Bản án số 490/2024/DS-PT ngày 29/11/2024 của TAND tỉnh Long An về tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 490/2024/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 490/2024/DS-PT ngày 29/11/2024 của TAND tỉnh Long An về tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Long An
Số hiệu: 490/2024/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 29/11/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Ung Thị T1 “Tranh chấp chia di sản thừa kế, đòi quyền sử dụng đất, yêu cầu vô hiệu văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế” Nguyễn Thị Kim A2
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH LONG AN
Bản án số 501/2024/DS-PT
Ngày 29-11-2024
V/v Tranh chấp chia di sản thừa
kế, đòi quyền sử dụng đất, yêu
cầu hiệu văn bản thỏa thuận
phân chia di sản thừa kế”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LONG AN
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Phùng Thị Cẩm Hồng
Các Thẩm phán: Bà Nguyễn Thị Mỹ Hạnh
Ông Nguyễn Phước Thanh
- Thư ký phiên tòa: Ông Tấn Phong - Thư Tòa án nhân dân tỉnh
Long An.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An: Nguyễn Thị Kim
Chung - Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.
Trong các ngày 22 29 tháng 11 năm 2024, tại Trụ sở Tòa án nhân
dân tỉnh Long An xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ số
396/2024/TLPT-DS ngày 01 tháng 10 năm 2024 về “Tranh chấp chia di sản
thừa kế, đòi quyền sử dụng đất, yêu cầu hiệu văn bản thỏa thuận phân
chia di sản thừa kế”.
Do Bản án dân sự thẩm số 23/2024/DS-ST ngày 29 tháng 5 năm
2024 của Tòa án nhân dân huyện C bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 421/2024/QĐ-PT
ngày 14 tháng 10 năm 2024, giữa các đương sự:
Nguyên đơn:
1. Ung Thị T1, sinh năm: 1958. Địa chỉ: đường P, Phường 11, quận
Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh.
2. Ông Ung n T2, sinh năm: 1964. Địa chỉ: đường N, Phường 11,
quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh.
3. Ung Thị Kim A1, sinh năm: 1966. Địa chỉ: đường P, Phường 11,
quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh.
2
4. Ung Thị M1, sinh năm: 1955. Địa chỉ: đường P, Phường 11, quận
Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh (đã chết năm 2021).
Những người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của bà Mao:
4.1 Ông Nguyễn Văn T3, sinh năm: 1955
4.2 Bà Nguyễn Thị Thanh M2, sinh năm: 1977
4.3 Bà Nguyễn Thị Thanh D, sinh năm: 1979
4.4 Bà Nguyễn Thị Thanh H1, sinh năm: 1981
4.5 Ông Nguyễn Thanh L1, sinh năm: 1987
Cùng địa chỉ: đường P, Phường 11, quận Bình Thạnh, Thành ph Hồ
Chí Minh.
Người đại diện theo ủy quyền của Thuận, ông m, Kim A1, ông
Thanh, Mai, Dung, Hòa, ông Luân: Ông Huỳnh Văn T4, sinh năm
1973. Địa chỉ: thị trấn C, huyện C, tỉnh Long An. (Theo các văn bản ủy
quyền ngày 13/3/2020; ngày 17/10/2023; ngày 29/11/2023).
Bị đơn: Nguyễn Thị Kim A2, sinh năm: 1961
Địa chỉ: ấp MT, xã M, huyện C, tỉnh Long An.
Người đại diện theo ủy quyền của A2: ông Minh T5, sinh năm
1973. Địa chỉ: chung T, phường T, Quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí
Minh. (Theo văn bản ủy quyền ngày 05/5/2021).
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ung Thị Kim S, sinh năm: 1982. Địa chỉ: ấp MT, M, huyện C,
tỉnh Long An.
2. Ung Thị Minh T6, sinh năm: 1989. Địa chỉ: ấp MT, M, huyện
C, tỉnh Long An.
Người đại diện theo ủy quyền của Sang, bà Trang: ông Mai Văn D2,
sinh năm 1989. Địa chỉ: đường N, phường Q, Quận P, Thành phố Hồ Chí
Minh. (Theo văn bản ủy quyền ngày 17/01/2024)
3. Ông Nguyễn Văn U, sinh năm: 1973
4. Bà Trương Ngọc T7, sinh năm: 1975
5. Ông Nguyễn Văn A3, sinh năm: 1964
6. Bà Đỗ Thị Thu T7, sinh năm: 1966
7. Ông Nguyễn Văn D3, sinh năm: 1954
8. Bà Hà Thị K, sinh năm: 1960
Cùng địa chỉ: ấp MT, xã M, huyện C, tỉnh Long An.
9. Văn phòng Công chứng L.
Địa chi: Khu dân cư N, ấp 2, xã T, huyện C, tỉnh Long An.
Người làm chứng:
1. Ông Lê Văn V, sinh năm: 1939
3
Địa ch: p MT, xã M, huyn C, tỉnh Long An.
2.Ung Thị H2, sinh năm: 1939
Đa chỉ: đường M, Phưng 15, Qun 8, Thành phố HC Minh.
Người kháng cáo: ông Nguyễn Văn T3, Nguyễn Thị Thanh M2,
Nguyễn Thị Thanh D, Nguyễn Thị Thanh H1, ông Nguyễn Thanh L1, bà
Ung Thị T1, ông Ung Văn T2, bà Ung Thị Kim A1.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án các nguyên đơn,
cũng như người đại diện theo y quyền của các nguyên đơn cùng trình bày
như sau: Cụ Ung Văn X (chết năm 1991) và cụ Nguyễn Thị T (chết năm
1967). Cụ X cụ T tất cả 05 người con gồm: Ung Thị M1, sinh năm
1955 (chết năm 2021); Ung Thị T1, sinh năm 1958; Ung Văn T2, sinh năm
1964; Ung Thị Kim A1, sinh năm 1964 Ung Văn N, sinh năm 1962 (chết
năm 2013). Khi còn sống cụ X cụ T các tài sản gồm: Thửa đất số 134,
thửa đất số 189, thửa đất số 191, thửa đất số 193, thửa đất số 198, thửa đất số
200, cùng thuộc tờ bản đồ số 01, các thửa đất đều tọa lạc tại ấp M, M,
huyện C, tỉnh Long An. Nguồn gốc các thửa đất của cụ Ung Văn P(cha
ruột của cụ X) chết để lại cho cụ X. Thời điểm này cụ P chưa được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất đối với các thửa đất nêu trên. Sau khi cụ P
chết thì cP để lại các thửa đất này cho cụ X cũng không giấy tờ , đến
thời điểm cụ X chết, cụ X cũng chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất đối với các thửa đất nêu trên.
Sau khi cụ X chết, gia đình để cho ông Ung Văn N người trực tiếp
quản , sử dụng cho thuê đất, cụ thể cho ông Nguyễn Văn A3, ông
Nguyễn Văn U, ông Nguyễn Văn D3 thuê các thửa đất.
Đến năm 2013, ông Ung Văn N chết, sau khi ông N chết thì Nguyễn
Thị Kim A2 vợ của ông N tiếp tục cho các ông Nguyễn Văn A3, ông
Nguyễn Văn U, ông Nguyễn Văn D3 thuê các thửa đất. Việc thuê đất giữa
ông N, A2 với ông A3, ông U, ông D3 diễn ra như thế nào các nguyên
đơn không biết, các nguyên đơn cũng không nhận tiền thuê đất không
sử dụng tiền thuê đất.
Đến năm 2021, c nguyên đơn nghe i lại Nguyễn Thị Kim
A2 kêu bán đất, sau khi m hiểu, các nguyên đơn mới biết các thửa đất số
134, thửa đất số 189, thửa đất số 191, thửa đất số 193, thửa đất số 198, thửa
đất số 200, cùng tờ bản đồ số 01 đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất cho ông Ung Văn N.
Từ khi cụ X chết cho đến nay, các nguyên đơn cũng không biết ai
đang đứng tên Giấy chứng nhận quyền sử dụng các thửa đất này, cứ nghĩ
cụ P còn đứng tên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông bà để lại.
4
Các nguyên đơn xác định các thửa đất đang tranh chấp gồm thửa đất số
134, 189, 191, 193, 198, 200, cùng tờ bản đồ số 01, tọa lạc ấp M, xã M,
huyện C, tỉnh Long An tài sản của cụ Ung Văn X, cụ X được cha ruột
cụ Ung Văn P cho. Nhưng cụ X chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất đối với các thửa đất nêu trên. Ông N khai để được cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, sau khi ông N chết, vợ và các con của ông N
làm thủ tục khai di sản thừa kế lập văn bản thỏa thuận để lại cho bà
Kim A2 toàn bộ các thửa đất nêu trên làm ảnh hưởng đến quyền lợi của
các nguyên đơn.
Các nguyên đơn xác định yêu cầu khởi kiện như sau:
1. Yêu cầu vô hiệu văn bản thỏa thuận phân chia tài sản thừa kế số công
chứng 1074, quyển số 02TP/CC-SCC ngày 05/5/2014 tại Văn phòng công
chứng L đối với các thửa đất số 134, loại đất lúa, diện tích 2155m
2
; thửa đất
số 189, loại đất thổ, diện tích 1440m
2
; thửa đất số 191, loại đất lúa, diện tích
9148m
2
; thửa đất số 193, loại đất lúa, diện tích 2215m
2
; thửa đất số 198, loại
đất vườn, diện tích 1855m
2
; thửa đất số 200, loại đất thổ, diện tích 522m
2
;
các thửa đất cùng thuộc tờ bản đồ số 01, đất tọa lạc ấp M, M, huyện C,
tỉnh Long An.
2. Yêu cầu chia di sản thừa kế của cụ Ung Văn X:
- Chia cho Ung ThM1, Ung Thị T1, Ung Thị Kim A1 thửa
đất số 191, diện tích đo thực tế 9.302,7m
2
, loại đất lúa, mỗi người được
hưởng 3.100,9m
2
. Riêng đối với phần của Ung Thị M1 thì giao cho các
người con của bà Mao được nhận.
- Chia cho ông Ung Văn T2 thửa đất số 189, diện tích đo đạc thực tế
1.037,2m
2
, loại đất nông thôn; thửa đất số 198, diện tích đo đạc thực tế
1.859,4m
2
, loại đất vườn; thửa đất số 200, diện tích đo đạc thực tế 494,2m
2
,
loại đất ở nông thôn.
- Chia cho Ung Thị Kim S, Ung Thị Minh T6, Nguyễn Thị
Kim A2 thửa đất số 134, loại đất lúa, diện tích đo thực tế 2.100,2m
2
và thửa
đất số 193, loại đất lúa, diện tích đo thực tế 2.092,5m
2
.
Về nội dung yêu cầu khởi kiện yêu cầu Nguyễn Thị Kim A2 trả lại
cho các nguyên đơn quyền sử dụng đất tại thửa đất số 191, thửa đất số 189,
thửa đất số 198, thửa đất số 200, thửa đất số 134, thửa đất số 193 thì phía
nguyên đơn xác định rút lại yêu cầu khởi kiện về việc đòi Nguyễn Thị
Kim A2 trả lại các thửa đất này.
Bị đơn Nguyễn Thị Kim A2 người đại diện theo ủy quyền ông
Minh T5 trình y: Về quan hệ gia đình, thống nhất với lời trình bày của
phía nguyên đơn. Chồng bà Nguyễn Thị Kim A2 ông Ung Văn N, chết
ngày 12/8/2013.
5
Nguồn gốc các thửa đất do Nhà nước truất hữu giao cho ông N quản lý,
sử dụng thuộc các thửa sau:
1. Thửa đất lúa số 134, diện tích 2.155m
2
2. Thửa đất thổ số 189, diện tích 1.140m
2
3. Thửa đất lúa số 191, diện tích 9.148m
2
4. Thửa đất lúa số 193, diện tích 2.215m
2
5. Thửa đất vườn số 198, diện tích 1.855m
2
6. Thửa đất thổ số 200, diện tích 522m
2
Các thửa đất cùng thuộc tờ bản đồ số 01, cùng tọa lạc tại ấp M, M,
huyện C, tỉnh Long An do Ủy ban nhân dân huyện C cấp cho ông Ung Văn
N ngày 05/11/1997. Thời điểm cụ X còn sống, cụ X không sử dụng các
thửa đất đang tranh chấp thời gian o, do cX sinh sống Thành phố Hồ
Chí Minh.
Năm 2013, ông N qua đời, thì vợ các con ông N A2 các con
Ung Thị Minh T6 Ung Thị Kim S khai nhận di sản thừa kế. Các
con ông N giao hết phần thừa kế của mình cho mẹ A2 được nhận
quyền sử dụng các thửa đất nêu trên. Cha của ông N là ông Ung Văn X (chết
năm 1991), mẹ ông N Nguyễn Thị T (chết năm 1967), tất cả chết trước
ông N.
Ngày 26/5/2014, bà Nguyễn Thị Kim A2 được Ủy ban nhân dân huyện
C cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất các thửa đất trên, cụ thể như sau:
1. Thửa đất số 189, tờ bản đồ số 01, diện tích 1.140m
2
, loại đất nông
thôn, tọa lạc tại ấp M, M, huyện C, tỉnh Long An theo Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số BT774982, số vào sổ cấp GCN: CH02743 do UBND
huyện C cấp ngày 26/5/2014.
2. Thửa đất số 191, tờ bản đồ số 01, diện tích 9.148m
2
, loại đất chuyên
trồng lúa nước, tọa lạc tại ấp M, xã M, huyện C, tỉnh Long An theo Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số BT774983, số vào sổ cấp GCN: CH02748
do UBND huyện C cấp ngày 26/5/2014.
3. Thửa đất số 193, tờ bản đồ số 01, diện tích 2.215m
2
, loại đất chuyên
trồng lúa nước, tọa lạc tại ấp M, xã M, huyện C, tỉnh Long An theo Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số BT774984, số vào sổ cấp GCN: CH02746
do UBND huyện C cấp ngày 26/5/2014.
4. Thửa đất số 198, tờ bản đồ số 01, diện tích 1.855m
2
, loại đất trồng
cây hàng năm khác, tọa lạc tại ấp M, M, huyện C, tỉnh Long An theo
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BT774985, số vào sổ cấp GCN:
CH02747 do UBND huyện C cấp ngày 26/5/2014.
6
5. Thửa đất s200, tờ bản đồ số 01, diện tích 522m
2
, loại đất nông
thôn, tọa lạc tại ấp M, M, huyện C, tỉnh Long An theo Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số BT774986, số vào sổ cấp GCN: CH02744 do UBND
huyện C cấp ngày 26/5/2014.
6. Thửa đất số 134, tờ bản đồ số 01, diện tích 2.155m
2
, loại đất chuyên
trồng lúa nước, tọa lạc tại ấp M, xã M, huyện C, tỉnh Long An theo Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số BT774987, số vào sổ cấp GCN: CH02745
do UBND huyện C cấp ngày 26/5/2014.
Về việc cho thuê đất, khi ông N còn sống, ông N cho ông A3 ông
D thphần đất lúa để canh tác, tới thời điểm hiện tại t bà Kim A2
người trực tiếp cho ông A3 ông D thuê đất. Kim A2 không tranh
chấp hợp đồng thuê đất đối với ông A3 và ông D , vẫn đồng ý cho ông A3 và
ông D thuê đất. Đối với thửa đất số 189, bà A2 người trực tiếp sử dụng
đất chứ không cho ông U thuê. Thửa đất số 189 ncủa A2,
A2 cất nhà năm 1994 và nhà bcháy cùng năm hiện nay chỉ còn nền nhà,
A2 sử dụng vào việc trồng chuối. Việc ông U trình bày ông U đang sử
dụng đất thửa 189, A2 không đồng ý, nhưng A2 không khởi kiện đòi
ông U trả đất trong vụ án này. Trong trường hợp cần thiết, A2 sẽ khởi
kiện đòi đất với ông U bằng vụ án khác.
Nay các ông (bà) Ung Thị M1, Ung Thị T1, Ung Văn T2 Ung Thị
Kim A1 khởi kiện Nguyễn Thị Kim A2 yêu cầu trả lại các thửa đất 191,
189, 198, 200, 134, 193 yêu cầu chia thừa kế phần di sản của ông Ung
Văn X các thửa đất nêu trên. Phía bị đơn không đồng ý với toàn bộ yêu
cầu khởi kiện của các nguyên đơn.
Những người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Ung Thị Kim S,
Ung Thị Minh T6 người đại diện theo ủy quyền ông Mai Văn D2 trình
bày: S T6 con của ông Ung Văn N bà Nguyễn Thị Kim A2.
Năm 1997, ông N được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với các
thửa đất đang tranh chấp trong vụ án theo chủ trương của Nhà nước, Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số L664267, số vào sổ cấp GCN:
01771QSDĐ/0406, do Ủy ban nhân dân huyện C cấp ngày 05/11/1997.
Nguồn gốc đất do Nhà nước truất hữu giao cho sử dụng. Năm 2013, khi ông
N qua đời, bà S, T6 cùng Kim A2 tiến hành khai nhận di sản thừa kế
của ông N, ông nội đều chết trước ông N. S, T6 và Kim A2
thống nhất đlại toàn bộ các thửa đất cho Kim A2. Bà A2 đã được đứng
tên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với các thửa đất đang tranh chấp
trong vụ án.
S, T6 xác định các thửa đất đang tranh chấp hiện nay tài sản
riêng của A2. S, T6 không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của các
nguyên đơn. Bà S, bà T6 cũng không có yêu cầu độc lập trong vụ án này.
7
Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Văn U, Trương
Ngọc T7 tại trình bày biên bản lấy lời khai ngày 31/7/2023 như sau:
Hiện nay, vợ chồng ông U đang sử dụng thửa đất số 189 một trong
các thửa đất đang tranh chấp trong vụ án. Trên thửa đất 189 trước đây căn
nhà của cụ Ung Văn P, tức ông nội của ông U. Sau khi căn nhà của
cụ P bị cháy, không ai sử dụng đất nên ông mới sử dụng đất để trồng chuối.
Thời gian đầu khi ông U mới sử dụng đất ông không biết ai người đứng
tên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng vì biết đất là của cụ P, nên
ông U vẫn cứ sử dụng. Khi phát sinh tranh chấp giữa nguyên đơn với bị đơn,
ông U mới biết A2 đang đứng tên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
ông U vẫn tiếp tục sử dụng đất nhưng phía A2 không ý kiến gì. Đối
với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, vợ chồng ông U không ý kiến gì,
trong trường hợp Tòa án tuyên xử chia đất cho ai thì ông U cũng đồng ý giao
lại đất cho người đó và xác định không tranh chấp trong vụ án này.
Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Văn A3, Đỗ Thị
Thu T7 trình bày tại các biên bản lấy lời khai ngày 25/10/2022, 15/6/2023
như sau: Nguồn gốc hai thửa đất này do ông đlại, khi ông chết thì
vợ chồng ông N quản , sử dụng cho vợ chồng ông thuê thửa đất số 134
191, hằng năm vợ chồng ông trtiền thuê đất cho ông N, sau khi ông
N chết thì trcho A2. Nhưng khi T7 thuê người tảo mộ hoặc đóng
thuế đất giùm A2 thì khi trtiền thuê đất T7 sẽ trừ lại tiền đóng thuế,
rồi mới trả tiền thuê cho A2. Ông A3, bà T7 không yêu cầu tính công sức
giữ gìn, nâng giá trị đất, nếu tranh chấp ông, bà sẽ khởi kiện bằng một vụ
án khác, không yêu cầu gì trong vụ án này.
Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Văn D3, Thị
K trình y tại biên bản lấy lời khai ngày 25/10/2022 24/10/2023 như
sau: Các thửa đất đang tranh chấp trong vụ án, ông đang canh tác thửa đất số
193, 138, 200 do A2 đứng tên Giấy chứng nhận quyền sdụng đất. Ông
N người chủ động đnghị ông sử dụng đất đgiữ đất giùm ông N. Hằng
năm vợ chồng ông trtiền thuê đất cho ông N, khi ông N chết thì tr
A2. Ban đầu giá thuê là 16 giạ lúa, sau giảm còn 10 giạ lúa, vợ chồng ông tự
bán lúa và trả tiền cho ông N tương ứng với 10 giạ lúa. Đối với yêu cầu khởi
kiện của nguyên đơn , vợ chồng ông không có ý kiến và cũng không tranh
chấp gì trong vụ án này. Vợ chồng ông yêu cầu Tòa án giải quyết, xét xử
vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án.
Người làm chứng ông Văn V trình bày tại biên bản lấy lời khai ngày
23/8/2023 như sau: Trước đây, ông làm tập đoàn trưởng M nên
biết nguồn gốc các thửa đất đang tranh chấp giữa nguyên đơn bđơn.
Phần đất đang tranh chấp trước đây của điền chủ, nhưng khi luật người
cày ruộng ra đời thì giao lại cụ Ung Văn Pcanh tác, sau khi cụ P chết thì
để lại cho cụ Ung Văn X canh tác, ông Vương biết được do thấy khi cụ P
8
chết thì cụ X canh tác đám ruộng đang tranh chấp nên nghĩ cụ P cho đất
cụ X chứ ông không trực tiếp chứng kiến việc cho đất, việc giấy tờ ai
đứng tên ruộng đất ông không biết vì chuyện đó là chuyện gia đình của cụ X,
ông Vương không hỏi làm gì. Cụ X canh tác đất một thời gian thì chính
quyền yêu cầu người dân ruộng đất phải đưa đất vào tập đoàn theo quy
định về đất đai thời bao cấp. Khi tập đoàn tphần đất này được giao trả
lại cho ông Ung Văn N con trai của cụ Ung Văn X canh tác. Ông N cùng
vợ canh tác các thửa đất tranh chấp cho đến khi ông N chết. Từ khi ông N
chết thì vợ ông N cho người khác mướn đất canh tác, chứ vợ ông N không
canh tác. Ông cam đoan những ông khai trung thực. Đồng thời, ông
yêu cầu được giải quyết, xét xử vắng mặt ông trong suốt quá trình Tòa án
giải quyết vụ án.
Người m chứng bà Ung Thị H2 trình bày tại biên bản lấy lời khai
ngày 23/8/2023 như sau: con ruột của cụ Ung Văn Phương, em ruột
của cụ Ung Văn X, các nguyên đơn kêu bà Hạng bằng cô ruột. Những người
con của cụ Ung Văn Pđều đã chết hết, chỉ còn Hạng là còn sống. Toàn bộ
đất đai của cụ P được thời điểm của cụ P còn sống là chia hết cho hai con
trai là cụ Sáu và cụ X, con gái không được chia. Nhưng bà Hạng cũng không
tranh chấp gì đối với phía nguyên đơn bị đơn hiện nay. Đối với các thửa
đất đang tranh chấp trong vụ án thì khi cụ P còn sống đã cho cụ X rồi,
nhưng Hạng không biết làm giấy tờ cho đất hay làm thtục sang tên
cho cụ X hay không, chỉ biết để cụ X canh tác. Phần đất đang tranh chấp
này trước đây cũng có thời gian đưa vô tập đoàn để canh tác, việc đưa vô tập
đoàn trước khi giao cho cụ X canh tác. Khi cụ X chết thì tới vợ chồng ông N
canh tác, Hạng không biết các thửa đất đang tranh chấp ai đứng tên Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất. Về sau khi ông N chết, các anh chị em mới
bắt đầu mâu thuẫn. nghe nói lại vợ ông N cho các người con của cụ Sáu
thuê đất canh tác. cam đoan những khai đúng sự thật. Đồng thời,
yêu cầu Tòa án giải quyết, xét xử vắng mặt trong suốt quá trình giải
quyết vụ án.
Tại Bản án dân sự thẩm số 23/2024/DS-ST ngày 29 tháng 5 năm
2024 của Tòa án nhân dân huyện C đã tuyên:
Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều
39, Điều 91, Điều 147, khoản 1, khoản 2 Điều 227, Điều 229, khoản 2 Điều
244, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Căn cứ Luật đất đai 1993, Điều 166, Điều 167 Luật đất đai 2013; Điều
117, Điều 118, Điều 119, Điều 221, Điều 612 Bộ luật Dân sự năm 2015.
Căn cứ Điều 12, Điều 26 của Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH ngày
30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định v mức thu, miễn,
giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
9
1. Đình chỉ xét xử một phần yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn
gồm bà Ung Thị M1 (người kế thừa quyền nghĩa vụ tố tụng của Ung
Thị M1 gồm ông Nguyễn Văn T3, bà Nguyễn Thị Thanh M2, Nguyễn
Thị Thanh D, Nguyễn Thị Thanh H1, ông Nguyễn Thanh L1), Ung
Thị T1, ông Ung Văn T2 và Ung Thị Kim A1 về việc đòi quyền sử dụng
đất với bị đơn bà Nguyễn Thị Kim A2.
2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn Ung
Thị M1 (người kế thừa quyền nghĩa vụ tố của Ung Thị M1 gồm ông
Nguyễn Văn T3, Nguyễn Thị Thanh M2, Nguyễn Thị Thanh D,
Nguyễn Thị Thanh H1, ông Nguyễn Thanh L1) Ung Thị T1, ông Ung
Văn T2 Ung Thị Kim A1 về việc yêu cầu hiệu văn bản thỏa thuận
phân chia di sản, chia di sản thừa kế đối với bị đơn bà Nguyễn Thị Kim A2.
Bản án thẩm còn tuyên về án phí, chi phí tố tụng, quyền kháng o,
quyền yêu cầu thi hành án đối với các đương sự.
Ngày 07 tháng 6 năm 2024, ông Nguyễn Văn T3, Nguyễn Thị Thanh
M2, Nguyễn Thị Thanh D, Nguyễn Thị Thanh H1, ông Nguyễn Thanh
L1, Ung Thị T1, ông Ung Văn T2, Ung Thị Kim A1 kháng cáo một
phần bản án thẩm. Đề nghị, Hội đồng xét xử phúc thẩm sửa bản án
thẩm theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của các ông, bà.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Đại diện các nguyên đơn không rút đơn khởi kiện, không rút đơn kháng
cáo, phía nguyên đơn bđơn xác định không thay đổi ý kiến trình bày
trong quá trình giải quyết vụ án; các bên đương sự không thỏa thuận được
với nhau về việc giải quyết toàn bvụ án, xác định không cung cấp thêm
chứng cứ mới.
Các nguyên đơn người đại diện ông Huỳnh Văn T4 trình bày: Các
thửa đất đang tranh chấp gồm thửa đất số 134, 189, 191, 193, 198, 200, cùng
tờ bản đồ số 01, cùng tọa lạc ấp M, M, huyện C, tỉnh Long An tài sản
của cụ Ung Văn X, cụ X được cha ruột cụ Ung Văn Pcho. Nhưng cụ X
chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với các thửa đất nêu
trên. Ông N khai để được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, sau
khi ông N chết, vợ các con của ông N m thủ tục khai di sản thừa kế
lập văn bản thỏa thuận đlại cho Kim A2 toàn bộ các thửa đất nêu
trên, làm ảnh hưởng đến quyền lợi của các nguyên đơn. Do đó, đề nghị
Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Bị đơn người đại diện ông Minh T5 trình bày: các thửa đất
đang tranh chấp, ông Ung Văn N được xét và cấp giấy lần đầu năm 1991
theo mẫu tỉnh (Giấy trắng - tấc đất, tấc vàng). Lúc này ông Ung Văn X còn
sống. Đến ngày 05/11/1997, ông Ung Văn N được UBND huyện C cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất theo mẫu Trung ương; về thủ tục lập văn bản
10
thỏa thuận phân chia di sản thừa kế đúng quy định pháp luật bà A2 đã
được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với các thửa đất vào năm
2014. Hiện tại các thửa đất nêu trên tài sản riêng của bà Nguyễn Thị Kim
A2. Các nguyên đơn không chứng cứ chứng minh các thửa đất trên tài
sản, cũng như di sản của ông Ung Văn X, nên chúng tôi không đồng ý trả và
chia tài sản như yêu cầu của nguyên đơn; bị đơn đề nghị Hội đồng xét xử
không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An phát biểu ý kiến:
Về thtục: Thẩm phán đã thực hiện đầy đủ theo quy định của Bộ luật
Tố tụng dân sự; tại phiên tòa Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa tuân thủ
đúng quy định; việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng,
kể từ khi thụ vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án
đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về nội dung: Xét kháng cáo của các nguyên đơn gồm ông Nguyễn Văn
T3, Nguyễn Thị Thanh M2, Nguyễn Thị Thanh D, Nguyễn Thị
Thanh H1, ông Nguyễn Thanh L1, Ung Thị T1, ông Ung Văn T2
Ung Thị Kim A1 về việc yêu cầu tuyên hiệu văn bản thỏa thuận phân
chia di sản thừa kế đối với bị đơn Nguyễn Thị Kim A2 thấy rằng: Căn cứ
vào các chứng cứ tại hồ vụ án lời trình bày của các bên đương sự
trong quá trình giải quyết vụ án, cũng như tại phiên tòa phúc thẩm. Xét thấy,
các nguyên đơn kháng cáo yêu cầu sửa bản án thẩm theo hướng chấp
nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Tuy nhiên, tại cấp phúc
thẩm các nguyên đơn cũng không cung cấp chứng cứ gì mới để chứng minh
cho yêu cầu kháng cáo của mình. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử không
chấp nhận yêu cầu kháng cáo của các nguyên đơn, đề nghị giữ nguyên bản
án sơ thẩm đối với phần này.
Tuy nhiên về phần án phí: Tại quyết định của bản án thẩm tính án
phí chưa phù hợp cụ thể như sau:
Đối với yêu cầu chia di sản thừa kế Mao thuộc diện người cao
tuổi. Bà Mao chết, các con của Mao người kế thừa quyền nghĩa vụ
tố tụng. Bản án thẩm đã xử không chấp nhận yêu cầu của bà Mao vchia
di sản thừa kế theo quy định của pháp luật Mao phải chịu án phí đối
với yêu cầu không được chấp nhận, nhưng do Mao người cao tuổi nên
được miễn án phí. vậy, những người kế thừa quyền nghĩa vụ tố tụng
của Mao cũng không phải chịu án phí đối với phần này, bản án thẩm
tuyên buộc chịu là không phù hợp.
Đối với yêu cầu đòi quyền sử dụng đất thấy rằng vào ngày 11/01/2023
các nguyên đơn yêu cầu A2 trả lại các thửa đất tranh chấp đóng tạm
ứng án phí vào ngày 31/01/2023 theo Biên lai thu số 0004920 số tiền
300.000 đồng. Sau đó, các nguyên đơn đã rút yêu cầu này nên Tòa án cấp sơ
thẩm đã Đình chỉ xét xử một phần yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn,
11
nhưng phần án phí Toà án cấp sơ thẩm không tuyên hoàn trả cho các nguyên
đơn là chưa đúng quy định.
Đối với yêu cầu huỷ Văn bản thoả thuận phân chia di sản thừa kế các
nguyên đơn yêu cầu và đóng tạm ứng án ptheo biên lai thu số 0010201
ngày 11/3/2024 số tiền 300.000 đồng. Nhận thấy, các nguyên đơn cùng
làm chung một đơn yêu cầu khởi kiện bổ sung liên đới đóng tạm ứng án
phí là 300.000 đồng, nên khi yêu cầu của họ không được chấp nhận thì cùng
phải chịu án phí 300.000 đồng khi không chấp nhận yêu cầu mới phù hợp,
án sơ thẩm buộc mỗi người phải chịu 300.000 đồng là chưa phù hợp.
Đề nghị, Hội đồng xét x căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng
dân sự năm 2015, sửa một phần bản án sơ thẩm về phần án phí.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về thủ tục:
[1.1] Đơn kháng cáo của các ông bà: Nguyễn Văn T3, Nguyễn Thị
Thanh M2, Nguyễn Thị Thanh D, Nguyễn Thị Thanh H1, Nguyễn Thanh
L1, Ung Thị T1, Ung Văn T2, Ung Thụ Kim A1 được làm đúng theo quy
định tại Điều 272, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự, nên được xem xét
giải quyết theo trình tự thủ tục phúc thẩm.
[1.2] Về xác định quan hệ tranh chấp thẩm quyền giải quyết vụ án:
Tòa án cấp sơ thẩm xác định quan hệ tranh chấp trong vụ án và giải quyết vụ
án là phù hợp theo quy định tại Điều 26, Điều 35 của B luật Tố tụng dân sự.
[1.3] Về sự vắng mặt của các đương sự: Những người quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan gồm ông Nguyễn Văn D3, Hà Thị K, Văn phòng Công
chứng L; Người làm chứng ông n V và Ung Thị H2 yêu cầu xét
xử vắng mặt; Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm ông
Nguyễn Văn U, Trương Ngọc T7, ông Nguyễn Văn A3, Đỗ Thị Thu
T7 đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt
không do. Căn cứ Điều 296 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành
xét xử vắng mặt những người này.
[2] Về nội dung: Xét kháng cáo của ông Nguyễn Văn T3, Nguyễn
Thị Thanh M2, Nguyễn Thị Thanh D, Nguyễn Thị Thanh H1, Nguyễn
Thanh L1, Ung Thị T1, Ung Văn T2, Ung Thụ Kim A1 thấy rằng:
[2.1] Các bên đương sự đều thống nhất xác định cụ Ung Văn X (sinh
năm 1929, chết năm 1991) cụ Nguyễn Thị Tới (sinh năm 1932, chết năm
1967) vợ chồng. Cụ X cụ T 5 người con gồm: Ung Thị M1, sinh
năm 1955 (chết m 2021); Ung Thị T1, sinh năm 1958; Ung n T2, sinh
năm 1964; Ung Thị Kim A1, sinh năm 1966 Ung n N, sinh năm 1962
(chết năm 2013). Ngoài ra, cụ X và cụ T không con riêng hay con nuôi
nào khác, cha mẹ của cụ Xcụ T đều đã chết.
12
[2.2] Về nguồn gốc thửa đất tranh chấp: Theo các nguyên đơn trình bày,
các thửa đất số 134, thửa đất số 189, thửa đất số 191, thửa đất số 193, thửa
đất số 198, thửa đất số 200, cùng tờ bản đồ số 01, cùng tọa lạc ấp M, M,
huyện C, tỉnh Long An của cụ Ung Văn Ptặng cho lại cụ Ung Văn X, khi
chết cụ X không để lại di chúc. Phía nguyên đơn cho rằng ông Ung Văn N tự
ý khai các thửa đất trên để được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Trong quá trình giải quyết vụ án, các nguyên đơn đều xác định không biết
việc tặng cho đất từ cụ P sang cho cụ X được thực hiện như thế nào, cũng
không làm thủ tục tặng cho hay th tục thừa kế theo quy định thì khi
cha chết rồi thì con được hưởng tài sản, các nguyên đơn xác định không
cung cấp được các giấy tờ tặng cho hay thừa kế từ cụ P qua cụ X đối với các
thửa đất đang tranh chấp, phía nguyên đơn xác định thời điểm này cụ Ung
Văn Pvà Ung n X chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
cũng chưa có giấy tờ gì chứng minh quyền sử dụng đất của cụ P và cụ X.
[2.3] Theo hồ sơ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông N đối
với các thửa đất đang tranh chấp thì nguồn gốc các thửa đất số 134, thửa đất
số 189, thửa đất số 191, thửa đất số 193, thửa đất số 198, thửa đất số 200,
cùng tờ bản đồ số 01, cùng tọa lạc ấp M, M, huyện C, tỉnh Long An do
Chi nhánh Văn phòng đăng đất đai huyện C cung cấp kèm Công văn số
5366/CN.VPĐKĐĐ-KTTL ngày 04/8/2022 thì các thửa đất ông N được cấp
có nguồn gốc từ truất hữu. Mặt khác, căn cứ theo hồ sơ cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất do Trung tâm lưu trữ lịch sử tỉnh Long An cung cấp theo
Quyết định 258 của Ủy ban nhân dân huyện C ngày 23/7/1991 thì không thể
hiện cụ X được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với các thửa đất
trên.
[2.4] Căn cứ vào biên bản lấy lời khai của người làm chứng Ung Thị
H2 em ruột của cụ X cũng không biết cụ X được cụ P tặng cho đất hay
không, nhưng khi cụ X chết thì vợ chồng ông N, Kim A2 đã quản , sử
dụng đất; theo biên bản lấy lời khai của người làm chứng ông Văn V
trước đây tập đoàn trưởng của M, huyện C xác định thì cụ X canh
tác các thửa đất tranh chấp mt thời gian, sau đó chính quyền thời điểm đó
yêu cầu đưa đất vào tập đoàn theo quy định về đất đai thời bao cấp, sau khi
rã tập đoàn thì đất được giao trả lại cho ông Ung Văn N.
[2.5] Tại phiên tòa, phía nguyên đơn trình bày sau khi cụ X chết thì các
người con của cụ X đcho ông N đại diện gia đình đứng ra cho thuê đất, lời
trình bày này của phía nguyên đơn, không được bị đơn A2 thừa nhận, các
nguyên đơn không cung cấp được tài liệu, chứng cứ chứng minh cho lời
trình bày của mình là có căn cứ.
[2.6] Tại biên bản lấy lời khai của những người quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan những người trực tiếp thuê đất như ông D , bà Kim xác định
ông, được sử dụng thửa đất số 193, 198, 200 do sự thỏa thuận với
13
ông N đthuê lại đất ông N người chủ động đề nghị ông D , Kim
thuê đất sử dụng, hằng năm, vợ chồng ông D , Kim đều trả tiền thuê
đất; tương tự như vậy, đối với ông A3, Thủy đều trình bày ông, sử
dụng thửa đất số 134 191 do vợ chồng ông N cho ông bà thuê sử dụng
hằng năm, ông trả tiền thuê cho ông N, sau khi ông N chết thì trả
tiền thuê cho A2. Còn ông U sử dụng thửa đất số 189 cũng do vợ
chồng ông N để cho ông U sử dụng giữ đất giùm. Bị đơn bà A2 cũng xác
định vợ chồng người nhận tiền thuê đất từ những người thuê đất, c
nguyên đơn cũng thừa nhận vợ chồng ông N người nhận tiền thuê đất, các
nguyên đơn không nhận tiền thuê đất cũng không được chia tiền thuê
đất. Như vậy, căn cứ xác định khi ông D , Kim, ông A3, Thủy, ông
U, Tuyền sử dụng các thửa đất tranh chấp đều thỏa thuận đồng ý
của ông N, qua đó có căn cứ xác định ông N người có quyền định đoạt đối
với các thửa đất đang tranh chấp, nên các thửa đất đang tranh chấp không
phải là di sản thừa kế của ông X chết để lại.
[2.7] Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử xét thấy Tòa án cấp
thẩm không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn về
việc yêu cầu tuyên hiệu văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế, yêu
cầu chia di sản thừa kế đối với bị đơn Nguyễn Thị Kim A2 là căn c
phù hợp với quy định của pháp luật. Xét thấy, các nguyên đơn kháng cáo
yêu cầu sửa bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện
của các nguyên đơn. Tuy nhiên, tại phiên tòa phúc thẩm các nguyên đơn
cũng không cung cấp chứng cứ mới để chứng minh cho yêu cầu kháng
cáo của mình. Do đó, không căn cứ để chấp nhận yêu cầu kháng cáo của
các nguyên đơn gồm ông Nguyễn Văn T3, Nguyễn Thị Thanh M2,
Nguyễn Thị Thanh D, Nguyễn Thị Thanh H1, ông Nguyễn Thanh L1,
Ung Thị T1, ông Ung Văn T2 và bà Ung Thị Kim A1.
[3] Ván phí dân sự thẩm: Xét thấy tại quyết định của bản án
thẩm tính án phí buộc các nguyên đơn phải chịu phần chưa phù hợp
theo quy định tại Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự Điều 12, Điều 26 của
Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ
Quốc hội quy định vmức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử dụng án
phí và lệ phí Tòa án thể hiện:
[3.1] Đối với u cầu chia di sản thừa kế của Mao không được chấp
nhận, nhưng Mao người cao tuổi thuộc đối tượng được miễn án phí,
nên những người kế thừa quyền nghĩa vụ tố tụng của Mao cũng phải
được miễn án phí, nhưng Tòa thẩm lại buộc những người kế thừa quyền
và nghĩa vụ tố tụng của bà Mao phải chịu là chưa phù hợp.
[3.2] Đối với yêu cầu đòi quyền sử dụng đất của các nguyên đơn, quá
trình giải quyết vụ án các nguyên đơn xác định đã rút yêu cầu này, Tòa đình
chỉ xét xử đối với yêu cầu này thì phải hoàn lại tiền tạm ứng án phí đã nộp
14
cho các nguyên đơn mới phù hợp, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm không hoàn lại
tiền tạm ứng án phí.
[3.3] Đối với yêu cầu huỷ Văn bản thoả thuận phân chia di sản thừa kế
các nguyên đơn yêu cầu chung đóng tạm ứng án phí số tiền 300.000
đồng, nên khi yêu cầu của các nguyên đơn không được chấp nhận thì các
nguyên đơn cũng phải liên đới chịu án phí 300.000 đồng mới phù hợp, án sơ
thẩm buộc mỗi người phải chịu 300.000 đồng là chưa phù hợp.
Do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm phải sửa lại án phí cho phù hợp.
[4] Phát biểu của Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh
Long An tại phiên tòa phúc thẩm là có căn cứ nên chấp nhận.
[5] Về án pdân sự phúc thẩm: ông Nguyễn Văn T3, Ung Thị T1
được miễn án phí theo điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết
326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội,
Nguyễn Thị Thanh M2, Nguyễn Thị Thanh D, Nguyễn Thị Thanh H1,
Nguyễn Thanh L1, ông Ung Văn T2, bà Ung Thị Kim A1 phải chịu án phí
do kháng cáo không được chấp nhận.
[6] Các phần Quyết định khác của bản án thẩm không kháng o,
kháng nghị hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng
nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Nguyễn n T3, Ung
Thị T1, Nguyễn Thị Thanh M2, Nguyễn Thị Thanh D, bà Nguyễn Thị
Thanh H1, bà Nguyễn Thanh L1, ông Ung Văn T2, bà Ung Thị Kim A1.
Sửa một phần Bản án dân sự thẩm số 23/2024/DS-ST ngày 29 tháng
5 năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Long An.
Căn cứ khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm c khoản 1 Điều
39, Điều 91, Điều 147, Điều 148, Điều 227, Điều 229, Điều 244; Điều 273
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Căn cứ Luật đất đai 1993; Căn cứ Điều 166, Điều 167 Luật đất đai
2013; căn cứ Điều 117, Điều 118, Điều 119, Điều 221, Điều 612 Bộ luật
Dân sự; Điều 12, Điều 26, Điều 29 của Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH
ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu,
miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.
Tuyên xử:
1. Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn
Ung Thị M1 (người kế thừa quyền nghĩa vụ của Ung Thị M1 gồm ông
15
Nguyễn Văn T3, Nguyễn Thị Thanh M2, Nguyễn Thị Thanh D,
Nguyễn Thị Thanh H1, ông Nguyễn Thanh L1), Ung Thị T1, ông Ung
Văn T2 Ung Thị Kim A1 vviệc đòi quyền sử dụng đất với bị đơn
Nguyễn Thị Kim A2.
2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn Ung Thị
M1 (người kế thừa quyền nghĩa vụ của Ung Thị M1 gồm ông Nguyễn
Văn T3, bà Nguyễn Thị Thanh M2, bà Nguyễn Thị Thanh D, bà Nguyễn Thị
Thanh H1, ông Nguyễn Thanh L1) Ung Thị T1, ông Ung Văn T2
Ung Thị Kim A1 về việc yêu cầu vô hiệu Văn bản thỏa thuận phân chia tài
sản thừa kế số công chứng 1074, quyển số 02TP/CC-SCC ngày 05/5/2014
tại Văn phòng công chứng L.
3. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn Ung Thị
M1 (người kế thừa quyền nghĩa vụ của Ung Thị M1 gồm ông Nguyễn
Văn T3, bà Nguyễn Thị Thanh M2, bà Nguyễn Thị Thanh D, Nguyễn Thị
Thanh H1, ông Nguyễn Thanh L1) Ung Thị T1, ông Ung Văn T2
Ung Thị Kim A1 về yêu cầu chia di sản thừa kế đối với bà Nguyễn Thị Kim
A2 tại các thửa đất số 134, loại đất lúa, diện ch 2155m
2
; thửa đất số 189,
loại đất thổ, diện tích 1440m
2
; thửa đất số 191, loại đất lúa, diện tích
9148m
2
; thửa đất số 193, loại đất lúa, diện tích 2215m
2
; thửa đất số 198, loại
đất vườn, diện tích 1855m
2
; thửa đất số 200, loại đất thổ, diện tích 522m
2
;
các thửa đất cùng thuộc tờ bản đồ số 01, đất tọa lạc p M, M, huyện C,
tỉnh Long An.
4. V chi phí tố tụng: Tổng chi phí 56.700.000 đồng. Buộc các
nguyên đơn phải chịu toàn bộ, số tiền này các nguyên đơn đã nộp xong.
5. Về án phí dân sự sơ thẩm:
5.1. Ung Thị M1 (người kế thừa quyền nghĩa vụ của Ung Thị
M1 gồm ông Nguyễn Văn T3, Nguyễn Thị Thanh M2, Nguyễn Thị
Thanh D, Nguyễn Thị Thanh H1, ông Nguyễn Thanh L1) được miễn án
phí đối với yêu cầu phân chia di sản thừa kế không được chấp nhận.
5.2. Ông Ung Văn T2 phải chịu án p300.000 đồng đối với yêu cầu
phân chia di sản thừa kế không được chấp nhận nhưng được khấu trừ số tiền
25.344.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0009635 ngày
29/3/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện C. Hoàn lại cho ông Ung
Văn T2 tiền tạm ứng án phí còn thừa là 25.044.000 đồng.
5.3. Bà Ung Thị Kim A1 phải chịu án phí 300.000 đồng đối với yêu cầu
phân chia di sản thừa kế không được chấp nhận, nhưng được khấu trừ số tiền
15.245.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí số
0009636 ngày 29/3/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện C. Hoàn lại
cho bà Ung Thị Kim A1 tiền tạm ứng án phí còn thừa là 14.945.000 đồng.
16
5.4. Hoàn trả cho Nguyễn Thị Thanh M2, Nguyễn Thị Thanh D,
Nguyễn Thị Thanh H1, ông Nguyễn Thanh L1, ông Ung Văn T2, Ung
Thị Kim A1 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng
án phí số 0004920 ngày 31/01/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện
C.
5.5. Nguyễn Thị Thanh M2, Nguyễn Thị Thanh D, Nguyễn
Thị Thanh H1, ông Nguyễn Thanh L1, ông Ung Văn T2, bà Ung Thị Kim
A1 phải liên đới chịu án phí 300.000 đồng đối với yêu cầu tuyên bố văn bản
công chứng hiệu không được chấp nhận, nhưng được khấu trừ 300.000
đồng đã nộp, theo Biên lai thu tạm ứng án phí số 0010201 ngày 11/3/2024
của Chi cục Thi hành án dân sự huyện C.
5.6. Ung Thị T1 được miễn án phí.
6. V án phí dân s phúc thm:
6.1. Ông Nguyễn Văn T3, bà Ung Thị T1 được miễn án phí.
6.2. Nguyễn Thị Thanh M2, ông Ung Văn T2, Ung Thị Kim A1,
Nguyễn Thị Thanh H1, Nguyễn Thị Thanh D, ông Nguyễn Thanh L1
mỗi người phải chịu 300.000 đồng án phí, nhưng được khấu trừ mỗi người
300.000 đồng đã nộp tạm ứng án phí theo các Biên lai thu số 0011753,
0011754 cùng ngày 06/6/2024 các biên lai thu số 0011799, 0011798,
0011800 cùng ngày 18/6/2024 biên lai thu số 0011815 ngày 21/6/2024
của Chi cục Thi hành án dân sự huyện C.
7. Các phần Quyết định khác của bản án thẩm không kháng cáo,
kháng nghị hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng
nghị.
8. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2
Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi
hành án dân sự quyền thoả thuận thi hành án, quyền u cầu thi hành án,
tự nguyện thi hành án hoặc b cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các
Điều 6, Điều 7, Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được
thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
9. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
-TAND cấp cao tại TP.HCM; THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
-VKSND tỉnh Long An;
- TAND huyện C;
- Chi cục THADS huyện C;
- Các đương sự
- Lưu HS, lưu án văn.
Phùng Thị Cẩm Hồng
17
Các Thẫm phán
Nguyễn Thị M Hạnh – Nguyễn Phước Thanh
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa
Phùng Thị Cẩm Hồng
Tải về
Bản án số 490/2024/DS-PT Bản án số 490/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 490/2024/DS-PT Bản án số 490/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất