Bản án số 09/2025/DS-PT ngày 06/01/2025 của TAND tỉnh Bến Tre về tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 09/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 09/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 09/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 09/2025/DS-PT ngày 06/01/2025 của TAND tỉnh Bến Tre về tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Bến Tre |
Số hiệu: | 09/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 06/01/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Y án sơ thẩm |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH BẾN TRE
Bản án số: 09/2025/DS-PT
Ngày: 06 - 01 - 2025
V/v tranh chấp về chia thừa kế tài sản
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH BẾN TRE
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Phạm Thị Thu Trang;
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Chí Đức;
Bà Nguyễn Thị Rẻn.
- Thư ký phiên tòa: Bà Huỳnh Triệu Anh Thư - Thư ký Tòa án nhân dân
tỉnh Bến Tre.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân
tỉnh Bến Tre tham gia phiên tòa: Ông
Nguyễn Khắc Phiên - Kiểm sát viên.
Ngày 06 tháng 01 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre xét xử
phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 386/2024/TLPT-DS ngày 18 tháng 10 năm
2024 về “Tranh chấp về chia thừa kế tài sản”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 115/2024/DS-ST ngày 13 tháng 8 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện Mỏ Cày Nam bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 4261/2024/QĐXXPT-
DS ngày 30 tháng 10 năm 2024, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn:
Ông Bùi Văn Luận, sinh năm 1960;
Địa chỉ: Ấp An Vĩnh 2, xã Đa Phước Hội, huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre.
Ông Trần Quang Khôi, sinh năm 1996 (có đơn xin xét xử vắng mặt) và ông
Nguyễn Văn Tân, sinh năm 1997 (có mặt), cùng địa chỉ: 118E3, đường số 3, khu
dân cư Sao Mai, khu phố Mỹ Tân, phường 7, thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn ông Bùi Văn Luận:
Bà Nguyễn Thị Mến - Luật sư Công ty Luật Luật sư Mến và Cộng sự - Chi
nhánh Miền Tây, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Bến Tre (có đơn xin xét xử vắng mặt).

2
2. Bị đơn:
2.1. Bà Bùi Thị Yến, sinh năm 1952; (có mặt)
Địa chỉ: Ấp An Vĩnh 2, xã Đa Phước Hội, huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre.
2.2. Ông Bùi Văn Đắc, sinh năm 1957; (có mặt)
Địa chỉ: Ấp An Vĩnh 2, xã Đa Phước Hội, huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre.
2.3. Ông Bùi Văn Hiền, sinh năm 1965; (có mặt)
Địa chỉ: Ấp An Vĩnh 2, xã Đa Phước Hội, huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Ông Bùi Văn Vinh, sinh năm 1962; (có yêu cầu xét xử vắng mặt)
Địa chỉ: Ấp An Vĩnh 2, xã Đa Phước Hội, huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre.
4. Người làm chứng (do nguyên đơn tự mời):
Bà Bùi Thị Quyên, sinh năm: 1981;
Địa chỉ: Ấp An Vĩnh 2, xã Đa Phước Hội, huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre.
5. Người kháng cáo: Bà Bùi Thị Yến, ông Bùi Văn Đắc, ông Bùi Văn Hiền,
là bị đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo nội dung bản án sơ thẩm,
Theo đơn khi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn, người
đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp của
nguyên đơn trình bày:
Cha mẹ của ông Bùi Văn Luận là ông Bùi Văn Huệ và bà Phạm Thị Nhản
có 07 người con gồm: Bùi Văn Cửng, Bùi Thị Yến, Bùi Văn Ẩn, Bùi Văn Đắc,
Bùi Văn Luận, Bùi Văn Vinh, Bùi Văn Hiền. Trong đó, ông Bùi Văn Cửng và ông
Bùi Văn Ẩn là liệt sĩ, không có vợ con.
Lúc còn sống, cha mẹ ông Luận có các phần đất thuộc thửa đất số 2118,
diện tích 10.026m
2
và thửa đất số 2119, diện tích 300m
2
, cùng tờ bản đồ số 03, tọa
lạc tại xã Đa Phước Hội, huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre. Trong quá trình quản
lý, sử dụng đất, cha mẹ ông đã tặng cho, chuyển nhượng các phần đất này và còn
lại tại thời điểm ngày 27/8/2014 là 4.676,1m
2
. Sau khi đo đạc Vłap, các thửa đất
này có diện tích 93,3m
2
thuộc thửa đất số 136 và diện tích 4.582,8m
2
thuộc thửa
đất số 104, cùng tờ bản đồ số 11, tọa lạc tại ấp An Vĩnh 2, xã Đa Phước Hội,
huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre.
3
Ông Bùi Văn Huệ chết năm 2008, đến ngày 24/9/2010, bà Phạm Thị Nhản
cùng tất cả các anh chị em của ông Luận gồm bà Bùi Thị Yến, ông Bùi Văn Đắc,
ông Bùi Văn Luận, ông Bùi Văn Vinh, ông Bùi Văn Hiền thống nhất phân chia
thừa kế cho mẹ ruột là bà Phạm Thị Nhản được toàn bộ thửa đất số 104 và thửa
đất số 136 nêu trên, bà Nhản đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hai
thửa đất này vào ngày 28/8/2014.
Ngày 11/3/2019, bà Phạm Thị Nhản lập di chúc định đoạt cho ông Luận
được hưởng phần đất có diện tích 4.082,8m
2
(trong đó 300m
2
đất thổ cư,
3.782,8m
2
đất trồng cây lâu năm) cùng toàn bộ căn nhà và những tài sản khác gắn
liền trên đất thuộc thửa đất số 104; phần đất có diện tích 93,3m
2
thuộc thửa đất số
136, cùng tờ bản đồ số 11, cùng tọa lạc tại ấp An Vĩnh 2, xã Đa Phước Hội, huyện
Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre. Cả hai phần đất này cùng căn nhà tình nghĩa trên thửa
đất số 104 do nhà nước cấp cho bà Phạm Thị Nhản hiện nay do ông Bùi Văn Hiền
đang quản lý, sử dụng.
Ngày 02/6/2021, bà Phạm Thị Nhản chết. Sau đó, ông Luận tiến hành hoàn
tất thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo di chúc của bà Nhản
nhưng bà Yến, ông Đắc và ông Hiền ngăn cản, không giao giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất đối với hai thửa đất số 136 và 104 cho ông Luận để thực hiện khai
nhận di sản thừa kế. Sau nhiều lần yêu cầu, bà Yến, ông Đắc và ông Hiền vẫn
không đồng ý theo di chúc của bà Phạm Thị Nhản.
Nay ông Bùi Văn Luận khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết: Công nhận di
chúc ngày 11/3/2019 của bà Phạm Thị Nhản là hợp pháp. Buộc bà Bùi Thị Yến,
ông Bùi Văn Đắc và ông Bùi Văn Hiền thực hiện theo di chúc của bà Nhản: Chia
cho ông Luận phần đất có diện tích 4.082,8m
2
, thuộc một phần thửa đất số 104,
nay là thửa đất số 573 (đã bao gồm thửa 573A là khu mộ), tờ bản đồ số 11, tọa lạc
tại ấp An Vĩnh 2, xã Đa Phước Hội, huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre cùng toàn
bộ căn nhà (nhà tình nghĩa, nhà bên, nhà sau, nhà nấu ăn) và cây trồng trên đất;
Chia cho ông phần đất có diện tích 93,3m
2
, thuộc thửa đất số 136, tờ bản đồ số 11,
tọa lạc tại ấp An Vĩnh 2, xã Đa Phước Hội, huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre và
cây trồng trên đất.
Ngoài ra, bà Phạm Thị Nhản cũng định đoạt trong di chúc cho ông Bùi Văn
Vinh phần đất có diện tích 500m
2
, thuộc một phần thửa đất số 104, tờ bản đồ số
11, tọa lạc tại ấp An Vĩnh 2, xã Đa Phước Hội, huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre.
Phần đất này hiện nay do ông Vinh đang quản lý, sử dụng và ông Vinh đã được
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất diện tích 380,9m
2
, nay thuộc thửa đất số
572, tờ bản đồ số 11. Phần còn lại theo di chúc là 119,1m
2
, nay là thuộc một phần
4
của thửa đất số 573, ông Luận đề nghị tạm giao cho ông quản lý, ông Luận đồng ý
giao lại cho ông Vinh khi ông Vinh có yêu cầu. Do đó, ông Luận và ông Vinh sẽ
tự thương lượng và không yêu cầu Toà án giải quyết trong vụ án này.
Trước đây theo đơn khởi kiện ban đầu ông Luận còn có yêu cầu phân chia
các vật dụng trong nhà như bàn, ghế, tủ, giường,… có giá trị khoảng 20.000.000
đồng. Nay ông Luận xin rút lại một phần yêu cầu khởi kiện này.
Đối với kết quả xem xét, thẩm định tại chỗ, đo đạc và định giá tài sản
nguyên đơn không có ý kiến, đồng ý sử dụng để làm cơ sở giải quyết vụ án.
Trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn bà Bùi Thị Yến trình bày:
Mẹ của bà là bà Phạm Thị Nhản chết ngày 02/6/2021. Hàng thừa kế thứ
nhất của bà Phạm Thị Nhản gồm có: Bùi Thị Yến là bà, ông Bùi Văn Đắc, ông
Bùi Văn Luận, ông Bùi Văn Vinh, ông Bùi Văn Hiền. Cha mẹ bà Nhản đã chết,
chồng bà Nhản là ông Bùi Văn Huệ chết năm 2008, hai người con khác là Bùi Văn
Cửng, hy sinh năm 1970, không có vợ con và Bùi Văn Ẩn, hy sinh năm 1972,
không có vợ con.
Khi mẹ bà chết để lại di sản là thửa đất số 136, tờ bản đồ số 11 và thửa đất
số 104 (nay là thửa 573 và 572), tờ bản đồ số 11, cùng tọa lạc tại ấp An Vĩnh 2, xã
Đa Phước Hội, huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre và 01 căn nhà tình nghĩa được
nhà nước trao tặng cho bà Nhản do bà Nhản được Nhà nước phong tặng danh hiệu
Bà mẹ Việt Nam anh hùng, căn nhà cất trên thửa đất số 573 nêu trên. Hiện nay,
thửa đất số 136 và thửa đất số 573 cùng căn nhà do ông Bùi Văn Hiền đang quản
lý sử dụng. Thửa đất số 572 do ông Bùi Văn Vinh đang quản lý sử dụng. Nguồn
gốc các thửa đất nêu trên là của ông Bùi Văn Huệ và bà Phạm Thị Nhản. Năm
2008 ông Huệ chết, bà Nhản và các con cùng thống nhất lập văn bản phân chia di
sản thừa kế giao cho bà Nhản được hưởng các thửa đất này.
Nay ông Luận khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế của bà Nhản theo di
chúc, bà không đồng ý vì di chúc ông Luận đưa ra là không hợp pháp, cụ thể: Bà
Phạm Thị Nhản biết chữ mà di chúc ghi là bà không biết chữ; Người làm chứng
Nguyễn Văn Thép ở đâu không ai biết; người làm chứng Phan Thị Hồng Thủy có
mối quan hệ thân thiết với gia đình ông Luận; giấy khám sức khỏe để lập di chúc
cũng không đúng, do thời điểm lập di chúc năm 2019 bà Nhản bị bệnh rất nhiều,
tinh thần bà không còn minh mẫn, tai còn nghe chỉ được khoảng 20% so với người
bình thường, răng không còn mà phiếu khám sức khỏe nói răng còn nguyên và sức
khoẻ tốt.
5
Ngoài ra, đối với phần nội dung di chúc bà Nhản định đoạt cho ông Bùi Văn
Vinh phần đất có diện tích 500 m
2
là không đúng. Phần đất này (hiện nay là thửa
572) là cha mẹ đã định đoạt cho ông Vinh khi còn sống khoảng 300m
2
, ông Vinh
quản lý, canh tác từ trước năm 2008 nhưng chưa làm thủ tục sang tên quyền sử
dụng đất. Đến năm 2014 đo đạc Vlap thì mới tách thửa cho ông Vinh và chỉ tách
đúng diện tích cha mẹ cho là 300m
2
, qua đo đạc thực tế là 380m
2
. Tuy nhiên, quá
trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, bà không có ý kiến về việc cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất phần đất này cho ông Vinh.
Nếu Tòa án giải quyết không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn
ông Bùi Văn Luận thì bà không yêu cầu Tòa án giải quyết phân chia di sản của bà
Nhản theo pháp luật. Di sản này hiện nay do ông Bùi Văn Hiền đang quản lý, thờ
cúng thì để cho ông Hiền tiếp tục quản lý, thờ cúng. Sau này nếu các chị em của
bà có yêu cầu phân chia thì tự thỏa thuận phân chia hoặc khởi kiện trong một vụ
án khác.
Đối với kết quả xem xét, thẩm định tại chỗ, đo đạc và định giá tài sản, bà
không có ý kiến, đồng ý sử dụng để làm cơ sở giải quyết vụ án.
Trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn ông Bùi Văn Đắc trình bày:
Ông cũng thống nhất như ý kiến của bà Bùi Thị Yến về di sản thừa kế, về
hàng thừa kế của bà Phạm Thị Nhản. Đồng thời ông cũng không đồng ý với di
chúc của ông Luận đưa ra như ý kiến của bà Yến. Ông không đồng ý với yêu cầu
khởi kiện của ông Luận. Nếu Tòa án giải quyết không chấp nhận yêu cầu khởi
kiện của ông Luận thì ông cũng không yêu cầu Tòa án giải quyết phân chia di sản
thừa kế của bà Nhản theo pháp luật. Di sản này hiện nay do ông Bùi Văn Hiền
đang quản lý, thờ cúng thì để cho ông Hiền tiếp tục quản lý, thờ cúng. Sau này nếu
các chị em của ông có yêu cầu phân chia thì tự thỏa thuận phân chia hoặc khởi
kiện trong một vụ án khác. Ông không có ý kiến về việc cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất cho ông Vinh. Đối với kết quả xem xét, thẩm định tại chỗ, đo
đạc và định giá tài sản, ông không có ý kiến, đồng ý sử dụng để làm cơ sở giải
quyết vụ án.
Trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn ông Bùi Văn Hiền trình bày:
Ông cũng thống nhất như ý kiến của bà Bùi Thị Yến về di sản thừa kế, về
hàng thừa kế của bà Phạm Thị Nhản. Đồng thời, ông cũng không đồng ý với di
chúc của ông Luận đưa ra như ý kiến của bà Yến và ông Đắc. Ông không đồng ý
yêu cầu khởi kiện của ông Luận. Nếu Tòa án giải quyết không chấp nhận yêu cầu
khởi kiện của ông Luận thì ông cũng không yêu cầu Tòa án giải quyết phân chia di
sản thừa kế của bà Nhản theo pháp luật. Di sản này hiện nay do ông đang quản lý,
6
thờ cúng thì để cho ông tiếp tục quản lý, thờ cúng. Sau này nếu các chị em của ông
có yêu cầu phân chia thì tự thỏa thuận phân chia hoặc khởi kiện trong một vụ án
khác. Ông không có ý kiến về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho
ông Vinh.
Quá trình quản lý, sử dụng căn nhà tình nghĩa của mẹ ông, ông có sửa chữa
một phần nhỏ, tuy nhiên nếu Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Luận,
ông không yêu cầu ông Luận trả lại cho ông tiền sửa chữa, cũng như không yêu
cầu Tòa án giải quyết phần này. Ngoài ra, trước khi Tòa xét xử khoảng hai tháng,
trên thửa đất số 573, ông có làm một cái chuồng dê bằng cây, lợp lá, nền đất, có
thể di dời được, nếu Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Luận thì ông
cũng đồng ý di dời chuồng dê và không có yêu cầu gì, còn đối với sáu cây bưởi da
xanh do ông Hiền trồng thì ông Hiền không yêu cầu ông Luận hoàn trả giá trị.
Đối với kết quả xem xét, thẩm định tại chỗ, đo đạc và định giá tài sản, ông
không có ý kiến, đồng ý sử dụng để làm cơ sở giải quyết vụ án.
Trong quá trình giải quyết vụ án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
ông Bùi Văn Vinh trình bày:
Căn cứ Di chúc ngày 11/3/2019 do mẹ ông là bà Phạm Thị Nhản lập cho
ông Bùi Văn Luận được hưởng phần đất có diện tích 4.082,8m
2
(trong đó 300m
2
đất thổ cư, 3.782,8m
2
đất trồng cây lâu năm) cùng toàn bộ căn nhà và những tài
sản khác gắn liền trên đất thuộc thửa số 104 (nay thuộc thửa 573); phần đất có
diện tích 93,3m
2
, thuộc thửa đất số 136, cùng tờ bản đồ số 11, cùng tọa lạc tại ấp
An Vĩnh 2, xã Đa Phước Hội, huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre.
Ngoài ra, mẹ ông có di chúc để lại cho ông phần đất có diện tích 500m
2
thuộc
một phần thửa đất số 104, tờ bản đồ số 11, tọa lạc tại ấp An Vĩnh, 2, xã Đa Phước
Hội, huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre. Phần đất này hiện nay ông đang quản lý, sử
dụng, được cấp quyền sử dụng đất thuộc thửa 572, tờ bản đồ số 11, diện tích
380,9m
2
, tọa lạc tại ấp An Vĩnh 2, xã Đa Phước Hội, huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến
Tre đứng tên Bùi Văn Vinh. Phần còn lại là 119,1m
2
thuộc một phần thửa số 573
(thửa cũ là 104), tờ bản đồ số 11, tọa lạc tại ấp An Vĩnh 2, xã Đa Phước Hội, huyện
Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre. Tại bản trình bày ý kiến trước đây ông có trình bày tự
nguyện giao lại cho ông Bùi Văn Luận nhưng nay ông thay đổi không đồng ý giao lại
cho ông Luận nữa vì đây là tài sản của mẹ ông để lại cho ông.
Trường hợp di chúc của mẹ ông là bà Phạm Thị Nhản có hiệu lực pháp luật
thì cho ông được hưởng phần thừa kế của mẹ ông để lại là phần đất diện tích
119,1m
2
thuộc một phần thửa số 573 (thửa cũ là 104), tờ bản đồ số 11, tọa lạc tại
ấp An Vĩnh 2, xã Đa Phước Hội, huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre. Trường hợp
7
di chúc của mẹ ông không có hiệu lực pháp luật thì ông yêu cầu chia thừa kế theo
quy định pháp luật phần tài sản mà mẹ ông để lại.
Do hòa giải không thành, Tòa án nhân dân huyện Mỏ Cày Nam đã đưa vụ
án ra xét xử.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 115/2024/DS-ST ngày 13 tháng 8 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện Mỏ Cày Nam đã tuyên:
Căn cứ vào các điều 611, 612, 613, 623, 624, 625, 626, 627, 628, 630, 631,
632, 635 và Điều 643 của Bộ luật Dân sự;
Căn cứ vào Điều 203 của Luật Đất đai;
Căn cứ vào các điều 147, 157, 158, 165, 166, 217, 218, 227, 228, 271, 273
của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ vào điểm đ khoản 1 Điều 12, Điều 26 của Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;
Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của ông Bùi Văn Luận về việc phân
chia di sản thừa kế là các vật dụng trong nhà như bàn, ghế, tủ, giường,… có tổng
giá trị khoảng 20.000.000 đồng.
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Bùi Văn Luận.
Công nhận Di chúc ngày 11/3/2019 của bà Phạm Thị Nhản là hợp pháp.
Ông Bùi Văn Luận được chia thừa kế theo di chúc đối với diện tích
4.082,8m
2
(bao gồm 250 m
2
đất ở tại nông thôn và 3.832,8m
2
đất trồng cây lâu
năm) thuộc một phần thửa 573, tờ bản đồ số 11, tọa lạc tại ấp An Vĩnh 2, xã Đa
Phước Hội, huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre.
Ông Bùi Văn Luận được chia thừa kế theo di chúc đối với diện tích 93,3m
2
thuộc thửa 136, tờ bản đồ số 11, tọa lạc tại ấp An Vĩnh 2, xã Đa Phước Hội, huyện
Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre.
Tạm giao cho ông Bùi Văn Luận được quyền quản lý, sử dụng diện tích bà
Phạm Thị Nhản định đoạt cho ông Bùi Văn Vinh còn lại theo di chúc là 119,1m
2
đất trồng cây lâu năm thuộc một phần thửa 573, tờ bản đồ số 11, tọa lạc tại ấp An
Vĩnh 2, xã Đa Phước Hội, huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre.
Ông Bùi Văn Luận được quyền quản lý, sử dụng và liên hệ với cơ quan có
thẩm quyền thực hiện thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy
định pháp luật đối với các thửa đất số 573 (bao gồm thửa 573A) và thửa đất số
8
136, cùng tờ bản đồ số 11, toạ lạc tại ấp An Vĩnh 2, xã Đa Phước Hội, huyện Mỏ
Cày Nam, tỉnh Bến Tre cùng căn nhà tình nghĩa và các cây trồng trên đất.
Buộc ông Bùi Văn Hiền di dời chuồng dê ra khỏi thửa đất số 573, tờ bản đồ
số 11, toạ lạc tại ấp An Vĩnh 2, xã Đa Phước Hội, huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến
Tre để giao trả tài sản cho ông Bùi Văn Luận.
Ngoài ra, bản án còn tuyên về án phí, chi phí tố tụng và quyền kháng cáo
của các đương sự.
Ngày 21/8/2024, bị đơn bà Bùi Thị Yến, ông Bùi Văn Đắc, ông Bùi Văn
Hiền kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm. Theo nội dung kháng cáo, bà Yến, ông
Đắc, ông Hiền yêu cầu:
- Hủy di chúc ngày 11/3/2019 của bà Phạm Thị Nhản.
- Phân chia theo thừa kế phần đất của ông bà để lại là phần hương hỏa, chứ
không phải do bà Phạm Thị Nhản tự mua.
- Sửa Bản án sơ thẩm theo hướng không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn ông Luận.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Các bị đơn bà Yến, ông Đắc, ông Hiền giữ nguyên nội dung đơn kháng cáo.
Ông Hiền trình bày ông đang giữ các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà
Nhản.
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn không đồng ý với kháng cáo
của các bị đơn, đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre tham gia phiên tòa phát
biểu ý kiến:
- Về tố tụng: Những người tiến hành tố tụng đã tuân theo đúng các quy định
của pháp luật tố tụng. Những người tham gia tố tụng thực hiện đúng quyền và
nghĩa vụ theo quy định của pháp luật tố tụng.
- Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật
Tố tụng dân sự năm 2015, không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của các bị đơn bà
Yến, ông Đắc, ông Hiền, giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 115/2024/DS-ST
ngày 13 tháng 8 năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre.
Đối với thỏa thuận của các đương sự về lối đi có nêu trong biên bản xem xét, thẩm
định tại chỗ thì đề nghị Hội đồng xét xử xem xét.
9
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ đã được thẩm tra công khai
tại phiên tòa; kết quả tranh tụng tại phiên tòa; ý kiến đề nghị của Kiểm sát viên;
xét kháng cáo của bà Bùi Thị Yến, ông Bùi Văn Đắc, ông Bùi Văn Hiền; Hội đồng
xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng:
Các bị đơn bà Bùi Thị Yến, ông Bùi Văn Đắc, ông Bùi Văn Hiền kháng cáo
và thực hiện các thủ tục kháng cáo hợp lệ, trong thời hạn luật định nên được xem
xét giải quyết theo trình tự phúc thẩm.
[2] Xét kháng cáo, Hội đồng xét xử xét thấy:
[2.1] Về thời hiệu khởi kiện: Theo giấy chứng tử, cụ Phạm Thị Nhản chết
ngày 02/6/2021; đến ngày 30/12/2021, nguyên đơn ông Bùi Văn Luận có đơn khởi
kiện đến Tòa án yêu cầu chia thừa kế là còn thời hiệu khởi kiện về thừa kế theo
quy định tại Điều 623 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
[2.2] Về hàng thừa kế: Hai bên đương sự đều trình bày thống nhất cụ Nhản
có chồng là Bùi Văn Huệ (chết năm 2008); cụ Nhản và cụ Huệ có tất cả 07 người
con đẻ là các ông, bà: Bùi Văn Cửng, Bùi Thị Yến, Bùi Văn Ẩn, Bùi Văn Đắc,
Bùi Văn Luận, Bùi Văn Vinh, Bùi Văn Hiền, trong đó có các ông Bùi Văn Cửng,
Bùi Văn Ẩn đã chết, cả hai đều không có vợ con. Cha mẹ đẻ của cụ Nhản đều đã
chết. Cụ Nhản không có cha mẹ nuôi, không có con riêng hay con nuôi nào khác.
Do đó, hàng thừa kế của cụ Nhản được xác định gồm: bà Bùi Thị Yến, ông Bùi
Văn Đắc, ông Bùi Văn Luận, ông Bùi Văn Vinh, ông Bùi Văn Hiền.
[2.3] Về di sản thừa kế: Các đương sự trình bày thống nhất cụ Huệ và cụ
Nhản có tạo lập các phần đất thuộc thửa đất số 136, 104, sau khi cụ Huệ chết thì
lập văn bản phân chia tài sản thừa kế để cụ Nhản đứng tên quyền sử dụng đất, cụ
thể như sau:
- Thửa đất số 136, tờ bản đồ số 11, diện tích 93,3m
2
, tọa lạc tại ấp An Vĩnh
2, xã Đa Phước Hội, huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre, được Ủy ban nhân dân
huyện Mỏ Cày Nam cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở
và tài sản khác gắn liền với đất cho bà Phạm Thị Nhản vào ngày 28/8/2014. Theo
kết quả xem xét, thẩm định tại chỗ, phần đất này không có công trình, vật kiến
trúc trên đất; có 03 cây dừa loại 2. Các đương sự thống nhất phần đất và cây trồng
trên đất là di sản của bà Phạm Thị Nhản.
10
- Thửa đất số 104, có diện tích 4.582,8m
2
, được Ủy ban nhân dân huyện Mỏ
Cày Nam cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản
khác gắn liền với đất cho bà Phạm Thị Nhản vào ngày 28/8/2014. Năm 2020, thửa
104 được tách ra thành hai thửa 572 và 573, cùng tờ bản đồ số 11.
+ Ngày 08/3/2021 bà Nhản tặng cho thửa 572, có diện tích 380,9 m
2
(trong
đó có 50m
2
đất ở tại nông thôn) cho ông Bùi Văn Vinh và ông Vinh đã được Sở
Tài nguyên và môi trường tỉnh Bến Tre cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất ngày 18/5/2021. Các đương sự
thống nhất không yêu cầu xem xét, giải quyết đối với thửa 572.
+ Đối với thửa đất số 573, có diện tích 4.201,9m
2
, theo kết quả xem xét,
thẩm định tại chỗ trên phần đất này có căn nhà tình nghĩa nhà nước trao tặng cho
bà Nhản gồm có nhà chính, nhà bên, nhà sau, nhà nấu cơm, có ba mươi bốn cây
dừa loại 2, mười tám cây dừa loại 3, ba cây dừa mới trồng, ba bụi chuối, tất cả
phần đất và tài sản trên đất này các đương sự thống nhất là di sản của bà Phạm Thị
Nhản, có sáu cây bưởi da xanh do ông Hiền trồng. Ông Luận yêu cầu phân chia
thừa kế theo di chúc cho ông một phần thửa đất số 573 có diện tích 4.082,8m
2
, căn
nhà và cây trồng trên đất của bà Nhản, phần diện tích còn lại là 119,1m
2
, ông Luận
cho rằng bà Nhản định đoạt cho ông Vinh (trong tổng số 500m
2
theo di chúc,
trong đó ông Vinh đã được cấp quyền sử dụng diện tích 380,9m
2
tại thửa 572 đã
nêu trên) nhưng ông Vinh không thực hiện thủ tục khởi kiện trong vụ án này nên
ông yêu cầu tạm giao cho ông quản lý, ông sẽ giao lại cho ông Vinh khi ông Vinh
có yêu cầu.
[2.4] Xét tính hợp pháp của di chúc ngày 11/3/2019 của bà Phạm Thị Nhản,
Hội đồng xét xử xét thấy:
[2.4.1] Trước khi lập di chúc, bà Nhản có khám sức khỏe tại Trung tâm y tế
huyện Mỏ Cày Nam vào ngày 26/02/2019. Bị đơn cho rằng giấy khám sức khỏe
để lập di chúc không đúng vì thời điểm năm 2019 bà Nhản bị bệnh rất nhiều, tinh
thần bà không còn minh mẫn, tai còn nghe chỉ được khoảng 20% so với người
bình thường, răng không còn mà phiếu khám sức khoẻ nói răng còn nguyên và sức
khỏe tốt. Thấy rằng theo giấy khám sức khỏe bà Phạm Thị Nhản ngày 26/02/2019
thể hiện bà Nhản bị giảm thính lực nhưng hai tai vẫn còn nghe được trong phạm vi
3m (nói thường), đối với răng là 80%, kết luận sức khỏe loại 3 (thể lực, tai, răng),
tinh thần minh mẫn, đủ điều kiện sức khỏe lập di chúc, không phải kết luận sức
khỏe bà Nhản tốt, răng còn nguyên như trình bày của bị đơn. Theo Công văn số
914/TTYT-TCHC ngày 16/12/2022 của Trung tâm y tế huyện Mỏ Cày Nam trả lời
đối với giấy khám sức khỏe của bà Nhản thì Trung tâm đã thực hiện đầy đủ các
11
bước theo quy định. Ngoài ra, bị đơn đưa ra chứng cứ là giấy ra viện của bà Nhản
vào tháng 02/2018 chẩn đoán bà Nhản bị tăng huyết áp, bệnh tim, đau thắt ngực,
lão suy, viêm hô hấp. Đồng thời bị đơn cung cấp các tóm tắt hồ sơ bệnh án của bà
Nhản. Qua xem xét thì trong khoảng thời gian trước và khi lập di chúc các chứng
cứ bị đơn đưa ra như trên không có chẩn đoán nào cho thấy bà Nhản có bệnh về
thần kinh, có tinh thần, ý thức không được bình thường. Ngoài ra, bị đơn không
còn chứng cứ gì chứng minh cho lời trình bày của mình.
[2.4.2] Về hình thức di chúc được lập thành văn bản có chứng thực của Ủy
ban nhân dân xã Đa Phước Hội ngày 11/3/2019. Theo công văn số 652/UBND-
TPHT ngày 30/8/2023 của Ủy ban nhân dân xã Đa Phước Hội thì: Trình tự, thủ tục
chứng thực di chúc của bà Phạm Thị Nhản đúng theo quy định của pháp luật; Tại
thời điểm chứng thực bà Phạm Thị Nhản có mặt tại trụ sở Ủy ban nhân dân xã trong
tinh thần minh mẫn, sáng suốt, hiểu rõ nội dung và tự nguyện lập di chúc; Bà Nhản
có điểm chỉ (trỏ trái, trỏ phải) tại sổ lưu chứng thực lưu tại Ủy ban nhân dân xã.
Ngoài ra trong tờ di chúc có 02 người làm chứng là bà Phan Thị Hồng Thủy và anh
Nguyễn Hoàng Thép, hai người này không thuộc các trường hợp không thể làm
chứng cho việc lập di chúc theo quy định tại Điều 632 của Bộ luật Dân sự. Ngoài ra,
quá trình giải quyết vụ án, hai người làm chứng này đều xác nhận bà Phạm Thị
Nhản minh mẫn, sáng suốt tại thời điểm lập di chúc và có mặt tại trụ sở Uỷ ban
nhân dân xã Đa Phước Hội để thực hiện thủ tục chứng thực di chúc. Bị đơn không
cung cấp được tài liệu, chứng cứ nào chứng minh lời khai của người làm chứng là
không đúng sự thật khách quan. Hơn nữa, bị đơn cho rằng bà Nhản biết chữ mà di
chúc ghi là bà không biết chữ, nhưng điều đó cũng chứng tỏ bà Nhản có thể tự đọc
hiểu được nội dung di chúc, không bị lừa dối khi lập di chúc.
[2.4.3] Về nội dung di chúc: Bà Nhản định đoạt cho con trai là ông Bùi Văn
Vinh được thừa hưởng diện tích 500m
2
đất trồng cây lâu năm thuộc thửa đất số
104, tờ bản đồ số 11. Phần đất này bà và chồng bà là ông Bùi Văn Huệ cho ông
Bùi Văn Vinh từ năm 2006 đến nay nhưng chưa tách bộ, hiện ông Vinh đang trực
tiếp sử dụng. Vị trí diện tích 500m
2
giáp phần đất ông Bùi Văn Hiền và ông Bùi
Văn Sơn. Cho con trai Bùi Văn Luận được thừa hưởng phần diện tích đất còn lại
của 300m
2
đất ở tại nông thôn và 3.782,8 m
2
đất trồng cây hàng năm thửa 104, tờ
bản đồ số 11 (bao gồm nhà và tài sản khác gắn liền trên đất) và toàn bộ diện tích
đất của thửa đất số 136, tờ bản đồ số 11. Con trai Bùi Văn Luận phải có trách
nhiệm lo hậu sự cho bà sau khi bà qua đời và thờ cúng tổ tiên ông bà, không được
ngăn cản họ hàng đến nhà thờ tổ tiên.

12
Xét thấy vào thời điểm lập di chúc, bà Phạm Thị Nhản là chủ sử dụng hợp
pháp đối với hai thửa đất số 136 và 104 (nay là thửa 572 và 573), tờ bản đồ số 11,
toạ lạc tại ấp An Vĩnh 2, xã Đa Phước Hội, huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre. Tại
thời điểm lập di chúc bà Nhản trong trạng thái tinh thần minh mẫn, sáng suốt, tự
nguyện không bị lừa dối, đe dọa hay cưỡng ép theo xác nhận của Ủy ban nhân dân
xã Đa Phước Hội và người làm chứng di chúc. Về nội dung di chúc không vi
phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái
quy định của pháp luật. Vì vậy, có căn cứ xác định di chúc ngày 11/3/2019 của bà
Phạm Thị Nhản là hợp pháp theo quy định tại Điều 630 của Bộ luật Dân sự.
Ngoài ra, trong quá trình quyết vụ án, các bên đương sự đều thống nhất thừa
nhận ông Bùi Văn Luận có cùng với các anh chị em khác lo hậu sự cho bà Phạm
Thị Nhản sau khi bà qua đời và tham gia các nghi lễ theo phong tục tập quán để bà
Phạm Thị Nhản an nghỉ, có tham gia cúng giỗ bà Nhản và ông bà tổ tiên.
[2.5] Đối với sáu cây bưởi da xanh do ông Hiền trồng thì ông Hiền không
yêu cầu ông Luận hoàn trả giá trị nên ghi nhận.
[2.6] Đối với chuồng dê bằng cây gỗ, mái lá, nền đất, có thể tháo dỡ, di dời
được ông Hiền xây dựng trên thửa đất số 573. Xét thấy ông Hiền tự ý làm chuồng
dê sau khi đã phát sinh tranh chấp và ông Hiền cũng đồng ý nếu Tòa án chấp nhận
yêu cầu khởi kiện của ông Luận thì ông Hiền đồng ý tự di dời chuồng dê ra khỏi
thửa đất số 573. Do đó, cần buộc ông Hiền có nghĩa vụ tự tháo dỡ, di dời chuồng
dê ra khỏi thửa đất số 573 để giao trả tài sản cho ông Luận.
[2.7] Tại biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 03/11/2022 của Tòa án
nhân dân huyện Mỏ Cày Nam, các đương sự thống nhất dành một lối đi có chiều
ngang 02m từ đầu đất thửa 136 kéo dài đến phần thổ mộ và không tranh chấp.
Từ những phân tích trên, xét thấy Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn ông Luận là có căn cứ.
[3] Bà Yến, ông Hiền, ông Đắc kháng cáo nhưng không cung cấp được tài
liệu, chứng cứ chứng minh cho yêu cầu kháng cáo là có căn cứ nên Hội đồng xét xử
không chấp nhận kháng cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
[4] Các đương sự trình bày ông Hiền đang quản lý các phần đất tranh chấp.
Tuy nhiên, phần quyết định của Bản án sơ thẩm chưa tuyên buộc ông Hiền giao
các phần đất tranh chấp cho ông Luận là có thiếu sót nên cấp phúc thẩm bổ sung
cho phù hợp.
[5] Đối với các phần còn lại của Bản án không bị kháng cáo, kháng nghị nên
Hội đồng xét xử không xem xét.

13
[6] Quan điểm của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp của nguyên đơn là
phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
[7] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre là phù hợp
với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
[8] Về án phí dân sự phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên
bà Yến, ông Hiền, ông Đắc phải chịu án phí dân sự phúc thẩm theo quy định. Tuy
nhiên bà Yến và ông Đắc thuộc trường hợp người cao tuổi nên được miễn án phí.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Không chấp nhận kháng cáo của bà Bùi Thị Yến, ông Bùi Văn Đắc, ông Bùi
Văn Hiền.
Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 115/2024/DS-ST ngày 13 tháng 8
năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre.
Căn cứ các điều 147, 148, 157, 165, 218, 244 của Bộ luật Tố tụng Dân sự
năm 2015;
Căn cứ vào các điều 611, 612, 613, 623, 624, 625, 626, 627, 628, 630, 631,
632, 635 và Điều 643 của Bộ luật Dân sự năm 2015;
Căn cứ vào Điều 203 của Luật Đất đai năm 2013; Nghị quyết số
326/2016/QH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội
quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí
Tòa án;
Tuyên xử:
1. Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của ông Bùi Văn Luận về việc yêu
cầu phân chia di sản thừa kế là các vật dụng trong nhà như bàn, ghế, tủ, giường,…
có tổng giá trị khoảng 20.000.000đ (hai mươi triệu đồng).
2. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Bùi Văn Luận về tranh
chấp chia thừa kế tài sản. Cụ thể:
Công nhận Di chúc ngày 11/3/2019 của bà Phạm Thị Nhản là hợp pháp.
Ông Bùi Văn Luận được chia thừa kế theo di chúc đối với diện tích
4.082,8m
2
(bao gồm 250m
2
đất ở tại nông thôn và 3.832,8m
2
đất trồng cây lâu
năm) thuộc một phần thửa đất số 573, tờ bản đồ số 11, tọa lạc tại ấp An Vĩnh 2, xã
Đa Phước Hội, huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre.
14
Ông Bùi Văn Luận được chia thừa kế theo di chúc đối với diện tích 93,3m
2
thuộc thửa 136, tờ bản đồ số 11, tọa lạc tại ấp An Vĩnh 2, xã Đa Phước Hội, huyện
Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre.
Tạm giao cho ông Bùi Văn Luận được quyền quản lý, sử dụng diện tích đất
bà Phạm Thị Nhản định đoạt cho ông Bùi Văn Vinh còn lại theo di chúc là
119,1m
2
đất trồng cây lâu năm thuộc một phần thửa 573, tờ bản đồ số 11, tọa lạc
tại ấp An Vĩnh 2, xã Đa Phước Hội, huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre.
(Có bản vẽ kèm theo)
Buộc ông Bùi Văn Hiền phải giao cho ông Bùi Văn Luận phần đất thuộc
thửa đất số 573, thửa đất số 136, cùng tờ bản đồ số 11, tọa lạc tại ấp An Vĩnh 2, xã
Đa Phước Hội, huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre.
Buộc ông Bùi Văn Hiền phải tháo dỡ, di dời chuồng dê ra khỏi thửa đất số
573, tờ bản đồ số 11, tọa lạc tại ấp An Vĩnh 2, xã Đa Phước Hội, huyện Mỏ Cày
Nam, tỉnh Bến Tre để giao đất cho ông Bùi Văn Luận.
Ông Bùi Văn Luận được trọn quyền quản lý, sử dụng và liên hệ với cơ quan
có thẩm quyền thực hiện thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy
định pháp luật đối với các thửa đất số 573 (bao gồm thửa 573A) và thửa đất số
136, cùng tờ bản đồ số 11, tọa lạc tại ấp An Vĩnh 2, xã Đa Phước Hội, huyện Mỏ
Cày Nam, tỉnh Bến Tre và được quyền sở hữu căn nhà tình nghĩa và các cây trồng
trên đất.
3. Về chi phí tố tụng:
Buộc bà Bùi Thị Yến, ông Bùi Văn Đắc mỗi người có nghĩa vụ hoàn trả cho
ông Bùi Văn Luận số tiền là 1.666.500đ (một triệu sáu trăm sáu mươi sáu nghìn
năm trăm đồng).
Buộc ông Bùi Văn Hiền có nghĩa vụ hoàn trả cho ông Bùi Văn Luận số tiền
là 1.667.000 (một triệu sáu trăm sáu mươi bảy nghìn đồng).
4. Về án phí:
4.1. Về án phí dân sự sơ thẩm:
Ông Bùi Văn Luận được miễn án phí dân sự sơ thẩm.
4.2. Về án phí dân sự phúc thẩm:
Bà Bùi Thị Yến, ông Bùi Văn Đắc được miễn án phí dân sự phúc thẩm.
Ông Bùi Văn Hiền phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) nhưng được
khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) theo
biên lai thu tạm ứng án phí số 0002293 ngày 23 tháng 8 năm 2024 của Chi cục Thi
15
hành án dân sự huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre. Ông Hiền đã nộp đủ án phí dân
sự phúc thẩm.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án
dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền
thỏa thuận thi hành án, có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc
bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành
án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi
hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- Các đương sự;
- VKSND tỉnh Bến Tre;
- TAND huyện Mỏ Cày Nam;
- Chi cục THADS huyện Mỏ Cày Nam;
- Phòng KTNV&THA TAND tỉnh;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Phạm Thị Thu Trang
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Bản án số 60/2025/DS-PT ngày 14/02/2025 của TAND tỉnh Cà Mau về tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất
Ban hành: 14/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Bản án số 53/2025/DS-PT ngày 12/02/2025 của TAND tỉnh Cà Mau về tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất
Ban hành: 12/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 24/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 13/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 31/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 24/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 24/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 16/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 06/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 28/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 27/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 18/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 07/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 29/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 07/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Bản án số 610/2024/DS-PT ngày 30/09/2024 của TAND TP. Hà Nội về tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm