Bản án số 925/2024/DS-PT ngày 28/10/2024 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp về thừa kế tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 925/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 925/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 925/2024/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 925/2024/DS-PT ngày 28/10/2024 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp về thừa kế tài sản |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp về thừa kế tài sản |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND cấp cao tại TP.HCM |
Số hiệu: | 925/2024/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 28/10/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Hủy bản án sơ thẩm |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Bản án số: 925/2024/DS-PT
Ngày 28 tháng 10 năm 2024
V/v “Tranh chấp về thừa kế tài sản,
hợp đồng vay tài sản, hợp đồng
cho thuê QSDĐ”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:
Các Thẩm phán:
Ông Nguyễn Văn Tửu
Ông Phan Đức Phương
Ông Mai Xuân Thành
- Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Phương Hà - Thư ký Tòa án nhân dân cấp
cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
tham gia phiên tòa: Ông Nguyễn Mậu Hưng - Kiểm sát viên cao cấp.
Trong các ngày 26 tháng 9 và ngày 28 tháng 10 năm 2024, tại trụ sở Tòa
án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ
án thụ lý số: 398/2024/TLPT-DS ngày 22 tháng 5 năm 2024 về việc “Tranh chấp
về thừa kế tài sản, hợp đồng vay tài sản và hợp đồng cho thuê quyền sử dụng đất”,
do Bản án dân sự sơ thẩm số: 03/2023/DS-ST ngày 15 tháng 3 năm 2023; Thông
báo sửa chữa, bổ sung bản án ngày 30 tháng 3 năm 2023; Quyết định sửa chữa,
bổ sung bản án số: 09/QĐ-SCBSBA ngày 22 tháng 5 năm 2024 của Tòa án nhân
dân thành phố Cần Thơ bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 2540/2024/QĐ-PT ngày
06 tháng 8 năm 2024, giữa các đương sự:
* Nguyên đơn:
1. Ông Đào Chánh T, sinh năm 1965; Nơi cư trú: Số A, đường H, khu V,
phường T, quận N, thành phố Cần Thơ, (có mặt).
2. Ngân hàng thương mại cổ phần X (sau đây gọi tắt là “E”); Trụ sở: Tầng
08, Văn phòng số L+16, Tòa nhà V, số G, đường L, phường B, Quận A, Thành
phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo pháp luật của Ngân hàng E tại cấp sơ thẩm: Ông Trần
Tấn L; Chức vụ: Tổng Giám đốc;
Tại cấp phúc thẩm: Ông Nguyễn Cảnh A; Chức vụ: Chủ tịch hội đồng quản
trị là người đại diện theo pháp luật của Ngân hàng E, (vắng mặt).
2
Người đại diện theo ủy quyền của Ngân hàng E tại cấp sơ thẩm: Ông
Nguyễn Trí C; Chức vụ: Cán bộ xử lý nợ;
Tại cấp phúc thẩm: Ông Nguyễn Quốc N; Chức vụ: Cán bộ Tổ xử lý nợ và
QLKTTS Khu vực Miền T là người đại diện theo ủy quyền (theo Giấy ủy quyền
số: 1245/2024/EIBA/UQ-TGĐ ngày 17 tháng 9 năm 2024), (có mặt).
* Bị đơn:
1. Ông Đào Chánh T1, sinh năm 1954, chết năm 2017;
Người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của ông T1:
1.1. Bà Trần Mỹ V, sinh năm 1960;
1.2. Bà Đào Thị Thu T2, sinh năm 1986;
1.3. Bà Đào Thụy Minh T3, sinh năm 1993;
1.4. Bà Đào Thụy Minh T4, sinh năm 1995;
Cùng cư trú: Số A, tổ F, khu V, phường H, quận C, thành phố Cần Thơ,
(đều vắng mặt).
2. Bà Trần Mỹ V, sinh năm 1960, (vắng mặt);
Người đại diện theo ủy quyền của các bà Trần Mỹ V, Đào Thị Thu T2, Đào
Thụy Minh T3, Đào Thụy Minh T4:
- Ông Lê Tuấn K, sinh năm 1973;
- Ông Trịnh Hữu B, sinh năm 1977;
- Ông Nguyễn Sỹ B1, sinh năm 1996;
Cùng cư trú: Số A, đường T, phường H, quận N, thành phố Cần Thơ (theo
Giấy ủy quyền ngày 14 tháng 12 năm 2020 - BL 433, 434), (ông B1 có mặt, ông
K và ông B vắng mặt).
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Đào Chánh T5, sinh năm 1940; Nơi cư trú: Số I, tổ E, khu V, phường
H, quận C, thành phố Cần Thơ (chết năm 2023, sau khi xét xử sơ thẩm, căn cứ
vào Trích lục khai tử số: 127/TLKT ngày 13 tháng 11 năm 2023 của UBND
phường H).
2. Người thừa kế của ông Đào Chánh T6 (sinh năm 1942, chết năm 2011)
gồm:
2.1. Bà Phù Thị H, sinh năm 1948;
2.2. Ông Đào Thái T7, sinh năm 1977;
2.3. Bà Đào Thị Kim H1, sinh năm 1980;
2.4. Ông Đào Trọng N1, sinh năm 1986;
2.5. Ông Đào Trọng P, sinh năm 1987;
3
Cùng cư trú: Số F, khu V, phường H, quận C, thành phố Cần Thơ, (đều
vắng mặt).
Người đại diện theo ủy quyền của ông/bà Phù Thị H, Đào Thái T7, Đào
Thị Kim H1, Đào Trọng N1, Đào Trọng P: Ông Đào Chánh T (là nguyên đơn nêu
trên; theo Giấy ủy quyền ngày 27 tháng 10 năm 2020 - BL 274-276), (có mặt).
3. Người thừa kế của bà Đào Thị Ngọc N2 (sinh năm 1949, chết năm 2015)
gồm:
3.1. Bà Nguyễn Thị Thúy L1, sinh năm 1975;
3.2. Bà Nguyễn Thị Ngọc D, sinh năm 1979;
Cùng cư trú: Số A, đường H, phường T, quận N, thành phố Cần Thơ, (đều
vắng mặt).
3.3. Bà Nguyễn Thị Ngọc B2, sinh năm 1977; Nơi cư trú: Số I, khu dân cư
E, phường H, quận N, thành phố Cần Thơ, (vắng mặt);
Người đại diện theo ủy quyền của các bà Nguyễn Thị Thúy L1, Nguyễn Thị
Ngọc B2, Nguyễn Thị Ngọc D: Ông Đào Chánh T (là nguyên đơn nêu trên; theo
Giấy ủy quyền ngày 27 tháng 10 năm 2020 - BL 274-276), (có mặt).
4. Bà Đào Thị Ngọc B3, sinh năm 1956; Nơi cư trú: Số H E, AB, T5E1C2,
Canada, (vắng mặt).
5. Ông Đào Chánh T8, sinh năm 1963; Nơi cư trú: Số H, đường H, phường
T, quận N, thành phố Cần Thơ, (vắng mặt).
Người đại diện theo ủy quyền của ông Đào Chánh T8: Ông Đào Chánh T
(là nguyên đơn nêu trên; theo Giấy ủy quyền ngày 27 tháng 10 năm 2020 - BL
274-276), (có mặt).
6. Ông Nguyễn Minh C1, sinh năm 1975 và bà Đặng Thị Thùy T9, sinh
năm 1980; Cùng cư trú: Số A, tổ F, khu V, phường H, quận C, thành phố Cần
Thơ, (ông C1 có mặt, bà T9 vắng mặt).
Người đại diện theo ủy quyền của ông Nguyễn Minh C1 và bà Đặng Thị
Thùy T9: Bà Nguyễn Ánh D1, sinh năm 1952; Nơi cư trú: Số A, đường N, phường
A, quận N, thành phố Cần Thơ (theo Giấy ủy quyền ngày 12 tháng 8 năm 2019
và ngày 20 tháng 9 năm 2019 - BL 279-282), (có mặt).
7. Ban Quản lý dự án và Phát triển quỹ đất quận C, thành phố Cần Thơ; Trụ
sở: Số D, đường P, phường L, quận C, thành phố Cần Thơ, (vắng mặt).
8. Trung tâm Phát triển quỹ đất thành phố C; Trụ sở: Số D, đường N,
phường T, quận N, thành phố Cần Thơ, (vắng mặt).
* Người kháng cáo:
1. Người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của bị đơn là các bà Trần Mỹ V,
Đào Thị Thu T2, Đào Thụy Minh T3, Đào Thụy Minh T4.
4
2. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Nguyễn Minh C1 và bà
Đặng Thị Thùy T9.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Tại cấp sơ thẩm, nguyên đơn là ông Đào Chánh T trình bày:
Ông bà ngoại của nguyên đơn là cụ ông Trần Dư K1 và cụ bà Võ Thị H2
có tổng cộng 30.000m
2
đất (tương đương 03 hecta). Khi còn sống, ông bà ngoại
ông đã chia cho 02 người con là bà Trần Thị B4 (mẹ của ông) và bà Trần Thị N3
(dì của ông) mỗi người 15.000m
2
đất (tương đương 1,5 hecta).
Hiện nay, phần đất 15.000m
2
mà ông bà ngoại cho mẹ của ông bị nhiều hộ
dân lấn chiếm, chỉ còn lại khoảng 11.000m
2
, trong đó có 5.043m
2
được cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất (sau đây gọi tắt là “GCN.QSDĐ”) số S498262, số
vào sổ 02003, thuộc thửa đất số 64, tờ bản đồ số 24, loại đất trồng cây lâu năm,
do Ủy ban nhân dân (sau đây gọi tắt là “UBND”) thành phố Cần Thơ, tỉnh Cần
Thơ cấp cho ông Đào Chánh T1 vào ngày 11 tháng 9 năm 2001 (sau đây gọi tắt
là “thửa số 64”) và hơn 5.000m
2
đất thuộc khu vực 5, phường H, quận C, thành
phố Cần Thơ chưa được cấp GCN.QSDĐ. Lý do ông Đào Chánh T1 được đứng
tên GCN.QSDĐ là vì các anh chị em ông gồm Đào Chánh T5, Đào Thị Ngọc N2,
Đào Chánh T8, Đào Chánh T đã làm văn bản ủy quyền sử dụng cho ông T1 vào
ngày 11 tháng 4 năm 1990 vì ông T1 là em trai út trong gia đình, có trách nhiệm
bảo quản, gìn giữ đất hương hỏa của họ tộc (trên đất có mồ mả của ông bà, cha
mẹ…).
Tuy nhiên, vào năm 2001, khi Nhà nước thu hồi một phần đất hương hỏa
trên để xây cầu Q (lần đầu) và bồi thường giá trị đất số tiền là 52.000.000 (năm
mươi hai triệu) đồng thì ông Đào Chánh T1 không chia số tiền này cho các anh
chị em. Quá bức xúc, các anh chị em ông đã làm đơn khởi kiện yêu cầu chia thừa
kế phần đất hương hỏa cùng số tiền bồi thường khi thu hồi đất đến Tòa án nhân
dân thành phố Cần Thơ, tỉnh Cần Thơ (cũ).
Ba mẹ ông là Đào Chánh T10 và Trần Thị B4 có tất cả 07 người con gồm:
Đào Chánh T5, Đào Chánh T6 (chết năm 2011), Đào Thị Ngọc N2 (chết năm
2015), Đào Chánh T1 (chết năm 2017), Đào Thị Ngọc B3, Đào Chánh T8, Đào
Chánh T. Do chị của ông là bà Đào Thị Ngọc B3 sinh sống ở Canada nên Tòa án
nhân dân thành phố Cần Thơ, tỉnh Cần Thơ đã chuyển hồ sơ lên Tòa án nhân dân
tỉnh Cần Thơ (cũ) để được giải quyết đúng thẩm quyền. Thời điểm đó, các thủ tục
giải quyết án có liên quan đến yếu tố nước ngoài rất khó khăn nên các anh chị em
ông đã từng rút hồ sơ khởi kiện để bổ sung đầy đủ các giấy tờ liên quan để sau
này một mình ông đứng ra khởi kiện.
Tại các đơn khởi kiện, nguyên đơn yêu cầu chia thừa kế như sau:
- Chia quyền sử dụng đất (sau đây gọi tắt là “QSDĐ”) có diện tích 5.043m
2
,
trừ ra 200m
2
đất mộ của ông bà thuộc thửa số 64;
- Chia số tiền 52.000.000 (năm mươi hai triệu) đồng khi Nhà nước thu hồi
đất làm cầu Q (lần 1) mà gia đình ông Đào Chánh T1 đã nhận năm 2001;
5
- Chia số tiền 300.000.000 (ba trăm triệu) đồng khi Nhà nước thu hồi đất
làm cầu Q (lần 2), hiện do Trung tâm Phát triển quỹ đất chi nhánh quận C, thành
phố Cần Thơ đang tạm quản lý;
- Chia số tiền khoảng 1.000.000.000 (một tỷ) đồng mà gia đình ông Đào
Chánh T1 đã cho thuê QSDĐ từ năm 2001 đến nay;
- Chia QSDĐ có diện tích khoảng hơn 5.000m
2
- phần chưa được cấp
GCN.QSDĐ.
Tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn thay đổi yêu cầu khởi kiện, chỉ còn yêu
cầu:
- Chia QSDĐ có diện tích 5.043m
2
, trừ ra 200m
2
đất mộ của ông bà thuộc
thửa số 64;
- Chia số tiền 300.000.000 (ba trăm triệu) đồng khi Nhà nước thu hồi đất
làm cầu Q (lần 2), hiện do Trung tâm Phát triển quỹ đất chi nhánh quận C, thành
phố Cần Thơ đang tạm quản lý;
- Chia QSDĐ có diện tích khoảng 5.000m
2
- phần chưa được cấp
GCN.QSDĐ.
* Theo đơn khởi kiện ngày 30 tháng 6 năm 2014 và trong quá trình tố
tụng, nguyên đơn là Ngân hàng E trình bày:
Ngày 23 tháng 8 năm 2010, Ngân hàng E có ký Hợp đồng tín dụng số 1003-
LAV-201001721 với bà Trần Mỹ V với mục đích cho vay tiêu dùng số tiền
400.000.000 (bốn trăm triệu) đồng trong thời hạn 120 tháng kể từ ngày 28 tháng
8 năm 2010, lãi suất cho vay là 1,30%/tháng, 15,60%/năm, lãi suất quá hạn là
150% lãi suất cho vay.
Để bảo đảm số tiền vay, bà Trần Mỹ V đã thế chấp tài sản là QSDĐ 5.043m
2
đất, loại đất trồng cây lâu năm thuộc thửa số 64 có sự đồng ý của chồng là ông
Đào Chánh T1 và các con là Đào Thị Thu T2, Đào Thụy Minh T3, Đào Thụy
Minh T4. Nhưng kể từ ngày 31 tháng 12 năm 2013, bà Trần Mỹ V không trả vốn
và lãi như thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng nên tất cả các khoản nợ đã chuyển
sang nợ quá hạn.
Nay, Ngân hàng E yêu cầu bà Trần Mỹ V phải thanh toán các khoản nợ sau
(tạm tính đến ngày 28 tháng 02 năm 2023) với số tiền vốn gốc là 315.880.000
đồng, số tiền lãi trong hạn là 372.831.973 đồng, số tiền lãi phạt chậm trả gốc là
257.131.058 đồng, số tiền lãi phạt chậm trả lãi là 283.528.509 đồng. Tổng số tiền
nợ vốn gốc và lãi là 1.229.371.540 đồng. Nếu bị đơn - bà Trần Mỹ V không trả
được nợ thì đề nghị phát mãi tài sản thế chấp để thu hồi nợ.
* Tại đơn yêu cầu phản tố ngày 22 tháng 6 năm 2020, bị đơn - bà Trần
Mỹ V và những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông Đào Chánh
T1 gồm các bà: Trần Mỹ V, Đào Thị Thu T2, Đào Thụy Minh T3, Đào Thụy
Minh T4 (sau đây gọi tắt là “các bị đơn”) trình bày:
6
- Đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn - ông Đào Chánh T, các bị đơn
thừa nhận QSDĐ thửa số 64 có nguồn gốc do ông bà để lại nhưng phản tố không
đồng ý QSDĐ này là tài sản thừa kế. Vì vào năm 1990, các anh chị em của ông
Đào Chánh T1 đã thỏa thuận phân chia tài sản thừa kế của cha mẹ là cụ ông Đào
Chánh T10 và cụ bà Trần Thị B4 như sau:
+ Ông Đào Chánh T5 được chia QSDĐ có diện tích khoảng 6.026m
2
tại
phường H, thành phố Cần Thơ (nay là phường H, quận C, thành phố Cần Thơ);
+ Bà Đào Thị Ngọc N2 được chia mái chái cặp căn nhà số A, đường H,
phường T, thành phố Cần Thơ (nay là phường H, quận C, thành phố Cần Thơ);
+ Ông Đào Chánh T8 được chia 01 vựa củi tại hẻm H, đường H, phường
T, thành phố Cần Thơ (nay là phường H, quận C, thành phố Cần Thơ);
+ Ông Đào Chánh T được chia căn nhà số A, đường H, phường T, thành
phố Cần Thơ (nay là phường H, quận C, thành phố Cần Thơ);
+ Ông Đào Chánh T1 được chia QSDĐ diện tích 5.043m
2
- thửa số 64 tại
phường H, thành phố Cần Thơ (nay là phường H, quận C, thành phố Cần Thơ).
Sau đó, ông Đào Chánh T1 đã làm thủ tục và được UBND thành phố C, tỉnh Cần
Thơ cấp GCN.QSDĐ số S498262, số vào sổ 02003 vào ngày 11 tháng 9 năm 2001
như nêu trên.
Ngày 31 tháng 10 năm 2012, ông Đào Chánh T1, bà Đào Thị Thu T2, bà
Đào Thụy Minh T3, bà Đào Thụy Minh T4 đã ủy quyền cho bà V thế chấp QSDĐ
thửa số 64 để Ngân hàng E cho vay số tiền 400.000.000 đồng với mục đích tiêu
dùng.
Ngày 10 tháng 10 năm 2017, khi biết mình bệnh nặng, ông Đào Chánh T1
đã lập di chúc để lại QSDĐ thửa số 64 cho 03 người con là Thu T2, Minh T3,
Minh T4.
Vì vậy, các bị đơn không đồng ý yêu cầu chia thừa kế của nguyên đơn -
ông Đào Chánh T và yêu cầu Tòa án xem xét công nhận phần đất thửa số 64 và
tài sản gắn liền trên đất thuộc quyền sở hữu hợp pháp của các bị đơn; xem xét thời
hiệu vì thời hiệu yêu cầu chia thừa kế đã hết.
- Đối với yêu cầu của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu
độc lập - ông Nguyễn Minh C1 và bà Đặng Thị Thùy T9, các bị đơn trình bày:
Ngày 24 tháng 3 năm 2014, bà V có cho ông Nguyễn Minh C1 thuê 3.000m
2
thuộc một phần diện tích của thửa số 64, loại đất trồng cây lâu năm, trong thời
hạn 10 năm kể từ ngày 24 tháng 3 năm 2014 đến ngày 24 tháng 3 năm 2024 với
giá thuê là 17.000.000 đồng trong 05 năm đầu (2014-2019) và 20.000.000 đồng
trong 05 năm tiếp theo (2019-2024). Để cam kết hợp đồng thuê, ông C1 phải đặt
cọc số tiền 100.000.000 đồng.
Tại đơn phản tố ngày 22 tháng 6 năm 2020, các bị đơn yêu cầu ông Nguyễn
Minh C1 trả tiếp tiền thuê QSDĐ diện tích 3.000m
2
từ tháng 6 năm 2018 đến
tháng 6 năm 2020 là 24 tháng, mỗi tháng 14.000.000 đồng x 24 tháng =
7
336.000.000 đồng, tiền điện là 1.524.711 đồng, tiền nước là 2.127.600 đồng. Tổng
cộng yêu cầu ông C1 trả số tiền 339.652.311 đồng.
- Đối với yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng E, bị đơn - bà Trần Mỹ V thừa
nhận vào ngày 22 tháng 8 năm 2010, bà được Ngân hàng E cho vay số tiền
400.000.000 đồng để tiêu dùng. Đồng thời, bà được sự ủy quyền của ông Đào
Chánh T1, bà Đào Thị Thu T2, bà Đào Thụy Minh T3, bà Đào Thụy Minh T4 để
có đủ quyền thế chấp QSDĐ thửa số 64 nhằm đảm bảo khoản vay trên. Bà đã
thanh toán được số tiền vốn là 84.120.000 đồng.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan - ông Đào Chánh T5 trình bày:
Theo biên bản làm việc ngày 07 tháng 12 năm 2017 tại Tòa án, ông T5 thể hiện ý
kiến là không có ý kiến gì đối với yêu cầu chia tài sản thừa kế của các em ông và
đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt.
* Những người thừa kế của ông Đào Chánh T6, những người thừa kế
của bà Đào Thị Ngọc N2 và ông Đào Chánh T8 có yêu cầu độc lập, trình bày:
Thống nhất phần trình bày sự việc như nguyên đơn và có yêu cầu chia QSDĐ diện
tích 5.043m
2
thuộc thửa số 64 và chia số tiền 300.000.000 đồng khi Nhà nước thu
hồi đất làm cầu Q (lần 2) hiện do Ban Quản lý dự án và Phát triển quỹ đất quận
C, thành phố Cần Thơ quản lý.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan - bà Đào Thị Ngọc B3 trình
bày: Bà từ chối nhận tài sản thừa kế và mong muốn phần tài sản mà mình được
hưởng sẽ chia đều cho 06 anh chị em đang sống tại Việt Nam.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan - ông Nguyễn Minh C1 và bà
Đặng Thị Thùy T9 có yêu cầu độc lập, trình bày:
Ngày 24 tháng 3 năm 2014, ông C1 có thuê 3.000m
2
đất từ bà Trần Mỹ V.
Phần diện tích đất thuê này thuộc một phần diện tích của thửa số 64 nêu trên, thời
hạn thuê 10 năm kể từ ngày 24 tháng 3 năm 2014 đến ngày 24 tháng 3 năm 2024
với giá thuê là 17.000.000 đồng trong 05 năm đầu (2014-2019) và 20.000.000
đồng trong 05 năm tiếp theo (2019-2024). Để thực hiện cam kết hợp đồng, ông
đặt cọc số tiền là 100.000.000 đồng cho bà V và đưa làm 02 lần, lần 01 đưa
50.000.000 đồng vào ngày 01 tháng 3 năm 2014, lần 02 đưa 40.000.000 đồng vào
ngày 01 tháng 01 năm 2015, còn lại 10.000.000 đồng hẹn công chứng hợp đồng
thuê trả tiếp nhưng bà V không đến công chứng.
Từ tháng 4 năm 2016 đến nay, bà V cúp điện, cúp nước và đuổi những
người thuê trọ ra khỏi các phòng trọ thuê của ông, trong khi ông đã đầu tư xây
dựng trên đất thuê 22 phòng trọ, 01 quán cà phê, tráng xi măng sân vườn diện tích
286m
2
, xây quán cà phê võng diện tích 100,44m
2
, xây nhà vệ sinh, sửa chữa nhà
để xe cho khách uống cà phê, xây 11 bồn hoa, cải tạo đất trồng cây kiểng với tổng
chi phí là 1.999.002.480 đồng.
Tại đơn yêu cầu độc lập ngày 05 tháng 11 năm 2019, ông C1 và bà T9 yêu
cầu tiếp tục thực hiện hợp đồng thuê đến hết thời gian thỏa thuận (ngày 24 tháng
3 năm 2024). Nếu bà V kiên quyết chấm dứt hợp đồng thì ông C1, bà T9 đồng ý
nhưng phải giải quyết cho ông C1, bà T9 được nhận bồi hoàn tài sản xây dựng
8
trên đất theo định giá của Trung tâm Phát triển quỹ đất quận C. Đồng thời, bà V
phải trả tiền đặt cọc 90.000.000 đồng. Ngoài ra, bà V đòi tiền thuê đất từ tháng 6
năm 2018 đến nay thì bà V phải bồi thường tiền mất thu nhập cho ông C1, bà T9
cũng từ tháng 6 năm 2016 đến nay về nhà trọ và kinh doanh quán cà phê.
* Tại phiên tòa sơ thẩm ngày 10 tháng 3 năm 2023 (BL 626), ông C1 và
bà T9 do bà Nguyễn Ánh D1 đại diện, trình bày: Thay đổi yêu cầu độc lập, chỉ
còn yêu cầu công nhận tài sản cho ông C1, bà T9 theo biên bản thẩm định năm
2022 và các tài sản khác như bồn hoa, hàng rào là của ông C1, bà T9 {cụ thể yêu
cầu công nhận vật kiến trúc và tài sản trên QSDĐ thuê diện tích 3.000m
2
gồm 22
phòng trọ (trừ khung quán cà phê bằng gỗ) và bồn hoa, hàng rào là thuộc sở hữu
của ông C1, bà T9} và ông C1, bà T9 sẽ thực hiện việc tháo dỡ, di dời khi án có
hiệu lực, nhưng xin được lưu cư trên đất thuê trong thời gian 06 tháng để thực
hiện việc tháo dỡ, di dời; đồng thời, yêu cầu bị đơn - bà Trần Mỹ V phải trả lại số
tiền đặt cọc là 90.000.000 (chín mươi triệu) đồng.
* Trung tâm Phát triển quỹ đất thành phố Cần Thơ trình bày:
Dự án Trung tâm Văn hóa T (giai đoạn A) có tổng diện tích đất thu hồi
khoảng 43,37ha, trước đây nằm trên hai phường là phường H và phường H, quận
C, thành phố Cần Thơ. Vừa qua, Trung tâm Phát triển quỹ đất thành phố Cần Thơ
và Trung tâm Phát triển quỹ đất chi nhánh quận C, thành phố Cần Thơ (nay là
Ban Quản lý dự án và Phát triển quỹ đất quận C, thành phố Cần Thơ) cùng thực
hiện công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư. Trong đó, Trung tâm Phát triển
quỹ đất thành phố C thực hiện công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư trên địa
bàn phường H, còn Ban Quản lý dự án và Phát triển quỹ đất quận C, thành phố
Cần Thơ thực hiện công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư trên địa bàn phường
H.
Đối với phần QSDĐ đang tranh chấp tại thửa số 64 có bị ảnh hưởng bởi dự
án Trung tâm V1 (giai đoạn 1 và giai đoạn 2) theo bản trích đo địa chính ngày 19
tháng 01 năm 2021 của Trung tâm Kỹ thuật Tài nguyên và Môi trường thành phố
C thể hiện nằm trên địa bàn phường H, quận C, thành phố Cần Thơ.
Đối với phần đất, tài sản ảnh hưởng giai đoạn 1 theo Công văn số
30/BQLDAPTQĐ ngày 13 tháng 01 năm 2021 của Ban Quản lý dự án và Phát
triển quỹ đất quận C, thành phố Cần Thơ cho biết trường hợp ông Đào Chánh T1
(chết), vợ là bà Trần Mỹ V không đồng ý cho kiểm đếm, lập hồ sơ bồi thường.
Đối với phần đất, tài sản ảnh hưởng giai đoạn 2 thì chưa triển khai thực
hiện.
* Ban Quản lý dự án và Phát triển quỹ đất quận C, thành phố Cần Thơ
trình bày:
Quyết định số 984/QĐ-UB ngày 06 tháng 4 năm 2018 của UBND quận C,
thành phố Cần Thơ về việc thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc
gia, công cộng thu hồi diện tích 321,1m
2
đất của ông Đào Chánh T1 (chết, có vợ
là Trần Mỹ V đại diện) thuộc thửa số 64, tại phường H, quận C, thành phố Cần
9
Thơ. Lý do thu hồi đất để xây dựng cầu Q (đơn nguyên B), phường H, quận C,
thành phố Cần Thơ.
Từ Quyết định số 984/QĐ-UB ngày 06 tháng 4 năm 2018 của UBND quận
C, thành phố Cần Thơ, Hội đồng Bồi thường, hỗ trợ và tái định cư dự án xây dựng
cầu Q (đơn nguyên 2) thuộc dự án Phát triển thành phố Cần Thơ và tăng cường
khả năng thích ứng của đô thị tại phường H, quận C, thành phố Cần Thơ đã lập
danh sách bồi thường diện tích 321,1m
2
đất thu hồi thuộc thửa số 64 với số tiền
tương ứng là 379.784.900 đồng; cụ thể: Diện tích đất thu hồi 321,1m
2
có số tiền
bồi thường là 288.990.000 đồng và vật kiến trúc, công trình phụ trên đất có số tiền
bồi thường là 13.088.700 đồng, chính sách hỗ trợ là 77.706.200 đồng. Hiện, Ban
Quản lý dự án và Phát triển quỹ đất quận C, thành phố Cần Thơ đang tạm quản lý
số tiền 379.784.900 đồng.
* Tại Bản án dân sự sơ thẩm số: 03/2023/DS-ST ngày 15 tháng 3 năm
2023; Thông báo sửa chữa, bổ sung bản án ngày 30 tháng 3 năm 2023; Quyết
định sửa chữa, bổ sung bản án số: 09/QĐ-SCBSBA ngày 22 tháng 5 năm 2024
của Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ, đã quyết định:
Áp dụng khoản 3 Điều 26, khoản 3 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 37, khoản
2 Điều 218 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 612, Điều 649, Điều 651, Điều
660 Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 91 Luật Các tổ chức tín dụng; Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc
hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ
phí Tòa án,
Tuyên xử:
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn - ông Đào Chánh
T và tách yêu cầu khởi kiện bổ sung đối với yêu cầu chia 5.000m
2
QSDĐ - phần
chưa có GCN.QSDĐ thành vụ án khác (nếu còn yêu cầu); chấp nhận một phần
yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn - Ngân hàng E; đình chỉ yêu cầu phản tố của
các bị đơn; chấp nhận yêu cầu độc lập của những người thừa kế của ông Đào
Chánh T6, những người thừa kế của bà Đào Thị Ngọc N2 và ông Đào Chánh T8;
chấp nhận yêu cầu độc lập của ông Nguyễn Minh C1 và bà Đặng Thị Thùy T9.
1. Nguyên đơn - ông Đào Chánh T; những người thừa kế của ông Đào
Chánh T6 gồm vợ là bà Phù Thị H và các con là ông Đào Thái T7, bà Đào Thị
Kim H1, ông Đào Trọng N1, ông Đào Trọng P; những người thừa kế của bà Đào
Thị Ngọc N2 gồm các con là bà Nguyễn Thị Thúy L1, bà Nguyễn Thị Ngọc D,
bà Nguyễn Thị Ngọc B2; ông Đào Chánh T8; những người thừa kế của ông Đào
Chánh T1 gồm các bị đơn đều được chia diện tích QSDĐ thừa kế là 948,78m
2
và
được chia số tiền là 57.798.000 đồng tương ứng trên mỗi phần thừa kế. QSDĐ
được chia thừa kế chỉ là căn cứ để tính giá trị bồi thường cụ thể khi Nhà nước có
quyết định thu hồi đất, thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư (nếu
có) khi thực hiện giai đoạn 2 của dự án Trung tâm V1, không chia theo hiện vật;
phần tiền được chia thừa kế thì các đương sự tự liên hệ đến Ban Quản lý dự án và
Phát triển quỹ đất quận C, thành phố Cần Thơ để nhận.
10
Hộ gia đình của ông Đào Chánh T6, hộ gia đình của bà Đào Thị Ngọc N2,
hộ gia đình của ông Đào Chánh T1 được tiếp tục ổn định, sinh sống trên nhà hiện
hữu trên phần đất chưa thu hồi của thửa số 64 cho đến khi Nhà nước thực hiện thu
hồi đất, thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư (nếu có) đối với
người đang định cư trên đất thu hồi.
2. Bị đơn - bà Trần Mỹ V có nghĩa vụ thanh toán Hợp đồng tín dụng số
1003-LAV-201001721 cho Ngân hàng E số tiền vốn gốc là 315.880.000 đồng, số
tiền lãi trong hạn là 372.831.973 đồng, số tiền lãi phạt chậm trả gốc là 257.131.058
đồng, số tiền lãi phạt chậm trả lãi là 283.528.509 đồng; tổng số tiền nợ vốn gốc
và lãi (tạm tính đến ngày 28 tháng 02 năm 2023) là 1.229.371.540 đồng.
Ngân hàng E có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự thực hiện việc
thu hồi tài sản nợ của bà Trần Mỹ V đối với phần tài sản mà bà Trần Mỹ V được
hưởng thừa kế từ ông Đào Chánh T1.
Bị đơn - bà Trần Mỹ V có nghĩa vụ hoàn trả số tiền đặt cọc 90.000.000
đồng cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Nguyễn Minh C1 và bà
Đặng Thị Thùy T9.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan - ông Nguyễn Minh C1 và bà
Đặng Thị Thùy T9 phải thực hiện việc di dời, tháo dỡ tài sản (gồm 22 phòng trọ,
01 nhà xe, 01 chuồng gà) trên phần đất chưa thu hồi của thửa số 64 trong thời hạn
03 tháng kể từ ngày án có hiệu lực pháp luật.
4. Kể từ ngày Ngân hàng E có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bị đơn - bà Trần
Mỹ V chậm trả số tiền trên thì còn phải chịu khoản tiền lãi tiếp tục theo hợp đồng
tín dụng mà hai bên đã ký kết tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án
cho đến khi tất nợ.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về chi phí tố tụng, án phí và quyền
kháng cáo theo luật định.
- Ngày 28 và ngày 30 tháng 3 năm 2023, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan là ông Nguyễn Minh C1 và bà Đặng Thị Thùy T9 có đơn kháng cáo một
phần bản án sơ thẩm, với lý do:
Phần tài sản ông C1, bà T9 xây dựng trên đất thuê gồm phần tráng sân xi
măng, sân lát gạch, bồn hoa chưa được cấp sơ thẩm xem xét, ghi nhận nên Trung
tâm Phát triển quỹ đất không bồi thường cho ông C1, bà T9 được. Do đó, yêu cầu
Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng công nhận quyền sở hữu
cho ông C1, bà T9 đối với 22 căn nhà trọ, 01 nhà xe, 01 chuồng gà, phần tráng
sân xi măng và đường có diện tích 286m
2
, sân lát gạch tàu và bồn hoa có diện tích
127,8m
2
, 11 bồn hoa có bán kính vòng tròn 07m/bồn; đồng thời cho ông C1, bà
T9 thời gian di dời tài sản là 06 tháng.
- Ngày 30 tháng 3 năm 2023, các bị đơn có đơn kháng cáo bản án sơ thẩm,
với lý do: Về tố tụng, Tòa án cấp sơ thẩm không tống đạt hợp lệ các thủ tục tham
gia tố tụng cho bị đơn theo quy định. Về nội dung, Tòa án cấp sơ thẩm không xem
xét, đánh giá khách quan, toàn diện các chứng cứ, tình tiết của vụ kiện; không
11
xem xét công sức đóng góp về quản lý, giữ gìn và tôn tạo tài sản trong hơn 30
năm của gia đình bị đơn; không xem xét bản chất của “Tờ thuận phân chia tài sản
thừa kế”, thực chất là phân chia tài sản thừa kế của cha mẹ vì ông T1 không được
chia tài sản nào khác ngoài phần đất này, trong khi các anh chị em của ông T1 đã
được chia nhà đất nơi khác tại cùng một thời điểm nên Tòa án cấp sơ thẩm ban
hành bản án gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi hợp pháp của bị đơn. Do
đó, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm, bác toàn bộ yêu cầu khởi
kiện của nguyên đơn.
1. Tại phiên tòa phúc thẩm ngày 26 tháng 9 năm 2024:
- Người kháng cáo là các bị đơn do ông Nguyễn Sỹ B1 đại diện theo ủy
quyền, trình bày:
Tòa án cấp sơ thẩm xét xử đình chỉ yêu cầu phản tố của các bị đơn với lý
do bị đơn đã được triệu tập hợp lệ 02 lần đến tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt
không rõ lý do, là không đúng quy định của pháp luật, bởi: Ông Lê Tuấn K, ông
Trịnh Hữu B và ông Nguyễn Sỹ B1 được các bị đơn ủy quyền tham gia tố tụng
theo Giấy ủy quyền công chứng ngày 14 tháng 12 năm 2020. Thời hạn ủy quyền
là 60 tháng tính từ ngày công chứng. Nhưng từ khi nhận ủy quyền thì những người
được ủy quyền gồm ông K, ông B và ông B1 đều không được Tòa sơ thẩm mời
tham dự hòa giải, tham dự việc xem xét thẩm định tại chỗ tài sản tranh chấp và
cũng không được mời tham dự các phiên tòa sơ thẩm, nên việc Tòa sơ thẩm cho
rằng: “Bị đơn được triệu tập hợp lệ 02 lần đến tham gia phiên tòa nhưng vắng
mặt không rõ lý do nên đình chỉ yêu cầu phản tố của bị đơn” là hoàn toàn không
đúng sự thật, vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, ảnh hưởng nghiêm trọng đến
quyền lợi hợp pháp của các bị đơn.
Tại phiên tòa phúc thẩm, ông B1 còn khẳng định tại địa chỉ A T, phường
H, quận N, thành phố Cần Thơ từ trước đến nay không có ai tên Bích T11 làm
việc và sinh sống tại địa chỉ này, nên việc Bưu điện thành phố C xác nhận đã tống
đạt giấy triệu tập của Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ cho ông K, ông B, ông
B1 tại số A T, phường H, quận N, thành phố Cần Thơ 02 lần thông qua người
nhận là bà Bích T11 tại địa chỉ số A như nêu trên vào các ngày 09 tháng 01 năm
2023 và ngày 15 tháng 02 năm 2023 là không đúng.
Với các lý do nêu trên, ông B1 đại diện các bị đơn yêu cầu hủy án sơ thẩm
để giao về Tòa sơ thẩm xét xử lại.
- Người kháng cáo là ông/bà Nguyễn Minh C1, Đặng Thị Thùy T9 do bà
Nguyễn Ánh D1 đại diện theo ủy quyền, trình bày: Giữ nguyên yêu cầu kháng
cáo của ông C1, bà T9 như đã nêu trên. Yêu cầu Hội đồng xét xử chấp nhận toàn
bộ kháng cáo của ông C1, bà T9.
- Ngân hàng E do ông Nguyễn Quốc N đại diện theo ủy quyền, trình bày:
Tòa sơ thẩm quyết định buộc bà V có trách nhiệm thanh toán Hợp đồng tín dụng
số 1003-LAV-201001721 cho Ngân hàng E số tiền vốn gốc là 315.880.000 đồng,
số tiền lãi trong hạn là 372.831.973 đồng, số tiền lãi phạt chậm trả gốc là
257.131.058 đồng, số tiền lãi phạt chậm trả lãi là 283.528.509 đồng; tổng số tiền
12
nợ vốn gốc và lãi (tạm tính đến ngày 28 tháng 02 năm 2023) là 1.229.371.540
đồng, là đúng. Tuy nhiên, việc Tòa sơ thẩm không tuyên xử lý toàn bộ tài sản thế
chấp là QSDĐ tại thửa số 64 là thuộc quyền yêu cầu của Ngân hàng E là ảnh
hưởng nghiêm trọng đến việc thu hồi nợ của Ngân hàng E, nên đề nghị Hội đồng
xét xử xem xét sửa án sơ thẩm đối với phần liên quan đến Ngân hàng E, giao
quyền yêu cầu xử lý tài sản thế chấp cho Ngân hàng E để thu hồi nợ vốn, lãi vay
phát sinh đến khi bà V trả xong nợ vay. Việc cho vay của Ngân hàng E là hoàn
toàn đúng, tài sản thế chấp là QSDĐ thửa số 64 tại thời điểm vay là hoàn toàn phù
hợp quy định của pháp luật, trường hợp nếu tài sản thế chấp thuộc quy hoạch giải
tỏa để Nhà nước thực hiện dự án thì Ngân hàng E vẫn phải có quyền thu hồi nợ
vay là tiền bồi thường có từ tài sản thế chấp.
- Với các yêu cầu của các đương sự vừa nêu trên, do cần làm rõ một số
chứng cứ nên Hội đồng xét xử tạm ngừng phiên tòa phúc thẩm.
2. Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay (ngày 28 tháng 10 năm 2024):
- Ông Nguyễn Sỹ B1 trình bày: Giữ nguyên các lý do và yêu cầu kháng
cáo nêu trên, đồng thời trình bày bổ sung: Theo Giấy ủy quyền công chứng ngày
14 tháng 12 năm 2020, các bị đơn ủy quyền cho ông K, hoặc ông B, hoặc ông B1
tham gia tố tụng tại Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm trong thời hạn 60 tháng kể
từ ngày công chứng, nhưng chỉ ủy quyền tham gia tố tụng đối với tranh chấp thừa
kế tài sản và tranh chấp liên quan đến hợp đồng thuê QSDĐ; các bị đơn không ủy
quyền cho ông K, hoặc ông B, hoặc ông B1 tham gia tố tụng đối với tranh chấp
hợp đồng vay tài sản (hợp đồng tín dụng) giữa Ngân hàng E với các bị đơn và ông
B1 còn cung cấp giấy xác nhận của Công an phường H, quận N, thành phố Cần
Thơ ngày 02 tháng 10 năm 2024 với nội dung: Xác nhận bà Bích T11 trong thời
gian từ ngày 01 tháng 01 năm 2022 đến ngày 02 tháng 10 năm 2024 không có
đăng ký thường trú, tạm trú, không sinh sống tại địa chỉ A T, phường H, quận N,
thành phố Cần Thơ. Do đó, đề nghị hủy án sơ thẩm.
- Ông Nguyễn Quốc N trình bày: Giữ nguyên trình bày và yêu cầu như tại
phiên tòa ngày 26 tháng 9 năm 2024.
- Bà Nguyễn Ánh D1 trình bày: Giữ nguyên trình bày và yêu cầu như tại
phiên tòa ngày 26 tháng 9 năm 2024. Riêng đối với xác nhận của Công an phường
H, quận N thì bà Ánh D1 cung cấp chứng cứ phản bác xác nhận trên như sau:
Theo Bản án số 45/2024/DS-ST ngày 09 tháng 5 năm 2024 của Tòa án nhân dân
quận Cái Răng, thành phố Cần Thơ về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản,
hợp đồng đặt cọc chuyển nhượng QSDĐ”, thể hiện: Bị đơn - bà Lê Hằng Minh
N4, ông Nguyễn Minh K2 có người đại diện theo ủy quyền là ông Trịnh Hữu B,
bà Võ Thị Bích T11… Địa chỉ: Số A đường T, phường H, quận N, thành phố Cần
Thơ. Như vậy, bà Bích T11 có làm việc tại số A đường T, phường H cùng ông
Trịnh Hữu B, ông Nguyễn Sỹ B1 và ông Lê Tuấn K là đúng sự thật. Do đó, đề
nghị không chấp nhận xác nhận của Công an phường H mà ông Nguyễn Sỹ B1
cung cấp cho Tòa.
13
- Nguyên đơn Đào Chánh T trình bày: Giữ nguyên yêu cầu khởi kiện,
đồng ý đối với quyết định của án sơ thẩm, không đồng ý đối với kháng cáo của
các bị đơn.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
phát biểu quan điểm giải quyết vụ án:
Về tố tụng: Thông qua kiểm sát việc giải quyết vụ án, từ khi thụ lý đến thời
điểm hiện nay thấy rằng, Thẩm phán, Hội đồng xét xử và những người tham gia
tố tụng đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, không có vi
phạm.
Về nội dung: Tòa sơ thẩm cho rằng đã triệu tập bị đơn hợp lệ hai lần nhưng
vắng mặt không rõ lý do là chưa đúng, bởi: Hồ sơ thể hiện ngày 09 tháng 01 năm
2023, Bưu điện C tống đạt giấy triệu tập đương sự cho ông Trịnh Hữu Bình/Lê
T12 Khanh/Nguyễn Sỹ Bằng thông qua người nhận là bà Bích T11 nhưng không
thể hiện cam kết của bà Bích T11 là giao ngay giấy triệu tập cho ông B5 và giấy
triệu tập này là để dự phiên họp về kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai
chứng cứ và hòa giải vào ngày 13 tháng 01 năm 2023 chứ không phải triệu tập dự
phiên tòa sơ thẩm ngày 28 tháng 02 năm 2023, vì Quyết định đưa vụ án ra xét xử
sơ thẩm số 05/2023/QĐ-ST của Tòa sơ thẩm ban hành vào ngày 31 tháng 01 năm
2023 (sau ngày 13 tháng 01 năm 2023 là 18 ngày); giấy triệu tập ông Trịnh Hữu
Bình/Lê T12 Khanh/Nguyễn Sỹ Bằng tham dự phiên tòa sơ thẩm ngày 28 tháng
02 năm 2023 do Bưu điện C giao cho bà Bích T11 nhận ngày 15 tháng 02 năm
2023 cũng không thể hiện cam kết của bà Bích T11 là giao ngay giấy triệu tập cho
ông B5 và ngày 28 tháng 02 năm 2023 là ngày mở phiên tòa sơ thẩm đầu tiên nên
trường hợp ông B5 đều vắng mặt không lý do và không có yêu cầu xét xử vắng
mặt thì Tòa sơ thẩm vẫn phải hoãn phiên tòa, nhưng Tòa sơ thẩm không hoãn
phiên tòa ngày 28 tháng 02 năm 2023 mà vẫn tiến hành xét xử vào các ngày 28
tháng 02 năm 2023; ngày 03 tháng 3 năm 2023; ngày 10 tháng 3 năm 2023 và
ngày 15 tháng 3 năm 2023 là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
Vụ án này có ba quan hệ pháp luật tranh chấp là: Tranh chấp thừa kế tài
sản; tranh chấp hợp đồng vay tài sản (hợp đồng tín dụng) và tranh chấp hợp đồng
thuê QSDĐ. Theo Giấy ủy quyền ngày 14 tháng 12 năm 2020 được công chứng
tại Văn phòng C2 (số C N, phường A, quận N) thì các bị đơn chỉ ủy quyền cho
ông K3 làm người đại diện ủy quyền tham gia tố tụng tại Tòa án cấp sơ thẩm và
phúc thẩm để giải quyết tranh chấp thừa kế tài sản và tranh chấp hợp đồng thuê
QSDĐ mà không ủy quyền cho ông K3 tham gia tố tụng giải quyết tranh chấp
hợp đồng vay tài sản. Nhưng khi giải quyết vụ án, Tòa sơ thẩm không mời các bị
đơn tham gia tố tụng cũng là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
Vì các lý do trên, đề nghị Hội đồng xét xử hủy toàn bộ án sơ thẩm, giao hồ
sơ cho Tòa sơ thẩm giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
14
Căn cứ các tài liệu chứng cứ có tại hồ sơ vụ án, lời trình bày của các đương
sự và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét khách quan, toàn diện
và đầy đủ các chứng cứ, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định như sau:
[1] Kháng cáo của ông Nguyễn Minh C1 và bà Đặng Thị Thùy T9; kháng
cáo của các bị đơn làm trong hạn luật định và hợp lệ được xem xét tại cấp phúc
thẩm theo quy định tại Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
[2] Đối với kháng cáo của ông/bà Nguyễn Minh C1, Đặng Thị Thùy T9 và
kháng cáo của các bị đơn, xét:
[2.1] Trong các ngày 28 tháng 02 năm 2023, ngày 03 tháng 3 năm 2023,
ngày 10 tháng 3 năm 2023 và ngày 15 tháng 3 năm 2023, Tòa sơ thẩm xét xử công
khai vụ án dân sự sơ thẩm thụ lý số: 25/2020/TLST-DS ngày 22 tháng 5 năm 2020
về “Tranh chấp về thừa kế tài sản, tranh chấp về hợp đồng vay tài sản và tranh
chấp về hợp đồng cho thuê QSDĐ” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số
05/2023/QĐXXST-DS ngày 31 tháng 01 năm 2023.
Hội đồng xét xử nhận định vấn đề này như sau:
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 05/2023/QĐ-ST ngày 31 tháng 01
năm 2023 thì Tòa án cấp sơ thẩm ấn định thời gian mở phiên tòa sơ thẩm lần đầu
là 14 giờ ngày 28 tháng 02 năm 2023 (BL 604, 605). Theo Biên bản phiên tòa sơ
thẩm thì đến 14 giờ 30 phút ngày 28 tháng 02 năm 2023, Tòa sơ thẩm tiến hành
xét xử vụ án vắng mặt các bị đơn cũng như những người đại diện theo ủy quyền
của các bị đơn (gồm ông Lê T13 Khanh/Trịnh Hữu Bình/Nguyễn Sỹ Bằng) (BL
624).
Tại phiên tòa ngày 28 tháng 02 năm 2023, đại diện Viện kiểm sát đề nghị
xem xét lại thủ tục ủy quyền của ông Đào Chánh T vì trong hồ sơ vụ án chỉ ghi
nhận văn bản ông T được các anh em của ông T ủy quyền là để nhận tiền bồi
thường chứ không phải tham gia tố tụng.
Do ông T không cung cấp được Giấy ủy quyền tại phiên tòa nên người bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ông T đề nghị tạm ngừng phiên tòa khoảng 02,
03 ngày để thực hiện. Với lý do vừa nêu, Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm quyết định
tạm ngừng phiên tòa và ấn định lúc 14 giờ 30 phút ngày 03 tháng 3 năm 2023 sẽ
tiếp tục phiên tòa.
Như vậy, trong trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm đã triệu tập hợp lệ cả các bị
đơn và ông K3 nhưng họ đều vắng mặt không lý do và không có yêu cầu xét xử
vắng mặt thì theo quy định tại khoản 1 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự năm
2015, Hội đồng xét xử bắt buộc phải hoãn phiên tòa. Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ
thẩm vẫn tiến hành phiên tòa bình thường vào lúc 14 giờ 30 phút ngày 28 tháng
02 năm 2023; 14 giờ 30 ngày 03 tháng 3 năm 2023 (BL 623, 624); 15 giờ 30 phút
ngày 10 tháng 3 năm 2023 và 15 giờ 30 phút ngày 15 tháng 3 năm 2023 (BL 625-
629) là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
[2.2] Trong vụ án này, Tòa sơ thẩm xác định các quan hệ tranh chấp là:
Tranh chấp thừa kế tài sản; tranh chấp về hợp đồng vay tài sản (hợp đồng tín dụng)
15
và tranh chấp về hợp đồng thuê QSDĐ theo quy định tại khoản 3, khoản 5 Điều
26 Bộ luật Dân sự năm 2015.
Sau khi xem xét, Hội đồng xét xử nhận thấy: Theo Giấy ủy quyền lập tại
Văn phòng C2 (số B N, phường A, quận N, thành phố Cần Thơ) ngày 14 tháng
12 năm 2020 (BL 433, 434), ông Lê Tuấn K, hoặc ông Trịnh Hữu B, hoặc ông
Nguyễn Sỹ B1 (cùng địa chỉ số A T, phường H, quận N, thành phố Cần Thơ) được
các bị đơn ủy quyền tham gia tố tụng.
+ Nội dung và phạm vi ủy quyền: Ông Lê Tuấn Khanh/Trịnh H3
Bình/Nguyễn Sỹ Bằng đều được phép thay mặt các bị đơn toàn quyền quyết định
mọi việc (kể cả quyền kháng cáo) khi tham gia tố tụng tại các cấp Tòa án sơ thẩm,
phúc thẩm có thẩm quyền giải quyết vụ kiện “Tranh chấp di sản thừa kế, tranh
chấp hợp đồng thuê đất và đòi lại tài sản” có phía các đương sự là hàng thừa kế
thứ nhất của ông Đào Chánh T14 Trần Thị B4 và người thuê đất là ông Nguyễn
Minh C1 và những người liên quan khác đang chiếm giữ phần đất này.
+ Thời hạn ủy quyền: Giấy ủy quyền này có hiệu lực trong thời hạn 60
tháng, kể từ ngày được chứng thực tại cơ quan công chứng (tức ngày 14 tháng 12
năm 2020).
Với nội dung, phạm vi và thời hạn ủy quyền nêu trên, đối với quan hệ tranh
chấp “Hợp đồng vay tài sản” (hợp đồng tín dụng) giữa các bị đơn với Ngân hàng
E thì các bị đơn không ủy quyền cho ông K3 tham gia tố tụng tại Tòa án các cấp
sơ thẩm, phúc thẩm. Vì thế, tại phần “Bị đơn”, Quyết định đưa vụ án ra xét xử số
05/2023/QĐ-ST ngày 31 tháng 01 năm 2023 chỉ thể hiện:
“Bị đơn:
1. Ông Đào Chánh T1 (chết năm 2017)
Người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng: Bà Trần Mỹ V - sinh năm 1960, và
Đào Thị Thu T2 - sinh năm 1986, bà Đào Thụy Minh T3 - sinh năm 1993, bà Đào
Thụy Minh T4, sinh năm 1995; cùng cư trú số 14, tổ F, khu V, phường H, quận C,
thành phố Cần Thơ.
2. Bà Trần Mỹ V, sinh năm 1960; cư trú số 14, tổ F, khu V, phường H, quận
C, thành phố Cần Thơ.
Người đại diện theo ủy quyền: ông… sinh năm 1984; cư trú số A, đường
T, phường H, quận N, thành phố Cần Thơ” (BL 605), là ghi không đầy đủ, không
đúng quy định của quyết định đưa vụ án ra xét xử.
Tại mục 5 phần IV Giải đáp số 01/2017/GĐ-TANDTC ngày 07 tháng 4
năm 2017 của Tòa án nhân dân tối cao về một số vấn đề nghiệp vụ, đã hướng dẫn:
Khoản 4 Điều 85 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định: “Người đại
diện theo ủy quyền theo quy định của Bộ luật Dân sự là người đại diện theo ủy
quyền trong tố tụng dân sự”.
16
Khoản 2 Điều 86 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định: “Người đại
diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự
của đương sự theo nội dung văn bản ủy quyền”.
Theo quy định tại Điều 141 Bộ luật Dân sự năm 2015, phạm vi đại diện
theo ủy quyền được xác định theo nội dung ủy quyền.
Như vậy, trường hợp bị đơn đã ủy quyền cho người khác đại diện cho mình
tham gia tố tụng thì Tòa án chỉ tống đạt cho người đại diện của bị đơn mà không
phải tống đạt cho bị đơn. Việc tống đạt cho người đại diện của bị đơn được thực
hiện theo quy định tại Chương X của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Tòa án
chỉ tống đạt cho bị đơn khi việc ủy quyền tham gia tố tụng giữa bị đơn và người
đại diện của họ chấm dứt hoặc việc tống đạt liên quan đến những nội dung
không thuộc phạm vi ủy quyền.
Với các quy định và hướng dẫn nêu trên, việc Tòa sơ thẩm ban hành quyết
định đưa vụ án ra xét xử nhưng không đưa những người đại diện theo ủy quyền
của các bị đơn là ông K3 tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
cho các bị đơn đối với phạm vi được ủy quyền mà họ đã nhận là không đúng quy
định. Bên cạnh đó, dù quyết định đưa vụ án ra xét xử không đưa ông K3 tham gia
tố tụng nhưng khi mời tham gia tố tụng thì Tòa sơ thẩm lại chỉ mời ông K3 tham
gia tố tụng mà không mời các bị đơn tham gia tố tụng cũng là vi phạm nghiêm
trọng thủ tục tố tụng, do phần tranh chấp giữa Ngân hàng E với các bị đơn đối với
hợp đồng tín dụng thì các bị đơn không có ủy quyền cho ông K3.
[2.3] Tại mục [2.3] của phần “Nhận định” của án sơ thẩm nêu: “Xét yêu cầu
phản tố của bị đơn: Bị đơn được triệu tập hợp lệ 02 lần đến tham gia phiên tòa
nhưng vắng mặt không rõ lý do nên đình chỉ yêu cầu phản tố của bị đơn”. Hội
đồng xét xử nhận định vấn đề này như sau:
- Sau khi xét xử sơ thẩm, theo Công văn số 459/BĐCT-KTNV ngày 11
tháng 4 năm 2023 của Bưu điện thành phố C về việc phúc đáp Công văn số
296/CV.TA (Công văn này ban hành sau khi xét xử sơ thẩm), thể hiện: “Bưu điện
thành phố C nhận được Công văn số 296/CV.TA ngày 07 tháng 4 năm 2023 của
Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ, về việc yêu cầu xác minh thông tin bưu gửi.
Bưu điện thành phố C xin phản hồi kết quả xác minh các trường hợp này
như sau:
Bưu cục H4 đã chấp nhận các bưu gửi số hiệu RI901818189VN ngày 06
tháng 01 năm 2023 và RI900213478VN gửi cho LÊ TUẤN K4 HỮU
BÌNH/NGUYỄN SỸ BẰNG, 116A TẦM VU, HƯNG LỢI, NINH KIỀU, CẦN THƠ.
Cả 02 trường hợp trên bưu gửi này đều đã được B6 thực hiện phát thành công
cho người nhận là Bích T11 - Nhân viên Văn phòng Luật sư Lê K tại đúng cùng
địa chỉ (Đính kèm kí nhận)…” (BL 658).
Tại ký nhận đính kèm thể hiện: Bưu gửi số RI901818189VN gửi Lê Tuấn
Khanh/Trịnh Hữu Bình/Nguyễn S số 116A Tầm Vu, H, N, Cần Thơ thì bà Bích
T11 ký nhận ngày 09 tháng 01 năm 2023 (tức trước ngày Tòa án cấp sơ thẩm ban
hành Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 05/2023/QĐ-ST ngày 31 tháng 01 năm
17
2023); bưu gửi do bà Bích T11 nhận ngày 09 tháng 01 năm 2023 là thông báo mời
các đương sự tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng
cứ và phiên hòa giải vào ngày 13 tháng 01 năm 2023 (BL 542-545, 612, 657).
Bưu gửi số RI900213478 gửi Lê T13 Khanh/Trịnh Hữu Bình/Nguyễn Sỹ Bằng số
116A Tầm Vu thì bà Bích T11 ký nhận ngày 15 tháng 02 năm 2023; đây là giấy
triệu tập các đương sự tham dự phiên tòa sơ thẩm vào lúc 14 giờ ngày 28 tháng
02 năm 2023 (BL 611, 614, 657).
- Khoản 1 Điều 175 Bộ luật Tố tụng dân sự quy định: “1. Người thực hiện
việc cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng phải trực tiếp chuyển giao cho người
được cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng có liên quan. Người được cấp, tống
đạt, thông báo phải ký nhận vào biên bản hoặc sổ giao nhận văn bản tố tụng. Thời
điểm để tính thời hạn tố tụng là ngày họ được cấp, tống đạt, thông báo văn bản
tố tụng”.
- Khoản 5 Điều 177 Bộ luật Tố tụng dân sự quy định: “5. Trường hợp người
được cấp, tống đạt, thông báo vắng mặt thì người thực hiện việc cấp, tống đạt,
thông báo phải lập biên bản và giao cho người thân thích có đủ năng lực hành vi
dân sự cùng nơi cư trú với họ hoặc tổ trưởng tổ dân phố, trưởng thôn, làng, ấp,
bản, buôn, phum, sóc để thực hiện việc ký nhận hoặc điểm chỉ và yêu cầu người
này cam kết giao lại tận tay ngay cho người được cấp, tống đạt, thông báo. Biên
bản phải được lưu trong hồ sơ vụ án…”.
Với các chứng cứ và quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự vừa viện dẫn trên
thì việc Tòa sơ thẩm cho rằng đã triệu tập bị đơn hợp lệ 02 lần đến dự phiên tòa
nhưng đều vắng mặt không rõ lý do là hoàn toàn không hợp lệ và không đúng quy
định của pháp luật.
[3] Trong vụ án này, các bị đơn vừa có tranh chấp về di sản thừa kế với
nguyên đơn và có yêu cầu phản tố của bị đơn; vừa có tranh chấp về hợp đồng tín
dụng với Ngân hàng E; vừa có tranh chấp về hợp đồng thuê đất và tài sản trên đất
cho thuê với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập (ông C1,
bà T2), nhưng Tòa sơ thẩm chưa làm rõ, vì hiện nay người kháng cáo - ông C1,
bà T2 yêu cầu được chấp nhận kháng cáo và xác định tài sản của ông C1, bà T2
theo biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ năm 2022 (BL 626) nhưng tại biên bản
xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 27 tháng 9 năm 2022 (BL 530-537) thì Tòa sơ
thẩm không có thể hiện văn bản mời những người đại diện theo ủy quyền của các
bị đơn là ông K3 tham dự và cũng không thể hiện tài sản trên đất là của ai trong
biên bản.
[4] Từ những viện dẫn nêu trên, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm không thể
khắc phục vi phạm về thủ tục tố tụng và xác định tài sản tranh chấp trên phần đất
cho thuê thuộc quyền sở hữu của ai tại cấp phúc thẩm, nên theo đề nghị của đại
diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử chấp nhận một phần kháng cáo của ông
Nguyễn Minh C1 và bà Đặng Thị Thùy T9; chấp nhận kháng cáo của các bị đơn:
Hủy toàn bộ án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết
lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm.
18
Do hủy án sơ thẩm nên mặc dù sau khi xét xử sơ thẩm phát sinh việc ông
Đào Chánh T5 chết, song do ông T5 khi còn sống không có tranh chấp trong vụ
án và không kháng cáo, hơn nữa khi giải quyết lại sơ thẩm thì Tòa án cấp sơ thẩm
sẽ làm lại thủ tục tố tụng nên cấp phúc thẩm nhận thấy không cần đưa những
người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông T5 tham gia tố tụng cũng không
ảnh hưởng quá trình giải quyết vụ án tại cấp phúc thẩm.
[5] Về án phí dân sự sơ thẩm và chi phí tố tụng: Được quyết định khi Tòa
án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án.
[6] Về án phí dân sự phúc thẩm: Do hủy bản án sơ thẩm nên các đương sự
có kháng cáo không phải nộp tiền án phí dân sự phúc thẩm; hoàn trả tiền tạm ứng
án phí phúc thẩm cho các đương sự có kháng cáo đã nộp.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 3 Điều 148, khoản 3 Điều 308, Điều 310 Bộ luật Tố tụng dân
sự năm 2015;
Căn cứ khoản 3 Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30
tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn,
giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án,
Tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần kháng cáo của ông Nguyễn Minh C1 và bà Đặng
Thị Thùy T9; chấp nhận kháng cáo của bà Trần Mỹ V, bà Đào Thị Thu T2, bà
Đào Thụy Minh T3, bà Đào Thụy Minh T4; hủy toàn bộ Bản án dân sự sơ thẩm
số 03/2023/DS-ST ngày 15 tháng 3 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố Cần
Thơ và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ giải quyết
lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm.
2. Về án phí dân sự sơ thẩm và chi phí tố tụng: Được quyết định khi Tòa án
cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án.
3. Về án phí dân sự phúc thẩm:
Các ông/bà Trần Mỹ V, Đào Thị Thu T2, Đào Thụy Minh T3, Đào Thụy
Minh T4, Nguyễn Minh C1, Đặng Thị Thùy T9 đều không phải nộp án phí dân
sự phúc thẩm.
- Hoàn trả cho ông Nguyễn Minh C1 và bà Đặng Thị Thùy T9 mỗi người
300.000 đồng tiền tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp lần lượt theo các Biên lai thu
tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0001734 ngày 05 tháng 4 năm 2023; số 0000388
ngày 16 tháng 5 năm 2024 của Cục Thi hành án dân sự thành phố Cần Thơ.
- Hoàn trả cho bà Đào Thị Thu T2, bà Đào Thụy Minh T3, bà Đào Thụy
Minh T4 mỗi người 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp lần lượt theo các
Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0001729, 0001730, 0001731 cùng
ngày 03 tháng 4 năm 2023 của Cục Thi hành án dân sự thành phố Cần Thơ.
4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
19
Nơi nhận:
- Tòa án nhân dân tối cao;
- VKSNDCC tại TP. Hồ Chí Minh;
- TAND thành phố Cần Thơ;
- VKSND thành phố Cần Thơ;
- Cục THADS thành phố Cần Thơ;
- Các đương sự;
- Lưu VT (5), HS (2), 35b, (TK-PH).
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Văn Tửu
Tải về
Bản án số 925/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 925/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 25/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 21/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 18/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 11/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 05/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 05/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 25/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 24/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 23/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 23/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 29/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 28/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 28/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 27/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 27/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm