Bản án số 56/2024/DS-PT ngày 30/09/2024 của TAND tỉnh Quảng Ngãi về tranh chấp về thừa kế tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 56/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 56/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 56/2024/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 56/2024/DS-PT ngày 30/09/2024 của TAND tỉnh Quảng Ngãi về tranh chấp về thừa kế tài sản |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp về thừa kế tài sản |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Quảng Ngãi |
Số hiệu: | 56/2024/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 30/09/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Chia di sản là quyền sử dụng đất của cha mẹ để lại |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH QUẢNG NGÃI
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Bản án số: 56/2024/DS-PT
Ngày 30 - 9 - 2024
V/v tranh chấp về thừa kế tài sản
là quyền sử dụng đất
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG NGÃI
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Trịnh Thị Thu Lan
Các Thẩm phán: Bà Trần Thị Túc
Bà Huỳnh Thị Hồng Hoa
- Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Việt Trang – Thư ký Tòa án nhân dân
tỉnh Quảng Ngãi.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi: Bà Bùi Thị Thanh
Hiền – Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.
Trong các ngày 25 và ngày 30 tháng 9 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân
dân tỉnh Quảng Ngãi xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 86/2023/TLPT-
DS ngày 04 tháng 12 năm 2023, về việc: “Tranh chấp về thừa kế tài sản là
quyền sử dụng đất”.
Do bản án dân sự sơ thẩm số 55/2023/DS-ST ngày 19 tháng 9 năm 2023
của Tòa án nhân dân thành phố Quảng Ngãi bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 31/2024/QĐ-PT ngày
05 tháng 3 năm 2024 và Thông báo về việc mở lại phiên tòa số 562/TB-TA ngày
16 tháng 9 năm 2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Nghiêm Ngọc T - sinh năm 1954; cư trú tại số A
đường L, tổ D, phường T, quận T, thành phố Đà Nẵng.
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Bà Nghiêm Thị T1 - sinh
năm 1968; cư trú tại số A đường Q, tổ C, phường L, thành phố Q, tỉnh Quảng
Ngãi (theo văn bản ủy quyền ngày 15/5/2019).
- Bị đơn: 1. Ông Nghiêm X - sinh năm 1953
2. Bà Đoàn Thị T2 - sinh năm 1958
Cùng cư trú tại số C đường Q, tổ C, phường L, thành phố Q, tỉnh Quảng
Ngãi.
2
Người giám hộ của ông Nghiêm X: Anh Nghiêm T3 – sinh năm 1982; cư
trú tại tổ dân phố E, thị trấn P, K, tỉnh Đắk Lắk; tạm trú tại số C đường L,
phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.
Người đại diện theo ủy quyền của anh Nghiêm T3: Ông Đào Khoa T4 –
sinh năm 1968; địa chỉ liên lạc: Số C đường L, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk
Lắk (theo văn bản ủy quyền ngày 21/9/2024).
Người đại diện theo ủy quyền của bà Đoàn Thị T2: Anh Nghiêm T3 – sinh
năm 1982; cư trú tại tổ dân phố E, thị trấn P, K, tỉnh Đắk Lắk; tạm trú tại số C
đường L, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk và ông Đào Khoa T4 – sinh năm
1968; địa chỉ liên lạc: Số C đường L, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk (theo
văn bản ủy quyền ngày 27/3/2024).
Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của ông Nghiêm X và bà Đoàn Thị
T2: Ông Trần Việt N - Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm Trợ giúp pháp lý
Nhà nước tỉnh Q; ông Lê Xuân Anh P, ông Trịnh Gia Q, ông Nguyễn Văn L và
bà Vũ Thị Kim T5 – Luật sư của Công ty L1; địa chỉ: Số I đường P, phường T,
thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.
3. Ông Nghiêm S - sinh năm 1973
4. Bà Trần Thị H - sinh năm 1972
Cùng cư trú tại số D đường Q, tổ C, phường L, thành phố Q, tỉnh Quảng
Ngãi.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Nghiêm D - sinh năm 1958; cư trú tại thôn T, xã H, huyện N, tỉnh
Quảng Ngãi.
2. Ông Nghiêm V - sinh năm 1964; cư trú tại số C đường M, tổ D, phường
L, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi.
3. Bà Nghiêm Thị T1 - sinh năm 1968; cư trú tại số A đường Q, tổ C,
phường L, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi.
4. Bà Nghiêm Thị C - sinh năm 1966; cư trú tại tổ E, phường L, thành phố
Q, tỉnh Quảng Ngãi.
5. Bà Nghiêm Thị Q1 - sinh năm 1965; cư trú tại tổ dân phố C, thị trấn P,
huyện K, tỉnh Đăk Lăk.
6. Ông Nghiêm N1 - sinh năm 1969; cư trú tại tổ dân phố A, thị trấn P,
huyện K, tỉnh Đăk Lăk.
Người đại diện theo ủy quyền của bà Nghiêm Thị C, bà Nghiêm Thị Q1,
ông Nghiêm N1: Bà Nghiêm Thị T1 - sinh năm 1967; cư trú tại số A đường Q, tổ
3
C, phường L, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi (theo văn bản ủy quyền ngày
22/3/2024).
7. Ông Nghiêm T6 - sinh năm 1967; cư trú tại tổ dân phố E, thị trấn P,
huyện K, tỉnh Đăk Lăk.
8. Ông Nghiêm T7 - sinh năm 1971; cư trú tại tổ A, thị trấn P, huyện K,
tỉnh Đăk Lăk.
9. Anh Nguyễn Nhất D1 - sinh năm 1980; cư trú tại số A đường Q, tổ C,
phường L, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi.
10. Chị Nghiêm Thị Thu N2 - sinh năm 2005; cư trú tại tổ C, phường L,
thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi.
11. Ông Nguyễn Đình Q2 - sinh năm 1962; cư trú tại số A đường L, thành
phố Q, tỉnh Quảng Ngãi.
Người đại diện theo ủy quyền của ông Nguyễn Đình Q2: Anh Nguyễn
Nhất D1 - sinh năm 1980; cư trú tại số A đường Q, tổ C, phường L, thành phố Q,
tỉnh Quảng Ngãi (theo văn bản ủy quyền ngày 11/9/2023).
- Người kháng cáo: Ông Nghiêm Ngọc T, ông Nghiêm V, ông Nghiêm
T6, ông Nghiêm D, anh Nguyễn Nhất D1, ông Nghiêm S, ông Nghiêm X.
(Các ông, bà Nghiêm Ngọc T, Nghiêm Thị T1, Nghiêm S, Trần Thị H,
Nghiêm D, Nghiêm V, N, Nghiêm T7, Luật sư Lê Xuân Anh P và các anh
Nghiêm T3, Nguyễn Nhất D1 có mặt tại phiên tòa; ông Trần Việt N vắng mặt tại
phiên tòa ngày 25/9/2024, có mặt tại phiên tòa ngày 30/9/2024).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Theo đơn khởi kiện, đơn khởi kiện bổ sung, các tài liệu có tại hồ sơ vụ
án và tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn là ông Nghiêm Ngọc T và người đại
diện theo ủy quyền là bà Nghiêm Thị T1 cùng trình bày:
Cha, mẹ của ông Nghiêm Ngọc T là cụ Nghiêm C1 (chết năm 1982) và cụ
Võ Thị B (chết năm 2016) có 13 người con là các ông, bà Nghiêm Thị N3
(không rõ năm sinh, chết lúc nhỏ khoảng 05 tuổi), Nghiêm X, Nghiêm Ngọc T,
N, Nghiêm Thị T8 (chết năm 2008), Nghiêm Thị Q1, N, Nghiêm Thị C, Nghiêm
T6, Nghiêm Thị T1, Nghiêm N1, N, Nghiêm S. Ngoài ra, cụ C1 và cụ B không
còn người con nào khác kể cả con riêng hay con nuôi.
Bà Nghiêm Thị T8 chung sống với ông Nguyễn Đình Q2 một thời gian
ngắn, không tổ chức đám cưới, không đăng ký kết hôn; bà T8 và ông Q2 có một
người con là anh Nguyễn Nhất D1.
Nguồn gốc thửa đất số 148, tờ bản đồ số 2, diện tích 428,7m
2
(trong đó có
300m
2
đất T và 128,7m
2
đất vườn), tại phường L, thị xã Q (nay là thành phố Q),
4
tỉnh Quảng Ngãi được UBND thị xã Q (nay là thành phố Q) cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất (viết tắt là GCNQSDĐ) cho hộ cụ Võ Thị B vào ngày
16/9/2004 (viết tắt là thửa 148) là của cụ Nghiêm C1 và cụ Võ Thị B mua của cụ
Hồ Thị B1 vào năm 1955. Cụ C1, cụ B chết không để lại di chúc, nên đây là di
sản của cụ C1, cụ B để lại cho 12 người con. Hiện ông Nghiêm X, bà Đoàn Thị
T2 và ông Nghiêm S, bà Trần Thị H đang quản lý di sản của cụ C1, cụ B để lại.
Nay, ông T yêu cầu Tòa án chia di sản thừa kế của cụ C1, cụ B là thửa 148
theo diện tích đo đạc thực tế là 417,2m
2
thành 12 kỷ phần cho 12 đồng thừa kế là
các ông, bà X, T, D, Q2, V, C, T6, T1, N1, T7, S và anh D1. Ông T yêu cầu
được nhận di sản bằng hiện vật; hiện trên thửa 148 có ngôi nhà của cha, mẹ làm
từ năm 1964 để lại không còn giá trị sử dụng nên ông T không yêu cầu chia;
trường hợp người nào được chia phần đất có nhà thì người đó được hưởng,
không phải thanh toán lại giá trị nhà cho các đồng thừa kế khác.
Ông T đồng ý giao kỷ phần thừa kế của ông T cho bà T1 nhận; bà T1 phải
chịu chi phí tố tụng khác liên quan đến việc nhận kỷ phần thừa kế của ông T.
* Tại văn bản trình bày ý kiến và tại phiên tòa sơ thẩm, bị đơn là ông
Nghiêm X và bà Đoàn Thị T2 cùng trình bày: Ông, bà thống nhất với trình bày
của nguyên đơn về quan hệ huyết thống, di sản và nguồn gốc di sản thừa kế.
Ông, bà thống nhất với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc chia thừa
kế di sản của cụ C1, cụ B để lại là thửa 148 theo diện tích đo đạc thực tế là
417,2m
2
cho các đồng thừa kế của cụ C1, cụ B. Tuy nhiên, ông là người có công
quản lý, bảo quản di sản từ năm 1982 đến nay; khi cụ B già yếu, ông sống gần
nên thường xuyên qua lại, chăm sóc cụ B. Vì vậy, ông đề nghị Tòa án khi chia
thừa kế thì xem xét công sức cho ông trong quá trình quản lý, bảo quản di sản và
chăm sóc cụ B khi còn sống, nên chia cho ông thêm 01 kỷ phần thừa kế. Ông
yêu cầu được nhận bằng hiện vật.
* Tại văn bản trình bày ý kiến và tại phiên tòa sơ thẩm, bị đơn là ông
Nghiêm S và bà Trần Thị Hồng C2 trình bày: Ông, bà thống nhất với trình bày
của nguyên đơn về quan hệ huyết thống, di sản và nguồn gốc di sản thừa kế.
Ông, bà thống nhất với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc chia thừa
kế di sản của cụ C1, cụ B để lại là thửa 148 theo diện tích đo đạc thực tế là
417,2m
2
cho các đồng thừa kế của cụ C1, cụ B. Tuy nhiên, ông là người có công
quản lý, bảo quản di sản từ năm 2004 đến nay; cụ B sống chung với ông từ năm
1992 cho đến khi cụ B chết vào năm 2016, nên ông có công chăm sóc, nuôi
dưỡng cụ B. Vì vậy, ông đề nghị Tòa án khi chia thừa kế thì xem xét công sức
cho ông trong quá trình quản lý, bảo quản di sản và chăm sóc cụ B khi còn sống,
nên chia cho ông thêm 01 kỷ phần thừa kế. Ông đồng ý chia thừa kế nhưng yêu
cầu Tòa án chia cho ông phần đất có diện tích 50m
2
tiếp giáp với đường Q để
ông có chỗ làm nghề sửa xe, vì hiện nay ông là trụ cột chính của gia đình, ông
không có nghề nghiệp nào khác.
5
* Tại đơn khởi kiện yêu cầu độc lập và tại phiên tòa sơ thẩm, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là các ông, bà Nghiêm Thị T1, Nghiêm Thị Q1,
Nghiêm N1, Nghiêm D, Nghiêm V, Nghiêm T6, N, Nghiêm Thị C và anh Nguyễn
Nhất D1 cùng trình bày: Các ông, bà và anh thống nhất với trình bày về quan hệ
huyết thống, di sản, nguồn gốc di sản thừa kế và yêu cầu chia thừa kế của
nguyên đơn.
Các ông, bà và anh yêu cầu được nhận di sản bằng hiện vật. Hiện trên thửa
148 có ngôi nhà của cụ C1, cụ B làm từ năm 1964 để lại không còn giá trị sử
dụng nên các ông, bà và anh không yêu cầu chia thừa kế; trường hợp người nào
được chia phần đất có nhà thì người đó được hưởng, không phải thanh toán lại
giá trị nhà cho các đồng thừa kế khác.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Nguyễn Đình Q2 do anh
Nguyễn Nhất D1 là người đại diện theo ủy quyền trình bày:
Ông Nguyễn Đình Q2 và bà Nghiêm Thị T8 chung sống với nhau từ năm
1979, nhưng không đăng ký kết hôn; thời gian đầu, ông Q2 và bà T8 có sinh
sống tại nhà cha, mẹ của bà T8 một thời gian ngắn, sau đó chuyển ra ngoài sinh
sống. Ông Q2, bà T8 có một người con chung là anh Nguyễn Nhất D1. Năm
1982, ông Q2 đi bộ đội tại chiến trường Campuchia thì ông Q2, bà T8 chia tay;
năm 1987, ông Q2 kết hôn với người phụ nữ khác.
Hiện bà T8 đã chết, trường hợp Tòa án chấp nhận yêu cầu chia thừa kế cho
bà T8 thì ông Q2 không có bất kỳ yêu cầu gì. Đề nghị Tòa án giao kỷ phần thừa
kế của bà T8 cho anh Nguyễn Nhất D1 nhận.
* Bản án số 55/2023/DS-ST ngày 19/9/2023 của Tòa án nhân dân thành
phố Quảng Ngãi đã xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của các ông, bà T, T1, N1,
Q2, D, V, T6, T7, C và anh D1 về việc chia thừa kế thửa 148, diện tích theo đo
đạc thực tế là 417,2m
2
(trong đó có 300m
2
đất T và 117,2m
2
đất vườn) như sau:
1. Các ông, bà N1, Q2, D, V, T6, T7, C và anh D1, mỗi người được nhận
01 kỷ phần 32,09m
2
(trong đó có 23,08m
2
đất T và 9,01m
2
đất vườn), trị giá
2.040.154.816 đồng/kỷ phần.
2. Bà T1 được nhận 04 kỷ phần là 128,36m
2
(trong đó có 92,32m
2
đất T và
36,04m
2
đất vườn), trị giá 8.160.619.264 đồng.
3. Ông X và ông S mỗi người được nhận 1,5 kỷ phần là 48,135m
2
(trong
đó có 34,62m
2
đất T và 13,515m
2
đất vườn), trị giá 3.060.232.224 đồng.
4. Giao cho ông X phần đất, ký hiệu A có diện tích 144,41m
2
(trong đó có
103,86m
2
đất T và 40,55m
2
đất vườn) được giới hạn bởi các điểm 1-2-23-22-21-
20-19-18-16-17-1.
6
5. Giao cho ông S phần đất, ký hiệu B có diện tích 272,79m
2
(trong đó có
196,14m
2
đất T và 76,65m
2
đất vườn) được giới hạn bởi các điểm số 2-3-4-5-6-
7-8-9-10-11-12-13-14-15-18-19-20-21-22-23-2.
(Có Sơ đồ phân chia thừa kế kèm theo bản án).
Ông X, ông S không phải thanh toán lại giá trị tài sản gắn liền với phần
đất được nhận cho các đồng thừa kế khác. Ông X, ông S có trách nhiệm đến các
cơ quan có thẩm quyền kê khai để được cấp GCNQSDĐ theo đúng phần đất
được chia.
6. Ông X phải thanh toán cho bà C, ông T7, anh D1, mỗi người
2.040.154.816 đồng.
7. Ông S phải thanh toán cho bà T1 8.160.619.264 đồng và cho các ông D,
V, T6, mỗi người 2.040.154.816 đồng.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí, chi phí tố tụng khác và
quyền kháng cáo của các đương sự.
* Trong các ngày 02, 03, 05, 16, 17, 19, 24 tháng 10 năm 2023, các ông T,
V, T6, D và anh D1 có đơn kháng cáo, kháng cáo bổ sung với nội dung: Đề nghị
Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm, chia thừa kế thửa 148 thành 12 kỷ
phần cho các đồng thừa kế, mỗi người được nhận 01 kỷ phần có diện tích
34,75m
2
(trong đó có 25m
2
đất T và 9,75m
2
đất vườn), trị giá 2.210.107.693
đồng.
* Ngày 26 tháng 9 và ngày 03 tháng 10 năm 2023, ông S có đơn kháng
cáo, kháng cáo bổ sung với nội dung: Đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án
sơ thẩm, chia cho ông 02 kỷ phần tương đương với diện tích đất 71,45m
2
(trong
đó có 40m
2
đất T và 31,45m
2
đất vườn) tại vị trí mặt tiền đường Q mà ông đã mở
tiệm sửa xe suốt gần 20 năm thuộc thửa 148; ông không nhận phần đất có diện
tích 272,79m
2
(trong đó có 196,14m
2
đất T và 76,65m
2
đất vườn) như bản án sơ
thẩm đã giao.
* Ngày 04/10/2023, ông X có đơn kháng cáo với nội dung: Đề nghị Tòa
án cấp phúc thẩm hủy toàn bộ bản án sơ thẩm số 55/2023/DS-ST ngày 19/9/2023
của Tòa án nhân dân thành phố Quảng Ngãi; không chia ngôi nhà của cha, mẹ đã
cho ông cách đây 42 năm, là ngôi nhà duy nhất mà ông đang sinh sống.
* Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ông Nghiêm X, bà Đoàn
Thị T2 phát biểu ý kiến tranh luận và đề nghị Hội đồng xét xử hủy bản án số
55/2023/DS-ST ngày 19/9/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Quảng Ngãi;
chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm thụ lý, giải quyết lại theo thủ tục sơ
thẩm.
* Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi phát
biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án
7
của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa, người tham gia tố tụng kể từ
khi Tòa án cấp phúc thẩm thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử
nghị án đều đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
Đơn kháng cáo của các ông T, V, T6, D, X, S và anh D1 đảm bảo về thời
hạn, chủ thể và nội dung kháng cáo theo quy định tại các Điều 271, 272, 273 Bộ
luật tố tụng dân sự năm 2015.
Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 3 Điền 308, Điều 310
Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, hủy bản án số 55/2023/DS-ST ngày 19/9/2023
của Tòa án nhân dân thành phố Quảng Ngãi; chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp
sơ thẩm giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm; các đương sự không phải chịu án phí
dân sự phúc thẩm; án phí dân sự sơ thẩm và chi phí tố tụng khác được xác định
lại khi giải quyết lại vụ án.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được kiểm tra xem xét và kết quả
tranh tụng tại phiên tòa, sau khi đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng
Ngãi phát biểu ý kiến, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Ngày 19/9/2023, Tòa án nhân dân thành phố Quảng Ngãi tuyên án vụ
án nêu trên. Vào ngày 26 tháng 9 và các ngày 02, 03, 04, 05, 16, 17, 19, 24 tháng
10 năm 2023, các ông Nghiêm Xuân T9, Nghiêm V, Nghiêm T6, Nghiêm D,
Nghiêm X, Nghiêm S và anh Nguyễn Nhất D1 có đơn kháng cáo là còn trong
thời hạn quy định tại khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, được
chấp nhận xem xét, giải quyết.
[2] Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là chị Nghiêm Thị Thu N2 có
đơn xin xét xử vắng mặt. Căn cứ khoản 2 Điều 296 Bộ luật tố tụng dân sự năm
2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án.
[3] Ngày 04/12/2023, Tòa án cấp phúc thẩm thụ lý vụ án; ngày 27/3/2024,
ông Nghiêm X và bà Đoàn Thị T2 có văn bản ủy quyền cho anh Nghiêm T3 và
ông Đào Khoa T4 tham gia tố tụng; ngày 05/4/2024, anh T3 có đơn đề nghị về
việc nộp tài liệu, chứng cứ mới quan trọng và đề nghị triệu tập người làm chứng
tham gia phiên tòa (Tòa án nhận ngày 08/4/2024), trong đó có nội dung ông X,
bà T2 được cụ Nghiêm C1 và cụ Võ Thị B cho phần đất có diện tích 84m
2
(4m x
21m) khi ông X lập gia đình ra riêng từ năm 1982, có xác nhận của một số người
làm chứng là các ông Võ Thành H1, Võ Thành C3, Trần K, Trương Quang S1;
tại bản tự khai ngày 07/4/2024, anh T3 cho rằng cụ C1, cụ B đã tặng cho ông X
nhà, đất thuộc thửa đất số 133, tờ bản đồ số 2, phường L, thành phố Q, tỉnh
Quảng Ngãi tại số nhà C đường Q, thành phố Q được thể hiện qua việc ông X sử
dụng từ năm 1982 đến nay; kê khai, nộp thuế; đồng thời, các anh chị em của ông
T9 hàng năm về thăm nhà, giỗ cụ C1 đều không phản đối; quá trình sử dụng, ông
X nhiều lần sửa chữa nhà; gần đây nhất là khoảng năm 2004, ông X và bà T2
8
thuê thợ xây nhà, có xin phép và được UBND phường L cho phép làm nhà; do
nhà xuống cấp nên năm 2008, ông X và bà T2 tiếp tục thuê thợ xây nhà nhưng
các anh, chị, em của ông X đều không phản đối hay ý kiến gì; mặt khác, theo hồ
sơ cấp GCNQSDĐ đối với thửa đất số 132, tờ bản đồ số 2, phường L cũng thể
hiện giới cận phía Nam thửa đất số 132 giáp nhà ông Nghiêm X (bút lục 517,
519, 521, 522, 524); ngày 14/5/2024, anh T3 có đơn trình bày gửi Tòa án, trong
đó có nội dung: Vào khoảng năm 1971, ông X bị mảnh đạn ghim vào sau đầu và
bị co quắp tay chân, tàn tật nặng, cũng đã nhiều lần bị tai biến bởi dị vật kim
loại đang ở trong hộp sọ, sức khỏe, tinh thần bị yếu kém do di chứng của mảnh
đạn để lại. Vì vậy, ông X thường xuyên có triệu chứng quên, nhớ thất thường và
khó khăn trong nhận thức. Từ những vấn đề về tâm thần và sức khỏe yếu kém
nêu trên đã ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của ông X
trong việc quyết định tài sản và các vấn đề khác; hiện gia đình anh đã hoàn
thiện hồ sơ để gửi cơ quan có thẩm quyền yêu cầu tuyên bố ông X là người có
khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi ...
[4] Ngày 31/7/2024, Tòa án nhân dân huyện Cư M’gar, tỉnh Đắk Lắk có
Quyết định giải quyết việc dân sự số 10/2024/QĐST-VDS về việc tuyên bố ông
Nghiêm X là người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi và chỉ định
anh Nghiêm T3 là người giám hộ cho ông X.
[5] Ngoài ra, trong quá trình giải quyết vụ án, anh T3 có cung cấp và Tòa
án đã thu thập tài liệu. Theo Quyết định công nhận thuận tình ly hôn số 20 ngày
07/12/1994 của Tòa án nhân dân thị xã Quảng Ngãi về việc thuận tình ly hôn
giữa ông Nghiêm X và bà Đoàn Thị T2 thể hiện về phần tài sản, ông X và bà T2
thỏa thuận có một móng nhà; tại phiên tòa, anh T3 là người giám hộ của ông X
cho rằng móng nhà được thể hiện trong Quyết định công nhận thuận tình ly hôn
nói trên, vào năm 2008 ông X và bà T2 đã làm nhà, hiện ông X và bà T2 đang
quản lý, sử dụng; bà T1 (vừa là người đại diện theo ủy quyền của các ông, bà T9,
Q2, C, N1 vừa là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan), các ông D, V, T6, T7
và anh D1 đều không thừa nhận tại thời điểm ly hôn ông X, bà T2 có tài sản là
móng nhà vì khi ông X, bà T2 ly hôn thì các ông, bà không biết, không tham gia
nên không biết việc thỏa thuận về tài sản của ông X, bà T2.
[6] Ông X kháng cáo đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm,
không đồng ý chia ngôi nhà của cha, mẹ đã cho ông cách đây 42 năm, là ngôi
nhà duy nhất mà ông đang sinh sống; tại phiên tòa, anh T3 là người giám hộ cho
ông X và là người đại diện theo ủy quyền của bà T2 cho rằng khi còn sống, cụ
C1 và cụ B đã cho ông X, bà T2 ngôi nhà số C đường Q, thành phố Q từ năm
1982; quá trình sử dụng, ông X và bà T2 đã nhiều lần sửa chữa, làm thêm phần
nhà phía sau, nhưng do ông X lúc nhớ, lúc quên vì bị ảnh hưởng mảnh đạn còn
ghim trong đầu nên trong quá trình giải quyết vụ án tại cấp sơ thẩm, ông X (vừa
là bị đơn, vừa là người đại diện theo ủy quyền của bà T2 - bút lục 267, 268) đã
không yêu cầu Tòa án xác định cho ông X, bà T2 được quyền sở hữu, sử dụng
9
nhà, đất tại số C đường Q, thành phố Q hiện ông T9 và các em của ông T9 đang
tranh chấp, trước khi chia thừa kế di sản của cụ C1 và cụ B là ảnh hưởng nghiêm
trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của ông X, bà T2. Do đó, anh đề nghị Hội
đồng xét xử hủy bản án sơ thẩm để Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án nhằm
bảo đảm quyền lợi cho ông X, bà T2.
[7] Như nhận định trên, do phát sinh tình tiết mới tại cấp phúc thẩm là
Quyết định giải quyết việc dân sự về việc tuyên bố ông Nghiêm X là người có
khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi và Quyết định công nhận thuận tình
ly hôn số 20 ngày 07/12/1994 của Tòa án nhân dân thị xã Quảng Ngãi về việc
thuận tình ly hôn giữa ông Nghiêm X và bà Đoàn Thị T2 thể hiện về phần tài
sản, ông X và bà T2 thỏa thuận có một móng nhà. Tình tiết này chưa được xem
xét, đánh giá tại cấp sơ thẩm nên Tòa án cấp phúc thẩm không thể xem xét khi
giải quyết vụ án vì vượt quá phạm vi xét xử phúc thẩm theo quy định tại Điều
293 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Để giải quyết vụ án được triệt để, bảo đảm
quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự theo quy định của pháp luật mà tại
phiên tòa phúc thẩm không thể thực hiện bổ sung được nên cần hủy bản án sơ
thẩm, chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Quảng Ngãi để giải
quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm.
Do hủy bản án sơ thẩm nên Hội đồng xét xử không xem xét kháng cáo của
các đương sự.
[8] Nghĩa vụ chịu án phí và chi phí tố tụng khác được xác định lại khi giải
quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm.
[9] Về án phí dân sự phúc thẩm: Các ông T9, D, X, S, V, T6 và anh D1
không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm. Hoàn trả cho ông V, ông S, ông T6 và
anh D1 mỗi người 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp theo
Biên lai số 0000056, 0000059 ngày 26/10/2023; Biên lai số 0000062 và số
0000061 ngày 27/10/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Quảng
Ngãi.
[10] Đề nghị của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ông Nghiêm
X, bà Đoàn Thị T2 là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử, được chấp
nhận.
[11] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi là phù
hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 3 Điều 148, khoản 3 Điều 308, Điều 310 Bộ luật tố tụng dân
sự năm 2015; Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
10
Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử
dụng án phí và lệ phí Tòa án. Tuyên xử:
1. Hủy bản án số 55/2023/DS-ST ngày 19 tháng 9 năm 2023 của Tòa án
nhân dân thành phố Quảng Ngãi và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân
thành phố Quảng Ngãi giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm.
2. Nghĩa vụ chịu án phí và chi phí tố tụng khác được xác định lại khi giải
quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm.
3. Các ông Nghiêm Ngọc T, Nghiêm D, Nghiêm X, Nghiêm S, Nghiêm V,
Nghiêm T6 và anh Nguyễn Nhất D1 không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.
Hoàn trả cho ông Nghiêm V, ông Nghiêm S, ông Nghiêm T6 và anh Nguyễn
Nhất D1 mỗi người 300.000 đồng (ba trăm ngàn) tiền tạm ứng án phí phúc thẩm
đã nộp theo Biên lai số 0000056, số 0000059 cùng ngày 26/10/2023 và Biên lai
số 0000062, số 0000061 cùng ngày 27/10/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự
thành phố Quảng Ngãi.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Quảng Ngãi;
- TAND thành phố Quảng Ngãi;
- Chi cục THADS TP Quảng Ngãi;
- Đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký và đóng dấu)
Trịnh Thị Thu Lan
Tải về
Bản án số 56/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 56/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 25/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 21/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 18/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 11/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 05/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 05/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 28/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 25/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 24/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 23/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 23/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 29/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 28/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 28/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 27/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 27/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm