nội được giới hạn bởi các điểm 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, 13, 4. Ông Vụ,
Bảy được cùng sở hữu, sử dụng chung phần lối đi chung diện tích 31,8m
2
với bà Lan, bà Huệ. Tổng giá trị là 2.241.351.800 đồng.
* Giao ông Nguyễn Trung V, Nguyễn Thị Bảy được quyền quản lý,
sử dụng thửa đất ruộng số 123/105 diện tích cụ thể 270m
2
(Là đất ruộng
của riêng ông Vụ) hiện thửa đất ruộng vẫn đang đứng tên trong giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất mang tên ông Nguyễn Trung Thụ.
* Buộc ông Nguyễn Trung V, Nguyễn Thị Bảy phải thanh toán trả
cho Nguyễn Thị L, Nguyễn Thị Huệ số tiền đề đất ruộng 234.000.000
đồng.
Thanh toán chênh lệch:
Công sức ông Vụ Bẩy được nhận giá trị 1.177.816.800 đồng.
Giá trị quyền sử dụng đất được giao 2.241.351.800 đồng. Ông Vụ Bẩy
phải thanh toán chênh lệch cho Lan, Huệ số tiền 1.063.535.000 đồng.
Lan, Huệ phải thanh toán giá trị tài sản trên đất cho vợ chồng ông Vụ
57.630.118 đồng n số tiền còn phải thanh toán là 1.005.904.882 đồng.
Tổng số tiền ông V Bẩy phải thanh toán cho Lan, Huệ
1.005.904.882 đồng + 234.000.000 đồng = 1.239.904.882 đồng.
* Buộc ông Nguyễn Trung V, bà Nguyễn Thị Bảy phải thanh toán cho bà
Nguyễn Thị L, Nguyễn Thị Huệ số tiền 1.239.904.882 đồng.
Các đương sự nghĩa vụ liên hệ với cơ quan Nnước thẩm quyền
để đăng ký khai m thủ tục cấp giấy chng nhận quyền sử dụng đất theo Quyết
định của bản án theo quy định pháp luật.
16
- Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của Nguyễn Thị L đối với
phần ngõ đi vào thửa đất số 49, tờ Bản đồ số 20, tại thôn Trung, Cao Viên
huyện Thanh Oai, Thành Phố Hà Nội.
Về án phí:
Án phí dân sự phúc thẩm:
Bị đơn ông Nguyễn Trung V người quyền lợi nghĩa vụ liên
quan Nguyễn Thị Bẩy không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm, được nhận
lại 300.000 đồng dự phí đã nộp tại Biên lai thu số 0020610 ngày 09/01/2024;
Biên lai thu số 0020613 ngày 10/01/2024 của Chi cục thi hành án huyện Thanh
Oai, Thành phố Hà Nội.
Án phí dân sự sơ thẩm:
- Bà Nguyễn Thị L được miễn án phí dân sự sơ thẩm.
- Ông Nguyễn Trung V, Nguyễn Thị Bảy phải nộp 47.334.504 đồng án
phí dân sự sơ thẩm.
- Bà Nguyễn Thị Huệ phải nộp 56.034.858 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
Kể từ ngày bản án, quyết định hiệu lực pháp luật (đối với các trường
hợp quan thi hành án quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể
từ ngày đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các
khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong,
tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền
lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều
468 Bộ luật dân sự năm 2015.
Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi
hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân
sự quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tnguyện thi
hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật
Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại
Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- VKSND Thành phố Hà Nội;
- TAND huyện Thanh Oai
- Chi cục thi hành án dân sự
huyện Thanh Oai;
- Các đương sự;
- Lưu văn phòng;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Trần Thị Liên Anh
17
Tải về
Bản án số 610/2024/DS-PT Bản án số 610/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 610/2024/DS-PT Bản án số 610/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất