Bản án số 63/2024/DS ngày 10/12/2024 của TAND tỉnh Quảng Bình về tranh chấp đất đai đối với đất nông nghiệp để trồng cây lâu năm, đất lâm nghiệp để trồng rừng, đất ở

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 63/2024/DS

Tên Bản án: Bản án số 63/2024/DS ngày 10/12/2024 của TAND tỉnh Quảng Bình về tranh chấp đất đai đối với đất nông nghiệp để trồng cây lâu năm, đất lâm nghiệp để trồng rừng, đất ở
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp đất đai đối với đất nông nghiệp để trồng cây lâu năm, đất lâm nghiệp để trồng rừng, đất ở
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Quảng Bình
Số hiệu: 63/2024/DS
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 10/12/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Bà Cao Thị Ph kiện ông Đinh Văn M lấn chiếm đất
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH QUẢNG BÌNH
Bản án số: 63/2024/DS - PT
Ngày 10 tháng 12 năm 2024
V/v đòi lại đất bị lấn chiếm.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG BÌNH
Với thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Văn Nghĩa
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Xuân Diệu
Bà Hoàng Thị Thanh Nhàn
Ghi biên bản phiên tòa: Ông Đặng Xuân Thủy Thư , Tòa án nhân
dân tỉnh Quảng Bình.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình tham gia phiên tòa:
Bà Lê Thị Phương Nhung - Kiểm sát viên.
Ngày 10 tháng 12 năm 2024, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình mở phiên
tòa trực tuyến đxét xử vụ án dân sự phúc thẩm thụ số 74/2024/TLPT- DS
ngày 22 tháng 11 năm 2024 v việc đòi lại đất bị lấn chiếm; giữa điểm cầu
Trung tâm Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình điểm cầu thành phần Tòa án
nhân dân huyện Minh Hóa. Do Bản án dân sự sơ thẩm số 11/2024/DS ST ngày
22 tháng 10 năm 2024 của a án nhân dân huyện Minh Hóa bị kháng cáo.
Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 435/2024/QĐ PT ngày 25
tháng 11 năm 2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Cao Thị P, sinh năm 1955
Địa chỉ: Thôn T, xã T, huyện M, tỉnh Quảng Bình; có mặt.
Người đại diện theo ủy quyền của bà P: Ông Đinh Tiến N, sinh năm 1993
Địa chỉ: Thôn T, xã T, huyện M, tỉnh Quảng Bình (văn bản ủy quyền ngày
09/4/2024); có mặt.
- Bị đơn: Ông Đinh Văn M, sinh năm 1982; bà Cao Thị T, sinh năm 1984
Địa chỉ: Thôn T, T, huyện M, tỉnh Quảng Bình; ông M mặt, bà T
vắng mặt.
Người đại diện theo ủy quyền của ông M, T: Ông Hoàng Sỹ H, sinh
năm 1959
Địa chỉ: Thôn X, xã Q, thị xã B, tỉnh Quảng Bình; có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
+ Ủy ban nhân dân huyện M, tỉnh Quảng Bình
2
Địa chỉ: Tổ dân ph5, thị trấn Quy Đạt, huyện Minh Hóa, tỉnh Quảng
Bình; vắng mặt.
+ Ủy ban nhân dân xã T, huyện Minh Hóa, tỉnh Quảng Bình
Địa chỉ: Thôn Liêm Hóa, Trung Hóa, huyện Minh Hóa, tỉnh Quảng
Bình; vắng mặt.
- Người kháng cáo: Ông Đinh Văn M, sinh năm 1982
Địa chỉ: Thôn T, xã T, huyện M, tỉnh Quảng Bình; có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo nội dung Bản án sơ thẩm số 11/2024/DS – ST ngày 22 tháng 10 năm
2024 của Tòa án nhân dân huyện Minh Hóa, thì nội dung vụ án được tóm tắt
như sau: Ngày 22 tháng 01 năm 2009, Cao Thị P (viết tắt nguyên đơn)
được Ủy ban nhân dân (viết tắt UBND) huyện M cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất (viết tắt GCNQSDĐ) số A0 814279 tại thửa đất số 25, tờ bản đồ số 43
thôn T (nay thôn T), T, huyện M, tỉnh Quảng Bình; diện tích 3.697m² đất
rừng sản xuất. Quá trình sử dụng đất nguyên đơn xác định vợ chồng ông Đinh
Văn M lấn chiếm khoảng 3.697m² đất tại thửa đất số 25, tờ bản đồ số 43 thôn T,
T, huyện M, tỉnh Quảng Bình; nên nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn trả
lại toàn bộ diện tích đất đã lấn chiếm.
Ông Đinh Thanh M1, Cao Thị T (viết tắt bị đơn) trình bày: Diện
tích đất nguyên đơn tranh chấp với bị đơn nguồn gốc đất rừng tự nhiên, do
vợ chồng bị đơn khai hoang, sử dụng trồng cây keo từ năm 2005; diện tích
khoảng 3.000m² đất, cuối năm 2023 bị đơn mới khai thác cây keo mới trồng
lại cây keo tđầu năm 2024. Diện tích đất nguyên đơn tranh chấp, bị đơn chưa
được giao đất cấp GCNQSDĐ theo quy định; nay nguyên đơn khởi kiện bị
đơn không chấp nhận.
Tại Bản án dân sự thẩm số 11/2024/DS ST ngày 22 tháng 10 năm
2024 của Tòa án nhân dân huyện Minh Hóa đã quyết định: Chấp nhận yêu cầu
khởi kiện của bà Cao Thị P về việc yêu cầu ông Đinh Văn M trả lại toàn bộ diện
tích đất đã lấn chiếm tại thửa đất số 25, tờ bản đồ số 43 thôn T, T, huyện M,
tỉnh Quảng Bình. Buộc ông Đinh Văn M trả lại cho bà Cao Thị P 817,3m² đất tại
thửa đất số 25, tờ bản đồ số 43 thôn T, xã T, huyện M, tỉnh Quảng Bình.
Ngoài ra bản án còn tuyên nghĩa vụ chịu chi phí tố tụng, án phí vụ kiện
và quyền kháng cáo cho các đương sự.
Ngày 04 tháng 11 năm 2024 bị đơn làm đơn kháng cáo toàn bộ Bản án
thẩm, đề nghị cấp phúc thẩm hủy Bản án thẩm, hủy GCNQSDĐ số A0
814279 ngày 22/01/2009 của UBND huyện M cấp cho nguyên đơn; công nhận
3.698m² đất tại thửa đất số 25, tờ bản đồ số 43 thôn T, T, huyện M, tỉnh
3
Quảng Bình cho bị đơn; yêu cầu xử nhân, tổ chức tiếp tay cho việc cấp
GCNQSDĐ số A0 814279 ngày 22/01/2009 cho nguyên đơn.
Tại phiên tòa phúc thẩm nguyên đơn giữ nguyên đơn khởi kiện; bđơn tự
nguyện rút kháng cáo yêu cầu cấp phúc thẩm hủy GCNQSDĐ số A0 814279
ngày 22/01/2009 của UBND huyện M cấp cho nguyên đơn; công nhận 3.698m²
đất tại thửa đất số 25, tờ bản đồ số 43 thôn T, T, huyện M, tỉnh Quảng Bình
cho bị đơn; yêu cầu xử nhân, tổ chức tiếp tay cho việc cấp GCNQSDĐ số
A0 814279 ngày 22/01/2009 cho nguyên đơn; giữ nguyên đơn kháng cáo yêu
cầu hủy toàn bộ Bản án sơ thẩm. Các đương sự không thỏa thuận được với nhau
về giải quyết vụ án.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình tham gia phiên tòa
phúc thẩm phát biểu quan điểm: Tại giai đoạn xét xử phúc thẩm các đương sự và
người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của pháp luật về tố tụng dân
sự. Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị
đơn; giữ nguyên bản án thẩm. Buộc bị đơn phải chịu án phí dân sự phúc
thẩm.
Sau khi xem xét nội dung kháng cáo, căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã
được thẩm tra tại phiên tòa phúc thẩm; kết quả tranh luận, ý kiến của Kiểm sát
viên, nguyên đơn và bị đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Ngày 22 tháng 10 năm 2024 Tòa án nhân dân huyện Minh Hóa xét xử
và ban hành Bản án dân sự sơ thẩm s 11/2024/DS ST. Ngày 04 tháng 11 năm
2024 bị đơn làm đơn kháng cáo. Đơn kháng cáo của bị đơn làm trong hạn luật
định, đã nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm đúng quy định tại Điều 272 và Điều
273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, nên chấp nhận đơn kháng cáo của bị
đơn để xét xử phúc thẩm.
[2] Ngày 19 tháng 5 năm 2024 Tòa án cấp thẩm nhận đơn khởi kiện
của nguyên đơn, ngày 29/5/2024 Tòa án cấp thẩm báo cho ông Đinh Tiến N
nộp tiền tạm ứng án phí sơ thẩm và ông N đã nộp tiền tạm ứng án phí sơ thẩm là
không đúng quy định; trong trường hợp này Tòa án cấp thẩm phải thông báo
cho nguyên đơn người khởi kiện nộp tiền tạm ứng án phí vụ kiện mới đúng
quy định. Tuy nhiên, nguyên đơn người cao tuổi, lẽ ra cấp thẩm phải
hướng dẫn nguyên đơn làm đơn xin miễn nộp tiền tạm ứng án phí theo quy định
tại khoản 1 Điều 12 Điều 14 Nghị quyết s 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 ca U ban Thường v Quc hội quy định v mc thu, min, gim,
thu, np, qun lý, s dng án phí và l phí Toà án.
[3] Ngày 17 tháng 7 năm 2024 ông Đinh Văn M, Cao Thị T lập Văn
bản ủy quyền cho ông Hoàng Sỹ H tham gia tố tụng (văn bản ủy quyền có chứng
4
thực của UBND T), lẽ ra Tòa án cấp thẩm phải xác định ông Hoàng Sỹ H
là người đại diện theo ủy quyền của ông M, T, nhưng trong vụ án này Tòa án
cấp thẩm xác định ông Hoàng Sỹ H người bảo vquyền lợi ích hợp
pháp cho ông Đinh Văn M không đúng quy định. Mặt khác, nguyên đơn khởi
kiện ông M lấn chiếm đất, Tòa án cấp sơ thẩm không xác định bà Cao Thị T (bà
T vợ ông Đinh Thanh M1) là đồng bị đơn cũng không xác định T là
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan để giải quyết trong vụ án này là thiếu sót,
làm ảnh hưởng đến quyền nghĩa vụ của T, nên cần rút kinh nghiệm (bút
lục số 40, 41 và 42).
[4] Việc bị đơn kháng cáo yêu cầu cấp phúc thẩm hủy GCNQSDĐ số A0
814279 ngày 22/01/2009 của UBND huyện M cấp cho nguyên đơn; công nhận
3.698m² đất tại thửa đất số 25, tờ bản đồ số 43 thôn T, T, huyện M, tỉnh
Quảng Bình cho bị đơn và xử lý các cá nhân, tổ chức tiếp tay làm trái trong việc
cấp GCNQSDĐ số A0 814279 ngày 22/01/2009 cho nguyên đơn, thấy: Quá
trình thu thập chứng cứ xét xử thẩm bị đơn không đơn phản tố yêu cầu
cấp thẩm xem xét, giải quyết các nội dung này nên cấp thẩm không giải
quyết; theo quy định tại Điều 5 Điều 293 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm
2015 quy định phạm vi xét xthẩm, phúc thẩm thì các nội dung này không
thuộc thẩm quyền giải quyết của cấp phúc thẩm. Tại phiên tòa phúc thẩm bị đơn
tự nguyện rút toàn bộ các nội dung kháng cáo này, căn cứ điểm b khoản 1 Điều
289 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 Hội đồng xét xử chấp nhận để đình
chỉ xét xử phúc thẩm.
[5] Bị đơn kháng cáo yêu cầu hủy Bản án dân sự sơ thẩm s11/2024/DS
ST ngày 22 tháng 10 năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện Minh Hóa thấy:
Ngày 22 tháng 01 năm 2009, nguyên đơn được UBND huyện M cấp
GCNQSDĐ số A0 814279; diện tích 3.697m² đất rừng sản xuất tại thửa đất số
25, Tờ bản đồ số 43 thôn T, xã T, huyện M, tỉnh Quảng Bình (bút lục số 85).
[6] Ngày 22 tháng 01 năm 2009, ông Đinh Minh B (bố đẻ bị đơn) được
UBND huyện M cấp GCNQSDĐ số A0 814187; diện tích 2.943m² đất rừng sản
xuất tại thửa đất số 31, Tờ bản đồ số 43 thôn T, xã T, huyện M, tỉnh Quảng Bình
(bút lục số 135).
[7] Tại đơn kháng cáo tại phiên a phúc thẩm bị đơn trình bày, năm
2005 bị đơn bố đẻ ông Đinh Minh B đã khai hoang sử dụng khoảng 7.000
đất; sau đó bị đơn sdụng khoảng 4.000m² đất trong đó diện tích đất
nguyên đơn đang tranh chấp đến nay diện tích này bị đơn chưa được giao đất
GCNQSDĐ theo quy định; đối với diện tích đất bố bị đơn sử dụng khoảng
3.000m² đất đã được UBND huyện M cấp GCNQSDĐ như nêu ở mục [6].
[8] Tuy nhiên, tại biên bản xác định ranh giới, mốc giới hiện trạng sử
dụng đất của nguyên đơn lập ngày 02/10/2007 thể hiện thửa đất số 25, tờ bản đồ
số 43 thôn T, xã T, huyện M một phần diện tích liền kề với ranh giới thửa đất
5
số 31, tbản đồ số 43 thôn T, T, huyện M của ông Đinh Thanh Ban B1 đẻ
của bị đơn; tại Biên bản này ông B đã ký xác nhận ranh giới liền kề với thửa đất
của nguyên đơn thể hiện không có tranh chấp (bút lục số 93).
[9] Căn cứ Tờ bản đồ số 43 thôn T, xã T, huyện M, GCNQSDĐ số A0
814279 ngày 22/01/2009 cấp cho nguyên đơn, GCNQSDĐ cấp cho ông Đinh
Thanh Ban B1 đẻ của bị đơn kết quả thẩm định tại chỗ ngày 09/8/2024 thì bị
đơn đã lấn chiếm 817,3m² đất tại thửa đất số 25, tờ bản đồ số 43 thôn T, T,
huyện M, tỉnh Quảng Bình của nguyên đơn. Tòa án cấp sơ thẩm buộc bị đơn trả
lại diện tích đất đã lấn chiếm cho nguyên đơn là có căn cứ.
[10] Mặt khác, bị đơn kháng cáo yêu cầu cấp phúc thẩm hủy bản án
thẩm nhưng bị đơn không xuất đình được tài liệu, chứng cứ; các sai phạm, vi
phạm về ttụng, nội dung vụ án của Tòa án cấp thẩm. Do đó, kháng cáo của
bị đơn về việc yêu cầu hủy bản án sơ thẩm không được chấp nhận.
[11] Các quyết định của Bản án thẩm vchi phí tố tụng, bồi thường
cây trồng trên đất, án phí thẩm không kháng cáo, không bị kháng nghị
hiệu lực thi hành.
[12] Bị đơn kháng cáo không được cấp phúc thẩm chấp nhận nên phải
chịu án phí dân sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ Điều 5, khoản 1 Điều 272, Điều 273, điểm b khoản 1 Điều 289,
Điều 293 khoản 1 Điều 308 của Bộ lut T tng dân s năm 2015. Áp dụng
điểm b khoản 1 Điều 99, Điều 135, Điều 203 Luật Đất đai năm 2013; khoản 1
Điều 29 Nghị quyết s 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 ca U ban
Thường v Quc Hi quy định v mc thu, min, gim, thu, np, qun lý, s
dng án phí và l phí Toà án, x:
1. Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của ông Đinh Văn M về
việc yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền s dụng đất số A0 814279 ngày
22/01/2009 của Ủy ban nhân dân huyện M cấp cho Cao Thị P; công nhận
3.698m² đất tại thửa đất số 25, tờ bản đồ số 43 thôn T, T, huyện M, tỉnh
Quảng Bình cho ông Đinh Văn M, Cao Thị T xử lý các nhân, tổ chức
tiếp tay làm trái việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số A0 814279
ngày 22/01/2009 cho bà Cao Thị P.
2. Không chấp nhận đơn kháng cáo của ông Đinh Văn M về việc hủy Bản
án dân sthẩm số 11/2024/DS ST ngày 22 tháng 10 năm 2024 của Tòa án
nhân dân huyện Minh Hóa, tỉnh Quảng Bình; giữ nguyên Bản án sơ thẩm.
3. Buộc vợ chồng ông Đinh Văn M, bà Cao Thị T trả lại cho bà Cao Thị P
817,3m² đất rừng sản xuất, tại thửa đất số 25, tờ bản đồ số 43 thôn T, T,
huyện M, tỉnh Quảng Bình. Diện tích đất ông M, T trả lại cho P tại các
6
điểm 2, 3, 4,17 16 trên đồ; trong đó, từ điểm 02 đến điểm 03 dài 20,46
mét; từ điểm 03 đến điểm 04 dài 8,54 mét; từ điểm 04 đến điểm 17 dài 30,59
mét; từ điểm 17 đến điểm 16 dài 21,23 mét và từ điểm 16 đến điểm 02 dài 38,27
mét (có sơ đồ thửa đất kèm theo bản án).
4. Bà Cao Thị P được sở hữu toàn bộ cây keo do ông Đinh Văn M, bà Cao
Thị T trồng trên 817,3 m² tại thửa đất số 25, tờ bản đồ số 43 thôn T, xã T, huyện
M, tỉnh Quảng Bình.
5. Buộc Cao ThP phải trả 1.233.000 đồng (Một triệu, hai trăm ba
mươi ba ngàn đồng) cho ông Đinh Văn M, Cao Thị T (giá trị cây keo ông M,
T đã trồng trên 817,3 tại thửa đất số 25, tbản đồ s43 thôn T, T,
huyện M, tỉnh Quảng Bình)
6. Ông Đinh Văn M, Cao Thị T phải chịu 3.000.000 đồng cho phí tố
tụng, do P đã nộp nên ông M, T phải trả cho bà Cao Thị P 3.000.000 đồng
cho phí tố tụng.
7. Cao Thị P không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm, được nhận
300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai số 0000574 ngày 04/6/2024
của Chi Cục Thi hành án dân sự huyện Minh Hóa. Ông Đinh Văn M, bà Cao Thị
T phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự thẩm 300.000 đồng án phí dân sự
phúc thẩm, được trừ 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Biên lai số
0000674 ngày 11/11/2024 của Chi Cục Thi hành án dân sự huyện Minh Hóa;
ông M, bà T n phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
8. Tuyên bố, kể từ ngày người được thi hành án đơn yêu cầu thi hành
án, bên nghĩa vụ thi hành án phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ng
với thời gian chậm trả. Lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo
khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2
Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành
án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện
thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b
9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy
định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án 10/12/2024.
Nơi nhận:
- TANDCC tại Đà Nẵng;;
- VKSND tỉnh Quảng Bình;
- VKSNDCC tại Đà Nẵng;
- TAND huyện Minh Hóa;
- CCTHADS huyện Minh Hóa;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án;
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(đã ký)
7
Nguyễn Văn Nghĩa
Tải về
Bản án số 63/2024/DS Bản án số 63/2024/DS

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 63/2024/DS Bản án số 63/2024/DS

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất