Bản án số 280/2024/DS-PT ngày 21/11/2024 của TAND tỉnh An Giang về tranh chấp về thừa kế tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 280/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 280/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 280/2024/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 280/2024/DS-PT ngày 21/11/2024 của TAND tỉnh An Giang về tranh chấp về thừa kế tài sản |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp về thừa kế tài sản |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh An Giang |
Số hiệu: | 280/2024/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 21/11/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Chia di sản thừa kế- Phong- Giàu |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH AN GIANG
Bản án số: 280/2024/DS-PT
Ngày 21 tháng 11 năm 2024
V/v tranh chấp
“Chia di sản thừa kế”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH
AN GIANG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Trần Thị Thúy Hà;
Các Thẩm phán: Ông Trương Văn Hai và ông Nguyễn Phước Hưng.
- Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Vân là Thư ký Tòa án.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân
tỉnh An Giang: Ông Phạm Trường San
- Kiểm sát viên tham gia phiên toà.
Ngày 21 tháng 11 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh An Giang xét
xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 211/2024/TLPT-DS ngày 02
tháng 10 năm 2024 về việc tranh chấp “Chia di sản thừa kế”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 14B/2024/DS-ST ngày 20 tháng 5 năm 2024
của Tòa án nhân dân thị xã Tịnh Biên, tỉnh An Giang bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 244/2024/QĐPT-DS
ngày 02 tháng 10 năm 2024 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Đinh Văn Ph, sinh năm 1975 (Có mặt);
Nơi cư trú: tổ 10, khóm XH, phường TB, thị xã TB, tỉnh AG.
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Bà Lôi Thị D, sinh năm 1959, nơi cư
trú: Số 259/10A PH, phường 9, thành phố VL, tỉnh VL là người đại diện theo ủy
quyền theo Giấy ủy ngày 14/10/2024 (Có mặt).
2. Bị đơn: Ông Đinh Văn Gi, sinh năm 1976 (Có mặt);
Nơi cư trú: tổ 11, khóm XH, phường TB, thị xã TB, tỉnh AG.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn: Ông Nguyễn Văn M
là Luật sư Văn phòng Luật sư Nguyễn Văn M thuộc Đoàn Luật sư tỉnh An
Giang (Xin vắng mặt).
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1. Ông Đinh Văn N, sinh năm 1927;
2
Nơi cư trú: Tổ 11, khóm XH, phường TB, thị xã TB, tỉnh AG.
Người đại diện hợp pháp của ông Đinh Văn N: Ông Đinh Văn Gi, sinh
năm 1976, nơi cư trú: Tổ 11, khóm XH, phường TB, thị xã TB, tỉnh AG là
người đại diện theo ủy quyền theo Hợp đồng ủy quyền ngày 07/8/2022 (Có
mặt).
3.2 Bà Đinh Thị Xuân M, sinh năm 1965 (Xin vắng mặt);
3.3 Bà Nguyễn Thị Mỹ L, sinh năm 1981 (Có mặt);
Cùng cư trú: Tổ 11, kh X H, phường TB, thị xã TB, tỉnh AG.
3.4 Bà Huỳnh Thị Ph, sinh năm 1969 (Vắng mặt);
3.5 Chị Đinh Thị Bích Ph1, sinh năm 1986 (Xin vắng mặt);
Cùng cư trú: Tổ 16, khóm PT, phường AP, thị xã TB, tỉnh AG.
3.6 Chị Võ Bích Tr, sinh năm 1993;
Nơi cư trú: R12, đường số 9, KDC Cty 8, phường Hưng Thạnh, quận Cái
Răng, Thành phố Cần Thơ.
Người đại diện hợp pháp của chị Võ Bích Tr: anh Nguyễn Phúc Thịnh,
sinh năm 1999, nơi cư trú: ấp Thạnh Thới, xã Đông Thạnh, huyện Châu Thành,
tỉnh Hậu Giang là người đại diện theo ủy quyền theo Giấy ủy quyền ngày 25/8/2023
(Vắng mặt).
4. Người kháng cáo: Ông Đinh Văn Ph là bị đơn và bà Đinh Thị Xuân M,
bà Đinh Thị Bích Ph1 là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Nguyên đơn là ông Đinh Văn Ph ủy quyền cho bà Lôi Thị D trình bày:
Cha mẹ của ông Ph là ông Đinh Văn N và bà Nguyễn Thị Phẩm, chết năm
2021 có 4 người con là (1) bà Đinh Thị Xuân M, (2) ông Đinh Văn Hoàng, chết
năm 1985 có vợ con là bà Huỳnh Thị Ph và bà Đinh Thị Bích Ph1, (3) ông Đinh
Văn Ph, (4) ông Đinh Văn Gi.
Sinh thời, bà Phẩm có công khai phá và tạo dựng được diện tích 41.000m
2
(đất ruộng và đất vườn), tọa lạc tại khóm Xuân Hiệp, phường Tịnh Biên, thị xã
Tịnh Biên, tỉnh An Giang. Bà Phẩm chết không để lại di chúc, ông Ph yêu cầu
chia thừa kế thành 5 kỷ phần bằng nhau cho 5 người gồm ông Đinh Văn N, bà
Đinh Thị Xuân M, cháu Đinh Thị Bích Ph1 (thừa kế thế vị của ông Đinh Văn
Hoàng), Đinh Văn Ph và Đinh Văn Gi.
Quá trình tố tụng, ông Đinh Văn Ph có thay đổi yêu cầu khởi kiện, yêu
cầu chia thừa kế theo pháp luật đối với diện tích 38.502,40m
2
, gồm:
- Đất ruộng: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số DC 920139 cấp ngày
23/9/2021 cho ông Đinh Văn Gi và bà Nguyễn Thị Mỹ L diện tích 8.979 m
2
,
thửa số 157,158, 159, 162, 163, thửa số 71;
- Đất ruộng: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số DC 920140 cấp ngày
3
23/9/2021 cho ông Đinh Văn Gi và bà Nguyễn Thị Mỹ L diện tích 12.731 m
2
,
các thửa 127,128, 129, 133, 156, thửa số 71 (Theo Bản trích đo hiện trạng thì
hiện nay bà Võ Bích Tr đứng tên GCNQSDĐ).
- Đất vườn: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số DC 920138 cấp ngày
23/9/2021 cho ông Đinh Văn Gi và bà Nguyễn Thị Mỹ L diện tích 16.792,4m
2
gồm thửa 124, thửa số 70.
Ông Ph ước tính giá trị của đất ruộng khoảng 150.000.000 đồng/1.000m
2
.
Đất vườn khoảng 200.000.000 đồng/1.000m
2
, yêu cầu chia bằng hiện vật.
Bị đơn là ông Đinh Văn Gi trình bày:
Nguồn gốc đất đang tranh chấp là của cha mẹ là ông Đinh Văn N và bà
Nguyễn Thị Phẩm tạo dựng khoảng năm 1980. Thời điểm bà Phẩm còn sống thì
cha mẹ cùng ở chung với vợ chồng ông chăm sóc, nuôi dưỡng. Năm 2021 ông N
và bà Phẩm cùng thống nhất làm hợp đồng tặng cho toàn bộ diện tích đất trên và
đã hoàn tất thủ tục chuyển quyền cho vợ chồng ông đứng tên giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, vì ông là con trai út nên cha mẹ để lại cho ông để nuôi dưỡng
cha mẹ và thờ cúng ông bà. Năm 2022 ông đã chuyển nhượng phần đất ruộng
cho bà Võ Bích Tr ở xã Thới Sơn và đã làm thủ tục chuyển quyền cho bà Tr.
Đối với ông Ph trước đây cha mẹ cũng đã chia đất theo Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất số 01511 QSDĐ/gK ngày 19/4/1999 đã được điều chỉnh biến động
cho ông Ph và bà Trịnh Thị Thi ngày 26/11/2007 nhưng ông Ph đã bán hết, ông
Gi không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Ông Gi thống nhất giá
trị đất ruộng khoảng 150.000.000 đồng/1.000m
2
, đất vườn khoảng 200.000.000
đồng/1.000m
2
.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Ông Đinh Văn N ủy quyền cho ông ông Đinh Văn Gi trình bày: Diện tích
đất tranh chấp do vợ chồng ông khai phá, trước đó có chia đất cho các con rồi
nên diện tích đất còn lại để lại cho Gi đứng tên sử dụng để nuôi dưỡng cha mẹ
và thờ cúng ông bà, không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Bà Định Thị Xuân M trình bày: Bà thống nhất theo yêu cầu khởi kiện của
ông Ph, bà M xác định toàn bộ diện tích mà ông Ph khởi kiện yêu cầu chia thừa
kế là tài sản riêng của bà Nguyễn Thị Phẩm. Ông Đinh Văn N là cha nhưng ông
bỏ nhà đi cho đến năm 1980 mới về nhà, mẹ và các anh chị em của bà không
thừa nhận. Bà cũng yêu cầu được nhận theo kỷ phần bằng hiện vật, bà M ước
tính giá trị đất ruộng khoảng 150.000.000 đồng/1.000m
2
, đất vườn khoảng
200.000.000 đồng/ 1.000m
2
. Bà M đã nhận được Thông báo nộp tiền tạm ứng án
phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu độc lập của bà nhưng bà chưa nộp.
Bà Huỳnh Thị Ph trình bày: Bà và ông Đinh Văn Hoàng kết hôn năm
1984, đến năm 1985 ông Hoàng đi nghĩa vụ và cùng năm đó ông Hoàng hi sinh.
Đất do công sức khai phá của ông Hoàng và hiện nay bà Ph1 (là con của bà với
ông Hoàng) chưa được ông bà chia đất nên yêu cầu chia cho bà Ph1 được hưởng
kỷ phần của ông Hoàng.
4
Chị Đinh Thị Bích Ph1 trình bày: Chị là con của ông Đinh Văn Hoàng và
bà Huỳnh Thị Ph, ông Hoàng hi sinh năm 1985. Chị yêu cầu được hưởng phần
di sản thừa kế của bà Phẩm để lại đối với kỷ phần của ông Hoàng. Chị Ph1 ước
tính giá trị đất ruộng khoảng 150.000.000 đồng/1.000m
2
, đất vườn khoảng
200.000.000 đồng/1.000m
2
.
Bà Nguyễn Thị Mỹ L trình bày: Bà là vợ của ông Đinh Văn Gi, thời điểm
bà Phẩm còn sống, ông N và bà Phẩm có tặng cho vợ chồng bà diện tích đất
nông nghiệp và đất vườn tại khóm Xuân Hiệp, phường Tịnh Biên, thị xã Tịnh
Biên và hiện vợ chồng bà đang quản lý sử dụng. Do là đất được cha mẹ cho để
nuôi dưỡng cha mẹ và thờ cúng ông bà nên không chấp nhận chia thừa kế như
yêu cầu của ông Ph.
Bà Võ Bích Tr ủy quyền cho anh Nguyễn Phúc Thịnh trình bày: Ngày
10/01/2022, bà Tr với ông Trần Ngọc Thành (ông Thành là người được ông
Đinh Văn Gi và bà Nguyễn Thị Mỹ L ủy quyền) xác lập Hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất được Văn phòng công chứng Võ Duy Thế công
chứng đối với diện tích đất như sau:
- Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số DC 920139 do Sở tài nguyên &
môi trường tỉnh An Giang cấp ngày 23/9/2021 cho Đinh Văn Gi và Nguyễn Thị
Mỹ L diện tích 8.979 m
2
, gồm các thửa 157,158, 159, 162, 163, thửa số 71.
- Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số DC 920140 do Sở Tài nguyên &
Môi trường tỉnh An Giang cấp ngày 23/9/2021 cho Đinh Văn Gi và Nguyễn Thị Mỹ
L diện tích 12.731 m
2
, gồm các thửa 127,128, 129, 133, 156, thửa số 71.
Ngày 18/01/2022 được Văn phòng Đăng ký đất đai chi nhánh Tịnh Biên
điều chỉnh biến động trên trang 4 của giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Việc
nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất của bà Tr là hợp pháp theo quy định của
pháp luật nên bà Tr không có ý kiến đối với tranh chấp giữa ông Ph với ông Gi.
Tại phiên tòa:
Nguyên đơn ông Đinh Văn Ph và người đại diện theo ủy quyền là bà Lôi
Thị D rút một phần yêu cầu khởi kiện. Cụ thể: Ông Ph xác định đất tranh chấp
có tổng diện tích là 38.502,4 m
2
( 8979 + 12731 + 16792,4) là tài sản chung của
ông N và bà Phẩm. Bà Phẩm chết thì ½ diện tích đất nêu trên là tài sản của bà
Phẩm chuyển thành di sản nên chỉ yêu cầu chia ½ diện tích 38.502,4m
2
=
19.251,2m
2
(trong đó đất vườn: 8.396,2 m
2
; đất ruộng 10.855 m
2
) và bổ sung
thêm yêu cầu tuyên vô hiệu ½ Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất ngày
09/8/2021. Vì Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất ngày 09/8/2021 nhưng đến
ngày 02/9/2021 bà Phẩm chết, ngày 06/9/2021 ông Gi đến Văn phòng Đăng ký
đất đai chi nhánh Tịnh Biên nộp hồ sơ đăng ký chuyển quyền sử dụng đất và
ngày 23/9/2021, ông Gi và bà L được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Như vậy, theo quy định tại Điều 503 của Bộ luật dân sự và Điều 188 của Luật
đất đai thì thời điểm bà Phẩm chết quyền sử dụng đất chưa được chuyển sang
cho ông Gi, bà L nên Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất chưa có hiệu lực, từ
đó ½ diện tích đất của bà Phẩm trong khối tài sản chung của ông N và bà Phẩm
5
chuyển thành di sản của bà Phẩm. Bà Phẩm chết không để lại di chúc nên được
chia thừa kế theo pháp luật cho những người thừa kế thuộc hàng thứ nhất gồm:
Ông N, bà M, ông Ph, ông Gi và ông Hoàng (do chị Ph1 thừa kế thế vị), bà yêu
cầu chia bằng hiện vật.
Bị đơn không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, không có
yêu cầu phản tố. Ông Gi cho biết, ngày 10/01/2022 ông đã chuyển nhượng cho
bà Võ Bích Tr diện tích 21.710m
2
đất ruộng và đã hoàn tất thủ tục sang tên
chuyển quyền.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số: 14B/2024/DS-ST ngày 20 tháng 5 năm
2024 của Tòa án nhân dân thị xã Tịnh Biên đã tuyên xử:
Căn cứ Điều 612, 649 và Điều 650 của Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều
Điều 147, khoản 2 Điều 228, Điều 244 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm
2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy
ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và
sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
1. Chấp nhận việc rút một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Võ
Văn Ph từ yêu cầu chia di sản thừa kế diện tích đất 38.502,4 m
2
(bao gồm đất
vườn 16.792,4 m
2
, đất ruộng 21.710 m
2
) thành 19.251,2 m
2
(bao gồm đất vườn
8.396,2 m
2
, đất ruộng 10.855 m
2
) và bổ sung yêu cầu khởi kiện về việc tuyên vô
hiệu ½ Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất xác lập ngày 09/8/2021 giữa ông
Đinh Văn N, bà Nguyễn Thị Phẩm với ông Đinh Văn Gi, bà Nguyễn Thị Mỹ L
2. Đình chỉ xét xử một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Đinh
Văn Ph về yêu cầu chia di sản thừa kế là 19.251,2 m
2
(bao gồm đất vườn 8.396,2
m
2
, đất ruộng 10.855 m
2
), tại thị trấn Tịnh Biên, huyện Tịnh Biên (nay là
phường Tịnh Biên, thị xã Tịnh Biên), tỉnh An Giang thuộc các Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số DC
920138, số vào sổ cấp GCN CS 08492 diện tích 16.792,4 m
2
; số DC 920139 số
vào sổ cấp GCN CS09493 diện tích 8.979m
2
và số DC 920140 số vào sổ CS
08494 diện tích 12.731 m
2
do Sở tài nguyên & môi trường tỉnh An Giang cấp
ngày 23/9/2021 cho Đinh Văn Gi và Nguyễn Thị Mỹ L đứng tên.
3. Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Đinh
Văn Ph về chia di sản thừa kế là 19.251,2 m
2
(bao gồm đất vườn 8.396,2 m
2
, đất
ruộng 10.855 m
2
), tại thị trấn Tịnh Biên, huyện Tịnh Biên ( nay là phường Tịnh
Biên, thị xã Tịnh Biên), tỉnh An Giang thuộc các giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số DC 920138, số
vào sổ cấp GCN CS 08492 diện tích 16.792,4 m
2
; số DC 920139, số vào sổ cấp
GCN CS09493, diện tích 8.979 và số DC 920140, số vào sổ CS 08494, diện tích
12.731 m
2
do Sở tài nguyên & Môi trường tỉnh An Giang cấp ngày 23/9/2021
cho Đinh Văn Gi và Nguyễn Thị Mỹ L đứng tên.
4. Về chi phí tố tụng: ông Đinh Văn Ph phải chịu 37.166.140 đồng (bao
gồm: chi phí đo đạc là 30.566.140 đồng, chi phí xem xét thẩm định tại chổ
6
1.000.000 đồng; chi phí giám định 5.600.000 đồng). Ông Đinh Văn Ph đã tạm
ứng nộp đủ nên không phải nộp thêm.
5. Án phí dân sự sơ thẩm: ông Đinh Văn Ph phải chịu 30.459.000 đồng.
Được khấu trừ số tiền 6.162.000 đồng tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã
nộp theo Biên lai thu số 0007659 ngày 06/4/2022 của Chi cục thi hành án dân sự
thị xã Tịnh Biên, tỉnh An Giang nên ông Đinh Văn Ph còn phải nộp thêm
24.297.000 đồng.
Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên quyền kháng cáo và thi hành án.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 30 và 31 tháng 5 năm 2024 ông Đinh Văn Ph
và bà Đinh Thị Xuân M, bà Đinh Thị Bích Ph1 nộp Đơn kháng cáo đề nghị Tòa
phúc thẩm xem xét giải quyết yêu cầu ông Đinh Văn Gi và bà Nguyễn Thị Mỹ L
chia cho các ông bà mỗi người phần đất diện tích 3.850,24m
2
.
Các đương sự khác trong vụ án không kháng cáo và Viện kiểm sát không
kháng nghị.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh An Giang tham gia phiên tòa và phát
biểu ý kiến: Tại giai đoạn phúc thẩm những người tiến hành tố tụng và tham gia
tố tụng đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự và tuân thủ
đúng pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử
đã thực hiện đúng các quy định về phiên tòa phúc thẩm, đảm bảo đúng nguyên
tắc xét xử, thành phần HĐXX, thư ký phiên tòa và thủ tục phiên tòa theo quy
định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Đề nghị căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật tố
tụng dân sự năm 2015 phúc xử: chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Đinh Văn
Ph và không chấp nhận kháng cáo của bà Đinh Thị Xuân M, bà Đinh Thị Bích
Ph1. Sửa Bản án dân sự sơ thẩm số 14B ngày 20/5/2024 của Tòa án nhân dân thị
xã Tịnh Biên về án phí dân sự sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về thủ tục tố tụng: ông Đinh Văn Ph và bà Đinh Thị Xuân M, bà Đinh
Thị Bích Ph1 kháng cáo và nộp tiền tạm ứng án phí trong thời hạn luật định nên
đủ cơ sở để xem xét yêu cầu kháng cáo của các ông bà theo trình tự phúc thẩm.
[2] Về kháng cáo của ông Ph, bà M, bà Ph1, Hội đồng xét xử xét thấy về
nguồn gốc phần đất diện tích 38.502,4m
2
(Gồm đất vườn diện tích 16.792,4 m
2
,
đất ruộng diện tích 21.710 m
2
), tọa lạc tại khóm Xuân Hiệp, phường Tịnh Biên,
thị xã Tịnh Biên là do ông N và bà Phẩm tạo lập. Đất đã được UBND huyện
Tịnh Biên cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Nguyễn Thị Phẩm và
ông Đinh Văn N.
Ngày 09/8/2021, ông N và bà Phẩm cùng ký kết Hợp đồng tặng cho
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất (có
chứng thực của Ủy ban nhân dân thị trấn Tịnh Biên) để cho ông Gi và bà L phần
đất diện tích 38.502,4m
2
. Tại thời điểm ký kết hợp đồng, bà Phẩm có Giấy khám
sức khỏe ngày 16/6/2021 của Trung tâm y tế huyện (Nay là thị xã) Tịnh Biên,
việc ký kết hợp đồng là hoàn toàn tự nguyện và có đầy đủ năng lực hành vi dân
7
sự, nội dung và hình thức của hợp đồng phù hợp với Điều 117 và Điều 119 của
Bộ luật dân sự năm 2015.
Đến ngày 02/9/2021 bà Phẩm chết và ngày 06/9/2021 ông Gi đến Văn
phòng Đăng ký đất đai chi nhánh Tịnh Biên nộp hồ sơ chuyển quyền sử dụng
đất là sau ngày bà Phẩm chết (ngày 02/9/2021). Tuy nhiên, kể từ ngày các bên
ký kết Hợp đồng ngày 09/8/2021 đã thể hiện ý chí sau cùng của bà Phẩm để
định đoạt tài sản của mình trước khi chết là đã có những điều kiện cần và đủ, đã
thỏa mãn các điều kiện theo quy định của pháp luật về quyền tặng cho quyền sử
dụng đất. Từ khi ký kết hợp đồng đến khi bà Phẩm chết, bên tặng cho tài sản (bà
Phẩm) không có văn bản nào để thay thế hợp đồng tặng cho tài sản đã ký kết và
không có hành động nào thể hiện sự thay đổi ý chí đã thể hiện tại hợp đồng tặng
cho đã ký kết. Quá trình giải quyết vụ án, ông N trình bày trước đó có chia đất
cho các con rồi (Ông Ph đã được chia phần đất diện tích 2.198m
2
theo Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số 01511 QSDĐ/gK ngày 19/4/1999 đã được
điều chỉnh biến động cho ông Ph và bà Trịnh Thị Thi ngày 26/11/2007) nên diện
tích đất còn lại để lại cho ông Gi đứng tên sử dụng để nuôi dưỡng cha mẹ và thờ
cúng ông bà, không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Tại giai đoạn phúc thẩm, ông Ph cung cấp Bản tóm tắt hồ sơ bệnh án của
bà Nguyễn Thị Phẩm của Bệnh viện đa khoa khu vực tỉnh ngày 29/5/2024, thể
hiện bà Phẩm nhập viện ngày 04/3/2021, ra viện ngày 11/3/2021, bệnh nhân
tỉnh. Tại Phiếu xác nhận ngày 04/6/2024 của Trung Tâm Y tế thị xã Tịnh Biên
ngày 04/6/2024 thể hiện bà Phẩm nhập viện ngày 24/8/2021, ra viện ngày
29/8/2021 bệnh nhân hôn mê...
Tại Công văn số 23/CV-UBND ngày 06/02/2023 của UBND thị trấn Tịnh
Biên có nội dung “Ngày 09/8/2023 bà Nguyễn Thị Phẩm và ông Đinh Văn N,
cùng cư ngụ khóm Xuân Hiệp, TT. Tịnh Biên, huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang
có đến UBND thị trấn Tịnh Biên thực hiện thủ tục hợp đồng tặng, cho quyền sử
dụng đất cho con ông tên Đinh Văn Gi. Qua kiểm tra giấy tờ có liên quan đến
hợp đồng tặng, cho quyền sử dụng đất và có mặt đầy đủ thành phần các bên nên
UBND thị trấn Tịnh Biên thực hiện ký hợp đồng giữa ông, bà Nguyễn Thị Phẩm
và Đinh Văn N với ông Đinh Văn Gi theo quy định. Trong thời điểm UBND thị
trấn Tịnh Biên thực hiện thủ tục hành chính cho người dân không trái với quy
định Công văn số 797/UBND-KGVX ngày 30/7/2021 của UBND tỉnh An
Giang, về việc tiếp tục thực hiện giãn cách xã hội theo Chỉ thị số 16/CT-Ttg trên
phạm vi toàn tỉnh, đồng thời chỉ quy định nghiêm cấm người dân không được
phép ra đường (Lưu thông trên bộ và trên sông) từ 18 giờ cho đến 05 giờ sáng
hôm sau”.
Tại Kết luận giám định số 7427/KL-KTHS ngày 15/01/2024 của Phân
Viện khoa học hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh đã kết luận “Không đủ cơ sở
kết luận chữ ký “Phẩm”, chữ viết họ tên “Nguyễn Thị Phẩm” so với chữ ký “N”,
chữ viết “Đinh Văn N” dưới mục “Bên A” trên tài liệu cần giám định ký hiệu A
là có phải hay không phải do cùng một người ký và viết ra”. Quá trình giải quyết
vụ án tại cấp sơ thẩm, ông Ph không yêu cầu giám định lại. Tại phiên tòa phúc
8
thẩm ngày 30/10/2024 ông Ph có yêu cầu giám định lại, sau đó lại làm đơn
không yêu cầu giám định. Đến ngày 31/10/2024 lại yêu cầu giám định nhưng
ông Ph không cung cấp được mẫu chữ ký, chữ viết của bà Phẩm nên không có
cơ sở để thực hiện việc giám định.
Như vậy, bản án sơ thẩm đã căn cứ Án lệ số 52/2021/AL được Hội đồng
Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao để công nhận hiệu lực của Hợp đồng tặng
cho quyền sử dụng đất ngày 09/8/2021 giữa ông N, bà Phẩm với ông Gi, bà L và
xác định di sản thừa kế của bà Phẩm không còn nên không chấp nhận yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn đòi chia di sản thừa kế của bà Phẩm đối với phần đất
diện tích 19.251,2m
2
là có căn cứ, đúng pháp luật. Ông Ph và bà M, bà Ph1
kháng cáo nhưng không cung cấp được tài liệu, chứng cứ mới để chứng minh
cho yêu cầu kháng cáo nên không có cơ sở để Hội đồng xét xử chấp nhận.
[3] Về án phí dân sự sơ thẩm: Cấp sơ thẩm buộc ông Ph phải chịu
30.459.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm là chưa chính xác. Căn cứ điểm a khoản
7 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội thì ông Ph phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
Án phí được khấu trừ vào 6.162.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp nên ông
Ph còn được nhận lại 5.862.000 đồng.
[4] Về án phí dân sự phúc thẩm: Yêu cầu kháng cáo của ông Ph được
chấp nhận một phần nên ông Ph không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm, ông
Ph được nhận lại tiền tạm ứng án phí đã nộp.
Yêu cầu kháng cáo của bà M và bà Ph1 không được chấp nhận nên mỗi
người phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm, án phí được khấu trừ
vào tiền tạm ứng án phí đã nộp.
Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm chấp nhận một
phần kháng cáo của ông Ph và không chấp nhận kháng cáo của bà M, bà Ph1.
Sửa Bản án dân sự sơ thẩm số 14B/2024/DS-ST ngày 20 tháng 5 năm 2024 của
Tòa án nhân dân thị xã Tịnh Biên về án phí như đề nghị của đại diện Viện kiểm
sát nhân dân tỉnh An Giang.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị
kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết hết thời hạn kháng cáo,
kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
1. Căn cứ vào:
- Khoản 2 Điều 308, Điều 315 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
- Điều 649, Điều 650, Điều 651, Điều 660 của Bộ luật Dân sự năm 2015;
- Khoản 2 Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016
của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
9
2. Chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của ông Đinh Văn Ph; không
chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà Đinh Thị Xuân M và bà Đinh Thị Bích Ph1.
Sửa Bản án dân sự sơ thẩm số: 14B/2024/DS-ST ngày 20 tháng 5 năm 2024 của
Tòa án nhân dân thị xã Tịnh Biên, tỉnh An Giang về án phí.
3. Chấp nhận việc rút một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là ông
Võ Văn Ph.
Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là ông Đinh Văn Ph
về yêu cầu chia di sản thừa kế phần đất diện tích 19.251,2m
2
(Gồm đất vườn
8.396,2m
2
, đất ruộng 10.855m
2
), tọa lạc tại phường Tịnh Biên, thị xã Tịnh Biên,
tỉnh An Giang.
4. Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là ông
Đinh Văn Ph yêu cầu được chia di sản thừa kế phần đất diện tích 19.251,2m
2
(bao gồm đất vườn 8.396,2m
2
, đất ruộng 10.855m
2
), tọa lạc tại phường Tịnh
Biên, thị xã Tịnh Biên, tỉnh An Giang.
Đất (3+4) đã được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh An Giang cấp cho
ông Đinh Văn Gi và bà Nguyễn Thị Mỹ L theo các Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số phát hành DC
920138, số vào sổ cấp GCN CS 08492 ngày 23/9/2021 diện tích 16.792,4m
2
;
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền
với đất số phát hành DC 920139, số vào sổ cấp GCN CS09493 ngày 23/9/2021
diện tích 8.979 và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và
tài sản khác gắn liền với đất số phát hành DC 920140, số vào sổ cấp GCN CS
08494 ngày 23/9/2021 diện tích 12.731m
2
.
5. Về chi phí tố tụng: Ông Đinh Văn Ph phải chịu 37.166.140 đồng chi
phí đo đạc, định giá, thẩm định tại chỗ được khấu trừ vào tiền tạm ứng nộp.
6. Về án phí dân sự sơ thẩm: Ông Đinh Văn Ph phải chịu 300.000 đồng án
phí dân sự sơ thẩm. Án phí được khấu trừ vào 6.162.000 đồng tiền tạm ứng án
phí đã nộp theo Biên lai thu số 0007659 ngày 06/4/2022 của Chi cục thi hành án
dân sự thị xã Tịnh Biên nên ông Đinh Văn Ph còn được nhận lại 5.862.000
đồng.
7. Về án phí dân sự phúc thẩm:
7.1 Ông Đinh Văn Ph không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm nên ông
Ph được nhận lại 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu số
0010938 ngày 30/5/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Tịnh Biên.
7.2 Bà Đinh Thị Xuân M và bà Đinh Thị Bích Ph1 mỗi người phải chịu
300.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm. Án phí được khấu trừ vào 600.000 đồng
tiền tạm ứng án phí đã nộp theo các Biên lai thu số 0010939 và số 0010940 cùng
ngày 31/5/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Tịnh Biên.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành
án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
10
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành
án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật
Thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- TANDCC
- VKSND tỉnh An Giang;
- TAND TX. Tịnh Biên;
- THA DS TX. Tịnh Biên;
- Tòa Dân sự;
- Phòng KTNV và THA;
- Văn phòng;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN- CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Trần Thị Thúy Hà
THÀNH VIÊN HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trương Văn Hai Nguyễn Phước Hưng
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Trần Thị Thúy Hà
Tải về
Bản án số 280/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 280/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 09/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 05/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 25/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 19/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 18/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 11/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 07/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 05/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 05/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 28/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 25/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 24/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 24/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 23/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 23/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 22/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 18/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm