Bản án số 556/2024/DS-PT ngày 23/10/2024 của TAND cấp cao tại Hà Nội về tranh chấp về thừa kế tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 556/2024/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 556/2024/DS-PT ngày 23/10/2024 của TAND cấp cao tại Hà Nội về tranh chấp về thừa kế tài sản
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp về thừa kế tài sản
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND cấp cao tại Hà Nội
Số hiệu: 556/2024/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 23/10/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Tranh chấp về thừa kế tài sản
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI HÀ NỘI
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 556/2024/DS-PT
Ngày 23 - 10 - 2024
V/v: Tranh chấp về thừa kế tài sản.
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:
Các Thẩm phán:
Ông Thái Duy Nhiệm;
Bà Vũ Thị Thu Hà;
Ông Phạm Đình Khánh.
- Thư phiên tòa: Ông Phan Nhật Phong - Thư Tòa án nhân dân cấp
cao tại Hà Nội.
- Đi din Vin kim st nhân dân cấp cao ti Hà Nội tham gia phiên tòa:
Ông Nguyễn Văn Tuyến - Kim sát viên cao cấp.
Ngày 23 tháng 10 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Nội,
mở phiên tòa đ xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ số:
396/2024/TLPT-DS ngày 19 tháng 8 năm 2024 về việc “Tranh chấp về thừa kế
tài sản”.
Do Bản án dân sự thẩm số: 06/2024/DS-ST ngày 17 tháng 6 năm 2024
của Tòa án nhân dân tỉnh Thái Nguyên có kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 11044/2024/QĐ-PT
ngày 08 tháng 10 năm 2024, giữa các đương sự:
* Nguyên đơn: Ông Nguyễn Xuân H (đã chết năm 2023);
Địa chỉ: Tổ dân phố T, phường B, thành phố P, tỉnh Thái Nguyên;
Những người kế thừa quyền và nghĩa vụ của ông H:
1. Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1954 (vợ ông H), có đơn xin vắng mặt;
Địa chỉ: Tổ dân phố T, phường B, thành phố P, tỉnh Thái Nguyên.
2. Chị Nguyễn Thị Thu H1, sinh năm 1980 (con gái ông H), vắng mặt;
Địa chỉ: P, B, phường Đ, quận H, Thành phố Hà Nội.
3. Anh Nguyễn Xuân D, sinh năm 1983 (con trai ông H), đơn xin xét xử
vắng mặt;
2
4. Chị Nguyễn Thùy L, sinh năm 1986 (con gái ông H), vắng mặt;
Cùng địa chỉ: Tổ dân phố T, phường B, thành phố P, tỉnh Thái Nguyên;
Người đại diện theo uỷ quyền của T, anh D, chị H1, chị L: Nguyễn
Ngọc M, sinh năm 1993;
Địa chỉ: A Tập th Bộ C, phố H, phường Ô, quận Đ, Thành phố Nội
(theo các giấy uỷ quyền ngày 14/10/2024) bà M có mặt;
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho ông Nguyễn Xuân D: Bà Hoàng Y
Kiều Thị Thu H2, Luật Văn phòng L1, thuộc Đoàn Luật Thành phố
H, đều có mặt.
* Bị đơn: Ông Nguyễn Xuân S (đã chết năm 2022);
Những người kế thừa quyền và nghĩa vụ của ông S:
1. Bà Hoàng Thị H3, sinh năm 1961 (vợ ông S), có mặt;
2. Chị Nguyễn Thị T1, sinh năm 1982 (con ông S), có mặt;
3. Chị Nguyễn Thị T2, sinh năm 1984 (con ông S), có mặt;
4. Chị Nguyễn Thị N, sinh năm 1987 (con ông S), vắng mặt;
Đều có địa chỉ: Tổ dân phố T, phường B, thành phố P, tỉnh Thái Nguyên.
5. Chị Nguyễn Thị N1, sinh năm 1990 (con ông S), vắng mặt;
Địa chỉ: Số A, ngách B, ngõ G, đường P, quận B, Thành phố Hà Nội;
Người đại diện theo uỷ quyền của chị Nguyễn Thị N1: Bà Hoàng Thị H3, có
mặt.
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho Hoàng Thị H3: Ông Phan
Minh T3, Luật sư Văn phòng L2, thuộc Đoàn Luật sư Thành phố H, vắng mặt.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Nguyễn Thị T4, sinh năm 1954, có đơn xin xét xử vắng mặt;
Địa chỉ: Tổ A, phường T, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên.
2. Bà Nguyễn Thị T5, sinh năm 1957, có đơn xin xét xử vắng mặt;
Địa chỉ: Tổ B, phường P, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên.
3. Ông Nguyễn Xuân T6, sinh năm 1961, có đơn xin xét xử vắng mặt;
Địa chỉ: Tổ A, phường G, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên.
4. Bà Nguyễn Thị D1, sinh năm 1965, có đơn xin xét xử vắng mặt;
Địa chỉ: Xóm Đ, phường H, thành phố P, tỉnh Thái Nguyên.
5. Ông Nguyễn Xuân H4, sinh năm 1967, vắng mặt;
Địa chỉ: Đang sống ở C.
6. Ông Nguyễn Xuân H5, sinh năm 1958, có đơn xin xét xử vắng mặt;
Địa chỉ: Tổ dân phố D, phường B, thành phố P, tỉnh Thái Nguyên.
3
7. Bà Nguyễn Thị Kim X, sinh năm 1950, có đơn xin xét xử vắng mặt;
8. Bà Nguyễn Thị H6, sinh năm 1960, có đơn xin xét xử vắng mặt;
9. Bà Nguyễn Thị N2, sinh năm 1972, có đơn xin xét xử vắng mặt;
10. Ông Nguyễn Xuân H7, sinh năm 1974, có đơn xin xét xử vắng mặt;
Đều có địa chỉ: Tổ dân phố T, phường B, thành phố P, tỉnh Thái Nguyên.
Người đại diện theo uỷ quyền của bà T4, T5, ông T6, bà D1, ông H4, ông
H5, bà X, bà H6: Bà Nguyễn Thị Thanh N3;
Địa chỉ: Tổ A, phường P, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên, vắng mặt.
11. UBND thành phố P, tỉnh Thái Nguyên;
Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Công T7, chức vụ: Chủ tịch
UBND thành phố P, vắng mặt.
* Người kháng cáo: Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Hoàng Thị
H3, có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Nguyên đơn ông Nguyễn Xuân H và người đại diện theo ủy quyền của ông H
trình bày:
Bố mẹ ông H là cụ Nguyễn Xuân Đ, sinh năm 1924 chết ngày 04/10/1999 và
cụ Đinh Thị V, sinh năm 1926 chết ngày 06/12/1990. Cụ Đ cụ V sinh được 12
người con gồm: Nguyễn Xuân H, Nguyễn Thị Kim X, Nguyễn Thị T4, Nguyễn
Xuân S, Nguyễn Thị T5, Nguyễn Xuân H5, Nguyễn Thị H6, Nguyễn Xuân T6,
Nguyễn Thị D1, Nguyễn Xuân H4, Nguyễn Thị N2, Nguyễn Xuân H7. Hai cụ
chết đ lại tài sản nhà đất tại tổ dân phố T, phường B, thị P. Tài sản gồm
các thửa đất cụ th như sau:
Thửa 42, bản đồ 13-Ia, diện tích 630m
2
, đất thổ cư;
Thửa 45, bản đồ 13-Ia, diện tích 195m
2
, đất canh tác;
Thửa 43, bản đồ 13-Ia, diện tích 552m
2
, đất canh tác;
Thửa 52, bản đồ 13-Ia, diện tích 520m
2
, đất canh tác;
Thửa 79, bản đồ 13-Ia, diện tích 504m
2
, đất canh tác;
Thửa 51, bản đồ 13-Ia, diện tích 504m
2
, đất canh tác.
Các thửa đất này liền nhau được UBND huyện P (nay thành phố P) cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng (sau đây gọi tắt là GCNQSD) đất ngày 30/7/1993
mang tên cụ Nguyễn Xuân Đ. Khi còn sống bmẹ ông xây dựng được 03 ngôi
nhà trên thửa đất thổ cư và công trình phụ, bếp, sân.
Hai cụ chết không đ lại di chúc, toàn bộ diện tích đất nói trên và nhà ở cùng
công trình xây dựng trên đất, anh em tạm giao cho ông Nguyễn Xuân S trông
4
nom, quản vì khi còn sống bố mẹ ông đã chia đất cho ông S khoảng 2.000m
2
bên cạnh khu đất đang tranh chấp này. Khi bố mẹ ông chết, còn một người em gái
của ông Nguyễn Thị N2 không được minh mẫn nên cùng với vợ chồng
ông S, H4. Sau khi ông S chết năm 2022 thì N2 với vợ ông H con trai
ông H anh D. Không biết sao ông S lại làm được các thủ tục đ cấp
GCNQSD đất cả 06 thửa từ tên bố ông là cụ Đ sang tên ông S vào năm 2002.
Nay ông H khởi kiện đề nghị chia di sản thừa kế là quyền sử dụng đất của bố
mẹ ông chết đi đ lại cho 12 người con theo quy định của pháp luật. Tại phiên toà
người đại diện cho những người kế thừa quyền nghĩa vụ của nguyên đơn
người đại diện cho những người quyền lợi, nghĩa vụ đều nhất trí tình cảm
anh em trong gia đình nên không yêu cầu chia thừa kế nhường lại cho những
người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông S đối với các thửa:
Thửa 45, bản đồ 13-Ia, diện tích 195m
2
, đất canh tác;
Thửa 43, bản đồ 13-Ia, diện tích 552m
2
, đất canh tác;
Thửa 52, bản đồ 13-Ia, diện tích 520m
2
, đất canh tác;
Thửa 79, bản đồ 13-Ia, diện tích 504m
2
, đất canh tác;
Thửa 51, bản đồ 13-Ia, diện tích 504m
2
, đất canh tác.
Chỉ yêu cầu chia thừa kế thửa 42, bản đồ 13-Ia, diện ch 630m
2
, đất thổ
theo bản đồ địa chính thành 12 phần bằng nhau (trong đó thêm một phần đ trích
công duy trì, tôn tạo thửa đất cho ông S, H4) ai sử dụng chênh lệch nhiều đất
hơn phải trả bằng tiền cho những người còn lại theo quy định. Tài sản trên đất
ông S H4 tạo dựng được, tnhững người thuộc hàng thừa kế còn lại phải trả
giá trị theo định giá cho ông S, H4 nay H4 các con của bà H4.
Những anh chị em được hưởng phần diện tích đất thì đều đề nghị giữ nguyên
GCNQSD đất đã cấp cho ông H7, ông H4 vì các anh chị em được hưởng diện tích
đất theo thừa kế đều nhất trí dồn diện tích được chia cho ông H7 và ông H4.
vậy, đề nghị giữ nguyên GCNQSD đất của ông H7, ông H4, không cần thiết phải
huỷ tất cả bìa đỏ của ông S, ông H4 ông H7 đi đ cấp lại.
Bị đơn ông S (khi còn sống) những người kế thừa quyền nghĩa vụ của
ông H4 vợ ông S các con của ông S gồm: Chị Nguyễn Thị T1, chị
Nguyễn Thị T2, chị Nguyễn Thị N và chị Nguyễn Thị N1 thống nhất trình bày:
Không nhất trí chia di sản của cụ Đ; H4 các con của ông S, H4
cho rằng không còn di sản thừa kế đ chia; 06 thửa đất này lúc còn sống cụ Đ đã
cho vợ chồng ông S, tuy chỉ cho bằng miệng không giấy tờ , mặt khác
GCNQSD đất đã đứng tên ông S và vợ chồng ông bà đã tặng cho các con, các con
5
của ông cũng đã được cấp GCNQSD đất nên không nhất tchia thừa kế. Đối
với tài sản trên đất của H4 và ông S tạo dựng không quan trọng giờ giá
trị cũng không còn đáng là bao. H4 đơn yêu cầu áp dụng thời hiệu khi chia
thừa kế.
UBND thành phố P trình bày: Do chưa tìm được hồ sơ cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất năm 2002 cho ông Nguyễn Xuân S chuyn địa đim trụ sở,
kho lưu trữ nên chưa căn cứ khẳng định việc cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất cho ông S ngày 14/11/2002 đúng trình tự, thủ tục hay không. Đề
nghị Toà án căn cứ vào các tài liệu thu thập được đ giải quyết vụ án theo quy
định của pháp luật.
Những người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, gồm: Nguyễn Thị T4,
Nguyễn Thị T5, ông Nguyễn Xuân T6, Nguyễn Thị D1, ông Nguyễn Xuân H4,
ông Nguyễn Xuân H5, Nguyễn Thị Kim X, Nguyễn Thị H6, Nguyễn Thị
N2, ông Nguyễn Xuân H7 thống nhất trình bày: Nhất tvới yêu cầu khởi kiện
của nguyên đơn, kỷ phần được hưởng sẽ nhượng cho anh Nguyễn Xuân D được
quyền sử dụng.
Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Xuân H4 trình bày:
Nhất trí với nguyên đơn về quan hệ huyết thống; thời gian cụ Đ, cụ V chết;
nguồn gốc tài sản số tài sản; nhất trí với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn,
đề nghị giữ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất UBND huyện P đã cấp cho
ông đối với thửa đất số 42c, tờ bản đồ số 13-Ia.
Với nội dung trên, tại Bản án dân sự thẩm số 06/2024/DS-ST, ngày
17/6/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Thái Nguyên đã quyết định:
Căn cứ vào khoản 5 Điều 26; Điều 37; Điều 148; Điều 269; Điều 273 của
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
Căn cứ vào Điều 649; Điều 651; đim 3 Điều 658; Điều 456 của Bộ luật Dân
sự năm 2015;
Tuyên xử:
1. Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn nay là những người kế thừa
quyền nghĩa vụ của nguyên đơn do rút yêu cầu khởi kiện đối với 05 (năm)
thửa đất: Thửa 45, bản đ13-Ia, diện tích 195m
2
; Thửa 43, bản đồ 13-Ia, diện
tích 552m
2
; Thửa 52, bản đồ 13-Ia, diện tích 520m
2
; Thửa 79, bản đồ 13-Ia, diện
tích 504m
2
; Thửa 51, bản đồ 13-Ia, diện tích 504m
2
đều là đất canh tác.
6
2. Chấp nhận yêu cầu chia di sản thừa kế của ông Nguyên Xuân H8 (nay
những người kế thừa quyền nghĩa vụ của ông H8) về việc chia thừa kế của cụ
Nguyễn Xuân Đ đối với thửa đất số 42, tờ bản đồ 13-Ia.
3. Chia cho ông Nguyễn Xuân H (nay anh Nguyễn Xuân D con trai ông
H) được quyền quản lý, sử dụng diện tích 130,7m
2
đất thổ theo các đim 19,
20, 16, 23, 19. Cạnh 19-20 = 5,02m; cạnh 20-16 = 25,31m; cạnh 16-23= 5,58m;
cạnh 23-19 = 24,31m (có đồ đo đạc kèm theo bản án). Anh Duy được quyền
sở hữu những tài sản trên diện tích đất 130,7m
2
sau khi trả giá trị tài sản cho
H4 các con của H4 số tiền 159.729.000đ (một trăm năm mươi chín triệu,
bẩy trăm hai ơi chín nghìn đồng). H4 các con của H4 được sở hữu
số tiền 159.729.000đ (một trăm năm mươi chín triệu, bẩy trăm hai mươi chín
nghìn đồng) do anh D trả. Anh Duy được quyền sở hữu kỷ phần của N2
310.420.000đ (ba trăm mười triệu, bốn trăm hai mươi nghìn đồng) trách
nhiệm chăm sóc bà N2 đến khi bà N2 qua đời.
4. Hoàng Thị H3, chị Nguyễn Thị T1, chị Nguyễn Thị T2, chị Nguyễn
Thị N, chị Nguyễn Thị N1 những người kế thừa quyền nghĩa vụ của ông
Nguyễn Xuân S được quản lý, sử dụng 166,9m
2
(trong đó 46,14m
2
là đất thổ
20,6m
2
đất vườn. Đây 01 kphần thừa kế của ông S 01 kỷ phần
công duy trì, tôn tạo tài sản của ông S và bà H3. Số diện tích chênh lệch 100,2m
2
đất vườn giá 551.100.000đ ngoài phần ông S được chia thì buộc H3
các con của bà H3, ông S trả lại cho anh D người được những người thừa kế
nhường kỷ phần của mình cho anh D). Anh Duy được sở hữu số tiền
551.100.000đ (năm trăm năm mươi mốt triệu, một trăm nghìn đồng) do bà H3
các con của bà H3 trả.
Hoàng Thị H3 quyền nghĩa vụ đến quan nhà nước thẩm
quyền đ điều chỉnh lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho ông S
năm 2002. Anh Nguyễn Xuân D quyền đến quan nhà nước có thẩm quyền
đ làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất khi bản án hiệu lực
pháp luật.
Ngoài ra, bản án còn quyết định nghĩa vụ chịu án phí; chi phí tố tụng; lãi
suất chậm thi hành án; tuyên quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 18/6/2024 Tòa án nhân dân tỉnh Thái Nguyên
nhận được đơn kháng cáo của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Hoàng
Thị H3. Với nội dung đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xem xét hủy bản án thẩm
đ giải quyết lại.
7
Tại phiên tòa phúc thẩm, bà H3 ginguyên nội dung kháng cáo.
Các đương sự trình bày:
- Người kháng cáo trình bày: Bản án thẩm giải quyết thiếu khách quan;
mặc dù không n cứ chứng minh GCNQSD đất đã cấp cho vợ chồng ông
S, bà H3 là đúng hay sai, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm đã xác định thửa đất số 42 là
di sản thừa kế đ chia cho các đương sthiếu căn cứ. Mặc tại cấp sơ thẩm
phía nguyên đơn đã nhiều lần yêu cầu Tòa án buộc phía nguyên đơn cung cấp
chứng cứ chứng minh việc cấp GCNQSD đất cho ông S là sai, nhưng không được
Tòa án thực hiện. Phía bị đơn đã thực hiện đúng di nguyện của cụ Đ chia thửa
đất thành 03 phần, gồm ông S 01 phần, ông H7 01 phần và ông H3 01 phần; tất cả
đều đã được cấp GCNQSD đất. Quá trình sử dụng gia đình ông S, H3 đã xây
dựng nhà, các công trình trên đất khi đó cụ Đ vẫn còn sống, các anh, chị em đều
biết nhưng không ai phản đối gì. Phía nguyên đơn cho rằng khi còn sống cụ Đ đã
cho ông S 2.000m
2
là không đúng. Phía bị đơn cho rằng mặc dù nguồn gốc đất
của cụ V, cụ Đ1 nhưng sau đó đã chia cho các con, nên không còn di sản thừa
kế nữa. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm.
- Phía nguyên đơn trình bày: Cơ bản giữ nguyên ý kiến đã trình bày như tại
cấp thẩm, bản án thẩm đã giải quyết đúng quy định của pháp luật; tại cấp
phúc thẩm không có thêm tình tiết gì mới nên đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm
bác kháng cáo của bà H3, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
- Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là chị T1, chị T2 trình bày:
Tất cả 12 người con của cụ V, cụ Đ (trừ N2) thì đều đã được các cụ cho đất,
việc cho đất này cũng không có giấy tờ theo phong tục địa phương; thửa đất
số 42 cụ Đ cũng đã cho ông S nên không còn di sản nữa; đề nghị Hội đồng xét xử
phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm.
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho anh Nguyễn Xuân D trình bày:
Tòa án cấp thẩm đã thụ lý, giải quyết theo trình tự thẩm đúng thẩm
quyền; bản án thẩm xác định hàng thừa kế của cụ Đ gồm 12 kỷ phần là đúng
quy định. Các đương sự đều thừa nhận thửa đất đang tranh chấp di sản của cụ
V, cụ Đ; bị đơn cho rằng đã được cụ Đ cho không căn cứ; việc UBND cấp
06 GCNQSD đất cho ông S không đúng quy định của pháp luật. Mặc năm
1996 cụ Đ lập văn bản cho các con đất nhưng đây là tài sản chung của cụ V và cụ
Đ; cụ V đã chết nhưng cụ Đ cho các con đất khi chưa được sự đồng ý của những
người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của cụ V vi phạm pháp luật. Hơn nữa, thủ
tục cho đất chưa đúng quy định; bản án thẩm chia theo hướng giữ 02 thửa đất
8
đã tách cho ông H5, ông H7 phù hợp, đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp
của các bên đương sự. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ khoản 1
Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự, bác kháng cáo của H3, giữ nguyên bản án sơ
thẩm.
Các đương sự không thỏa thuận được về việc giải quyết vụ án.
Đại diện Viện kim sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội phát biu ý kiến:
Về tố tụng: Người tham gia tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện
đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự tại Tòa án cấp phúc thẩm.
Về nội dung:
Tại phiên tòa sơ thẩm người đại diện theo ủy quyền cho nguyên đơn chỉ
yêu cầu chia thừa kế đối với thửa đất số 42, không yêu cầu chia thừa kế đối với
05 thửa đất còn lại, nên Hội đồng xét xử thẩm đã đình chỉ xét xử đối với yêu
cầu chia 05 thửa đất này là đúng quy định.
Căn cứ hồ quản lý đất đai, cũng như các đương sự thừa nhận, thì thửa đất
số 42, tờ bản đố số 13-Ia diện tích 630m
2
của cụ V, cụ Đ đã được cấp
GCNQSD đất; mặc năm 1996 cụ Đ lập văn bản cho đất các con, nhưng đất
tài sản chung của cụ V, cụ Đ1 nhưng cụ Đ tự định đoạt một mình không đúng,
Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận văn bản cho đất là có căn cứ; năm 2004 ông
S lại tặng cho ông H7, ông H3 đất là trái pháp luật. Quá trình giải quyết vụ án
Tòa án cấp thẩm chưa làm diện tích tăng giảm của thửa đất, diện tích chồng
lấn sang các hộ liền kề, không đưa những hộ này vào tham gia tố tụng là vi phạm
pháp luật, làm ảnh hưởng đến quyền lợi ích hợp pháp của họ; phần nhận định
của bản án thẩm nhiều mâu thuẫn; quyết định án phí không đúng D1
không phải đối tượng được miễn án phí nhưng vẫn miễn án phí cho D1
thiếu căn cứ.
vậy, đại diện Viện kim sát nhân dân cấp cao tại Nội đề nghị Hội
đồng xét xử phúc thẩm căn cứ khoản 3 Điều 308; Điều 310 Bộ luật Tố tụng dân
sự chấp nhận kháng cáo của H3, hủy toàn bộ bản án sơ thẩm; giao hồ sơ vụ án
cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu trong hồ vụ án đã được thẩm tra tại
phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử thấy:
* Về tố tụng:
9
[1] Về thẩm quyền thời hiệu khởi kiện: Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu
chia di sản thừa kế của cụ Nguyễn Xuân Đ cụ Nguyễn Thị V1. Do đó, xác
định yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn yêu cầu chia di sản thừa kế của hai cụ
đ lại; đây vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Cụ Đ chết ngày
04/10/1999, cụ V1 chết 06/12/1990; ngày 21/8/2020 Tòa án nhân dân tỉnh Thái
Nguyên nhận được đơn khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế. Căn cứ Điều 688,
Điều 623 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì thời hiệu khởi kiện yêu cầu thừa kế 30
năm k từ thời đim mở thừa kế; đây vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của
Tòa án đang trong thời hiệu khởi kiện. Tại thời đim khởi kiện đương sự
ông Nguyễn Xuân H4 đang ở nước ngoài, nên mặc dù Tòa án nhân dân thị xã Phổ
Yên đã thụ lý giải quyết theo trình tự sơ thẩm, nhưng sau đó đã chuyn vụ án cho
Tòa án nhân dân tỉnh Thái Nguyên thụ lý, giải quyết theo trình tự sơ thẩm là đúng
quy định tại khoản 5 Điều 26; Điều 35; Điều 37 Bộ luật Tố tụng dân sự. Tuy
nhiên, bản án thẩm chxem xét đến thời hiệu khởi kiện của cụ Đ không
xem xét đến thời hiệu khởi kiện của cụ V1 là chưa đúng.
[2] Về xác định cách đương sự tham gia tố tụng và sự mặt của các
đương sự tại phiên tòa: Cấp thẩm đã xác định nguyên đơn, bị đơn người
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án đúng quy định của pháp luật; quá trình
giải quyết vụ án và tại phiên tòa thẩm, tại phiên tòa phúc thẩm một số đương
sự vắng mặt nhưng đã có người đại diện theo ủy quyền, hoặc đã có đơn xin xét xử
vắng mặt, hoặc đã được triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt. Tại phiên tòa phúc
thẩm ông Phan Minh T3 người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho H4 đã
được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt, ông T3 đơn xin hoãn
phiên tòa với lý do sức khỏe không đảm bảo, nhưng ngoài đơn xin hoãn phiên tòa
thì ông không cung cấp thêm được chứng cứ chứng minh do sự kiện bất khả
kháng, hoặc trở ngại khách quan nên không có căn cứ chấp nhận yêu cầu của ông
T3 cũng như phía bị đơn. Do đó, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt hlà đúng
quy định tại Điều 227; Điều 296 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[3] Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu chia di sản của bố, mđ lại 06 thửa
đất, gồm: Thửa 42, bản đồ 13-Ia, diện tích 630m
2
; thửa 45, bản đồ 13-Ia, diện tích
195m
2
, đất canh tác; thửa 43, bản đồ 13-Ia, diện tích 552m
2
, đất canh tác; thửa 52,
bản đồ 13-Ia, diện tích 520m
2
, đất canh tác; thửa 79, bản đồ 13-Ia, diện tích
504m
2
, đất canh tác; thửa 51, bản đồ 13-Ia, diện tích 504m
2
, đất canh tác. Tại
phiên tòa sơ thẩm, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn cho rằng vì tình
cảm anh em trong gia đình chỉ đnghị chia di sản thừa kế quyền sử dụng thửa
10
đất số 42, tờ bản đồ 13-Ia; còn các thửa đất khác (05 thửa) đồng ý đ cho bị đơn
được quyền sử dụng; Tòa án cấp thẩm cho rằng nguyên đơn rút đơn khởi kiện
yêu cầu chia thừa kế đối với 05 thửa đất còn lại, nên đã đình chỉ đối với yêu cầu
chia 05 thửa đất này thiếu căn cứ, trái với nguyên tắc tự định đoạt của đương
sự. Hơn nữa, mặc dù quyết định của bản án sơ thẩm đình chỉ việc giải quyết vụ án
đối với yêu cầu chia 05 thửa đất này, nhưng bản án thẩm không nhận định về
lý do đình chỉ là trái với quy định tại Điều 266 Bộ luật Tố tụng dân sự.
* Về nội dung:
[4] Như đã phân tích trên, thì việc Tòa án cấp thẩm đình chỉ đối với
yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối với 05 thửa đất nông nghiệp thiếu căn
cứ. Trong trường hợp này lẽ ra Tòa án cấp sơ thẩm phải xem xét đ giải quyết
ghi nhận sự tự định đoạt của các đương sự, đ quyết định ai người được hưởng
được quyền sử dụng đối với 05 thửa đất này, nhưng Tòa án cấp thẩm cho
rằng nguyên đơn t yêu cầu khởi kiện đ đình chỉ, không giải quyết là giải quyết
vụ án không triệt đ, th làm phát sinh thêm vkiện khác, m ảnh hưởng
nghiêm trọng đến quyền lợi ích hợp pháp của các đương sự.
[5] Đối với thửa đất số 42, tờ bản đồ 13-Ia, Tòa án cấp sơ thẩm xác định
di sản của cụ Đ, cụ V1 đ lại đ chia cho 12 kỷ phần thuộc hàng thừa kế thứ nhất
01 kỷ phần trích cho phía bị đơn; những người quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan gồm: Nguyễn Thị T4, Nguyễn Thị T5, ông Nguyễn Xuân T6,
Nguyễn Thị D1, ông Nguyễn Xuân H4, ông Nguyễn Xuân H5, Nguyễn Thị
Kim X, bà Nguyễn Thị H6, bà Nguyễn Thị N2, ông Nguyễn Xuân H7 đều nhất trí
nhường kỷ phần được hưởng cho anh Nguyễn Xuân D; diện tích đất được xác
định còn lại 434m
2
. Tuy nhiên, trong số những người này thì ông Nguyễn Duy
H9 đã được cấp GCNQSD đất đối với diện ch 161m
2
ông Nguyễn Xuân H4
được cấp GCNQSD đất diện ch 97m
2
, phía nguyên đơn những người
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan về phía nguyên đơn chỉ ý kiến không yêu cầu
hủy 02 GCNQSD đất đã cấp cho ông H9, ông H4; bản án thẩm chỉ nhận định
số diện tích mà ông Nguyễn Xuân H7, ông Nguyễn Xuân H4 được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất năm 2004 các hàng thừa kế đều nhường kỷ phần
của mình được hưởng cho ông H7, ông H4, do vậy ghi nhận sự tự nguyện này của
họ không phải hu giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông H7, ông H4;
nhưng Tòa án cấp thẩm không phân định hai thửa đất đã được cấp GCNQSD
đất chia cho ai được quyền sử dụng. Hơn nữa, bản thân ông H7, ông H4 đã đồng
ý nhường kỷ phần thừa kế của mình cho anh D được quyền sử dụng, nên nhận
11
định như trên của bản án thẩm sự mâu thuẫn, trái với ý kiến của ông H7,
ông H4.
[6] Như đã phân tích trên, thì mặc dù bản án sơ thẩm chưa phân định
được phần tài sản ông H4 ông H7 được hưởng, nhưng lại buộc ông H7,
ông H4 phải chịu án phí trái quy định của pháp luật. Kỷ phần của D1 được
hưởng nhường lại cho anh D, nhưng không buộc phải chịu án phí đối với k
phần này là thiếu căn cứ.
[7] Hơn nữa, theo UBND thành phố P, tỉnh Thái Nguyên thì chưa tìm được
hồ sơ cấp GCNQSD đất cho ông Nguyễn Xuân S, nên chưa khẳng định được việc
cấp GCNQSD đất cho ông S đúng trình tự thủ tục hay không. Tòa án cấp
thẩm mặc chưa thực hiện đầy đủ trình tự, thủ thục theo quy định đ thu thập
chứng cứ hồ cấp GCNQSD đất cho ông S, nhưng đã khẳng định ông S tự ý
kê khai đ xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; đồng thời khẳng định thửa
đất là di sản thừa kế của cụ Đ, cụ V1 đ chia là chưa đủ căn cứ vững chắc. Ngoài
ra, phần nhận định của bản án chia thửa 42 diện tích 434m
2
theo diện tích ông
S được cấp GCNQSD đất, nhưng phần quyết định thì chia theo hiện trạng sử
dụng đất thời đim năm 2022 mâu thuẫn. Theo đó, bản trích đo hiện trạng sử
dụng đất, đo vẽ tháng 7/2022 thửa số 42 tờ BĐĐC số 13-Ia phường B, thành phố
P th hiện: Ranh giới theo bản đồ địa chính năm 1992, diện tích 434m
2
. Ranh giới
theo đo đạc hiện trạng, diện tích 585.7m
2
: Nằm vào thửa 42 = 542.4m
2
; lấn sang
thửa 55 = 11.1m
2
; lấn sang thửa 43 = 17.9m
2
; lấn sang thửa 45 = 0.6m
2
; lấn ra
đường ruộng = 13.7m
2
. Như vậy, thửa 42 hiện trạng diện tích đã tăng so với diện
tích thời đim năm 2002 ông S được cấp GCNQSD đất lấn sang một số thửa
đất khác, nhưng Tòa án cấp thẩm chưa làm ý kiến của các chủ sử dụng các
thửa đất này không đúng; trường hợp các chủ sử dụng các thửa đất bị lấn đồng
ý thì Tòa án cũng phải tuyên điều chỉnh lại GCNQSD đất đã cấp, hoặc giao trả
phần hiện trạng sử dụng đất mới đúng pháp luật.
Tổng hợp các phân tích trên, Hội đồng xét xử thấy rằng: Quá trình giải quyết
vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm đã thực hiện không đúng quy định của pháp luật, có vi
phạm nghiêm trọng thủ tục ttụng, chưa xem xét hết các yêu cầu của đương sự
trong v án, giải quyết vụ án chưa triệt đ làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến
quyền lợi ích hợp pháp của các đương sự; vi phạm này của Tòa án cấp thẩm,
cấp phúc thẩm không khắc phục được nếu khắc phục đ xem xét, giải quyết
luôn sẽ ảnh hưởng đến quyền kháng cáo của các đương sự. Do đó, cần hủy toàn
bộ bản án thẩm đ giải quyết sơ thẩm lại; tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện
12
Viện kim sát nhân dân cấp cao tại Nội đề nghị hủy bản án thẩm đ giải
quyết sơ thẩm lại là có căn cứ.
[7] Về án phí: Do hủy bản án thẩm, nên những người kháng cáo không
phải chịu án phí phúc thẩm; án phí dân sự thẩm, tiền tạm ứng án pthẩm,
tiền tạm ứng chi phí tố tụng sẽ được quyết định khi Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết
lại vụ án.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 3 Điều 308; Điều 310 Bộ luật Tố tụng dân sự; hủy toàn bộ Bản án
dân sự thẩm số: 06/2024/DS-ST, ngày 17/6/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh
Thái Nguyên. Chuyn hồ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Thái Nguyên giải
quyết lại theo thủ tục sơ thẩm theo đúng quy định của pháp luật.
Về án phí: Hoàng Thị H3 không phải nộp án pdân sự phúc thẩm; tiền
án phí, tiền tạm ứng án phí dân sự thẩm chi phí tố tụng sđược quyết định
khi Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực k từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- VKSND cấp cao tại Hà Nội;
- TAND tỉnh Thái Nguyên (kèm HS vụ án);
- Cục THA dân sự tỉnh Thái Nguyên;
- Các đương sự (theo địa chỉ);
- Lưu: Hồ sơ vụ án, HCTP.
Tải về
Bản án số 556/2024/DS-PT Bản án số 556/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 556/2024/DS-PT Bản án số 556/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất