Bản án số 91/2025/DS-PT ngày 14/02/2025 của TAND tỉnh Bến Tre về tranh chấp hợp đồng tặng cho tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 91/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 91/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 91/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 91/2025/DS-PT ngày 14/02/2025 của TAND tỉnh Bến Tre về tranh chấp hợp đồng tặng cho tài sản |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng tặng cho tài sản |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Bến Tre |
Số hiệu: | 91/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 14/02/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Ông Hồ Văn T tranh chấp hợp đồng tặng cho với ông Hồ Văn M |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
1
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỈNH BẾN TRE Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Bản án số: 91/2025/DS-PT
Ngày: 14 - 02 - 2025
V/v “Tranh chấp hợp đồng tặng
cho quyền sử dụng đất, đòi lại tài
sản, bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng do tài sản bị xâm phạm.”
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẾN TRE
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Rẻn
Các Thẩm phán: Ông Bùi Quang Sơn
Ông Nguyễn Thế Hồng
- Thư ký phiên tòa: Ông Huỳnh Vũ Duy Thanh - Thư ký Tòa án nhân dân
tỉnh Bến Tre.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre tham gia phiên tòa: Trần
Thị Kim Ngân - Kiểm sát viên.
Ngày 14 tháng 02 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre xét xử
phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 537/2024/TLPT-DS ngày 14 tháng 11 năm
2024 về “Tranh chấp hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất, đòi lại tài sản, bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng do tài sản bị xâm phạm”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 145/2024/DS-ST ngày 17 tháng 9 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện Giồng Trôm bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 07/2024/QĐ-PT ngày 02
tháng 01 năm 2025 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Hồ Văn M, sinh năm 1946
Địa chỉ: Số D, ấp H (ấp D), xã H, huyện G, tỉnh Bến Tre.
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông Hồ Văn M:
Bà Trần Thị Thanh T, sinh năm 1986 (có mặt)
2
Địa chỉ: Số A, ấp A, xã P, thành phố B, tỉnh Bến Tre.
2. Bị đơn:
2.1. Ông Hồ Văn T1, sinh năm 1970 (có mặt)
2.2. Bà Phan Thị Ngọc D, sinh năm 1976 (có mặt)
2.3. Bà Hồ Thị Như Ý, sinh năm 1995 (có mặt)
Cùng địa chỉ: Ấp R (ấp I), xã H, huyện G, tỉnh Bến Tre.
2.4. Bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1929 (vắng mặt)
Địa chỉ: Ấp R (ấp I), xã H, huyện G, tỉnh Bến Tre.
2.5. Bà Trần Thị D1, sinh năm 1970
2.6. Ông Nguyễn Hồng Q, sinh năm 1956
Cùng địa chỉ: F HOMEWOOD AVE WORTHINGTON M.56187, Hoa Kỳ;
Cùng tạm trú: Ấp Rẫy (ấp I), xã H, huyện G, tỉnh Bến Tre;
Người đại diện theo ủy quyền của bà Trần Thị D1 và ông Nguyễn Hồng Q:
Ông Phạm Duy M1, sinh năm 1976 (có mặt)
Địa chỉ: Số A N, Khu phố A, Phường B, thành phố G, tỉnh Tiền Giang.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Hồ Minh T2, sinh năm 1989
(có mặt)
Địa chỉ: Số D, ấp H (ấp D), xã H, huyện G, tỉnh Bến Tre.
4. Người kháng cáo: Bị đơn ông Hồ Văn T1.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo nội dung án sơ thẩm:
Theo đơn khởi kiện, đơn khởi kiện bổ sung, trong quá trình tố tụng và tại
phiên toà sơ thẩm phía nguyên đơn ông Hồ Văn M cũng như người đại diện theo
uỷ quyền của nguyên đơn là bà Trần Thị Thanh T trình bày:
Năm 2006, ông Hồ Văn T1, bà Phan Thị Ngọc D và bà Nguyễn Thị N có
chuyển nhượng cho ông Nguyễn Hồng Q và bà Trần Thị Diễm T3 đất số 240, tờ
bản đồ số 8, tọa lạc tại xã H, huyện G, tỉnh Bến Tre. Ông Q và bà D1 hứa tặng
cho ông M thửa đất trên nên ông M vào quản lý, sử dụng đất từ năm 2006 đến
nay, không ai phản đối. Việc hứa tặng cho đất, các bên chỉ nói miệng, không lập
thành văn bản nhưng có bà N làm chứng.
Khi vào quản lý, sử dụng đất, ông M đã đốn nhiều dừa và trồng lại, đến năm
2012 mới trồng xong; ông M có lấp và bơm cát ½ ao ở phía trước, ông Hồ Minh
3
T2 có đỗ đá một phần đường từ đường công cộng ra đến phía cuối đất (phía sông);
ông M có bồi đất hằng năm, chăm sóc và bón phân cho cây trồng trên đất…
Ông M có yêu cầu sang tên thửa đất trên cho ông nhưng ông T1 và bà D
không đồng ý. Do đó, trước đây ông M có yêu cầu khởi kiện là yêu cầu ông T1
và bà D tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với
thửa đất số 240. Nay ông M khởi kiện bổ sung yêu cầu như sau:
- Yêu cầu ông Q và bà D1 tiếp tục thực hiện hợp đồng tặng cho quyền sử
dụng đất đối với thửa đất số 240, yêu cầu ông T1, bà D, bà N và bà Ý làm thủ tục
sang tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 240 cho ông M.
- Trường hợp buộc ông M trả lại thửa đất trên thì ông M yêu cầu bà D1, ông
Q, ông T1, bà D, bà N và bà Ý liên đới bồi thường cho ông M công sức tôn tạo
đất (bơm cát san lấp mương, chở đất nâng bờ, trồng cây, chăm sóc, bón phân…),
công sức bảo quản giữ gìn đất trong 18 năm qua với phần đất có diện tích 1.332m
2
theo hồ sơ đo đạc là thửa đất số 240d thuộc một phần thửa đất số 240; yêu cầu bà
D1, ông Q, ông T1, bà D, bà N và bà Ý liên đới bồi thường giá trị tài sản của ông
M trên phần đất còn lại theo hồ sơ đo đạc là thửa đất số 240e thuộc một phần thửa
đất số 240.
Ông M không đồng ý đối với yêu cầu phản tố, yêu cầu phản tố bổ sung của
ông T1 về việc yêu cầu ông M di dời, trả lại thửa đất số 240 và yêu cầu ông M,
ông T2 liên đới bồi thường huê lợi trên vườn dừa từ tháng 01/2007 đến tháng
4/2023 với số tiền là 487.545.000 đồng.
Đối với ranh đất giữa thửa đất số 240 và các thửa đất khác, ông M đồng ý
theo hiện trạng sử dụng. Ông M đồng ý với kết quả đo đạc, các kết quả xem xét,
thẩm định tại chỗ, kết quả định giá tài sản và yêu cầu giải quyết theo quy định
pháp luật chi phí thu thập chứng cứ.
Bị đơn ông Hồ Văn T1 trình bày: Thửa đất số 240 cấp cho hộ gia đình ông,
hộ gia đình ông gồm ông, bà D (vợ của ông), bà N (mẹ của ông) và bà Ý (con của
ông và bà D). Năm 2005, ông, bà D và bà N có chuyển nhượng cho ông Q và bà
D1 thửa đất trên, giá chuyển nhượng là 120.000.000 (một trăm hai mươi triệu)
đồng; ông, bà D và bà N đã nhận đủ số tiền này từ ông Q và bà D1 nhưng chưa
giao đất do ông Q và bà D1 đang sinh sống ở nước ngoài, chưa có điều kiện nhận
đất. Ông Q và bà D1 đồng ý cho ông và bà D hưởng toàn bộ cây trái trên thửa đất
số 240 đến khi sang tên. Việc ông Q và bà D1 hứa cho thửa đất số 240 cho ông
M, ông không biết.
Do ông, bà D và bà N không có chuyển nhượng thửa đất số 240 cho ông M,
ông M tự ý vào quản lý, sử dụng đất nên ông không đồng ý với yêu cầu khởi kiện,
yêu cầu khởi kiện bổ sung của ông M về việc yêu cầu ông, bà D, bà N, bà Ý sang
4
tên thửa đất số 240 cho ông M; yêu cầu ông, bà D, bà N, bà Ý, ông Q, bà D1 liên
đới bồi thường cho ông M công sức tôn tạo đất (bơm cát san lấp mương, chở đất
nâng bờ, trồng cây, chăm sóc, bón phân…), công sức bảo quản giữ gìn đất trong
18 năm qua với phần đất có diện tích 1.332m
2
theo hồ sơ đo đạc là thửa đất số
240d thuộc một phần thửa đất số 240 và yêu cầu ông, bà D, bà N, bà Ý, ông Q, bà
D1 liên đới bồi thường giá trị tài sản của ông M trên phần đất còn lại theo hồ sơ
đo đạc là thửa đất số 240e thuộc một phần thửa đất số 240. Ông chỉ đồng ý sang
tên thửa đất số 240 cho ông Q và bà D1 khi ông Q và bà D1 có yêu cầu, còn việc
ông Q và bà D1 muốn cho ai thửa đất này là quyền của họ.
Ông T1 có yêu cầu phản tố: Yêu cầu ông M và ông T2 di dời tất cả tài sản
của ông M và ông T2 trên đất (tài sản gồm: 01 nhà nằm trên thửa đất số 240d; hồ
tròn chứa nước nằm trên thửa đất số 240d, 01 cây dừa từ 01 đến dưới 04 nằm nằm
trên thửa đất số 240d; 10 cây dừa dưới 01 năm (05 cây nằm trên thửa đất số 240d
và 05 cây nằm trên thửa đất số 240e); 03 cây bưởi da xanh nằm trên thửa đất số
240d; 03 bụi chuối nằm trên thửa đất số 240e), trả lại cho ông thửa đất số 240.
Các cây trồng còn lại, gồm 72 cây dừa trên 06 năm là do ông trồng, 02 bụi tre là
do mẹ ông trồng (01 bụi nằm trên thửa đất số 240d và 01 bụi nằm trên thửa đất số
240e), 03 cây cau có trái tự mọc (01 cây nằm trên thửa đất số 240d và 02 cây nằm
trên thửa đất số 240e); 01 cây bưởi da xanh nằm trên thửa đất số 240e là do ông
trồng, tất cả để lại trên đất.
Ông có yêu cầu phản tố bổ sung: Yêu cầu ông M và ông T2 liên đới bồi
thường huê lợi trên vườn dừa từ tháng 01/2007 đến tháng 4/2023 với số tiền là
487.545.000 đồng (ước tính trung bình 2.500.000 đồng/tháng), không yêu cầu từ
tháng 5/2023 đến khi giải quyết xong vụ án, do ông M tự ý vào quản lý, sử dụng,
thu hoạch dừa trên thửa đất số 240 thuộc quyền sử dụng của ông. Tài liệu, chứng
cứ chứng minh cho yêu cầu này là xác nhận của những người đốn dừa, mua dừa
đều có chứng thực tại cơ quan có thẩm quyền.
Đối với ranh đất giữa thửa đất số 240 và các thửa đất khác, ông đồng ý theo
hiện trạng sử dụng. Ông đồng ý với kết quả đo đạc, các kết quả xem xét, thẩm
định tại chỗ và kết quả định giá tài sản.
Bị đơn bà Phan Thị Ngọc D trình bày: Thửa đất số 240 cấp cho hộ gia đình
ông T1, hộ gia đình ông T1 gồm ông T1, bà (vợ của ông T1), bà N (mẹ của ông
T1) và bà Ý (con của ông T1 và bà).
Năm 2005, ông T1, bà và bà N có chuyển nhượng cho ông Q và bà D1 thửa
đất trên, giá chuyển nhượng là 120.000.000 (một trăm hai mươi triệu) đồng; ông
T1, bà và bà N đã nhận đủ số tiền này từ ông Q và bà D1 nhưng chưa giao đất do
ông Q và bà D1 đang sinh sống ở nước ngoài, chưa có điều kiện nhận đất. Ông Q
5
và bà D1 đồng ý cho ông T1 và bà hưởng toàn bộ cây trái trên thửa đất số 240 đến
khi sang tên. Việc ông Q và bà D1 hứa cho thửa đất số 240 cho ông M, bà không
biết.
Do ông T1, bà và bà N không có chuyển nhượng thửa đất số 240 cho ông M,
ông M tự ý vào quản lý, sử dụng đất nên bà không đồng ý với yêu cầu khởi kiện,
yêu cầu khởi kiện bổ sung của ông M về việc yêu cầu bà, ông T1, bà N, bà Ý sang
tên thửa đất số 240 cho ông M; yêu cầu bà, ông T1, bà N, bà Ý, ông Q, bà D1 liên
đới bồi thường cho ông M công sức tôn tạo đất (bơm cát san lấp mương, chở đất
nâng bờ, trồng cây, chăm sóc, bón phân…), công sức bảo quản giữ gìn đất trong
18 năm qua với phần đất có diện tích 1.332m
2
theo hồ sơ đo đạc là thửa đất số
240d thuộc một phần thửa đất số 240 và yêu cầu bà, ông T1, bà N, bà Ý, ông Q,
bà D1 liên đới bồi thường giá trị tài sản của ông M trên phần đất còn lại theo hồ
sơ đo đạc là thửa đất số 240e thuộc một phần thửa đất số 240. Bà chỉ đồng ý sang
tên thửa đất số 240 cho ông Q và bà D1, còn việc ông Q và bà D1 muốn cho ai
thửa đất này là quyền của họ.
Đối với ranh đất giữa thửa đất số 240 và các thửa đất khác, bà đồng ý theo
hiện trạng sử dụng. Do bà đang điều trị bệnh tại bệnh viện nên bà xin vắng mặt
trong vụ án tranh chấp giữa các bên.
Bị đơn bà Nguyễn Thị N trình bày: Thửa đất số 240 cấp cho hộ gia đình ông
T1, hộ gia đình ông T1 gồm ông T1, bà D (vợ của ông T1), bà (mẹ của ông T1)
và bà Ý (con của ông T1 và bà D). Bà, ông T1 và bà D có chuyển nhượng thửa
đất trên cho ông Q (ông Q nói là nhận chuyển nhượng đất để cho ông M).
Ông M khởi kiện yêu cầu bà sang tên thửa đất số 240 cho ông M, bà đồng ý.
Trường hợp ông M yêu cầu trả công sức công sức tôn tạo đất (bơm cát san lấp
mương, chở đất nâng bờ, trồng cây, chăm sóc, bón phân…), công sức bảo quản
giữ gìn đất thì người có trách nhiệm trả là ông Q và bà D1, bà không có trách
nhiệm trả. Trong vụ án này, bà không có ý kiến, tranh chấp gì. Vì lý do sức khỏe
nên bà xin vắng mặt trong vụ án tranh chấp giữa các bên.
Bị đơn bà Hồ Thị Như Ý trình bày: Thống nhất với trình bày của ông T1 và
bà D. Năm 2005, ông T1, bà D và bà N có chuyển nhượng thửa đất trên cho ông
Q và bà D1, lúc đó bà còn nhỏ nên không tham gia việc này. Bà không đồng ý với
yêu cầu khởi kiện, yêu cầu khởi kiện bổ sung của nguyên đơn. Đối với ranh đất
giữa thửa đất số 240 và các thửa đất khác, bà đồng ý theo hiện trạng sử dụng. Bà
đồng ý với kết quả đo đạc, các kết quả xem xét, thẩm định tại chỗ và kết quả định
giá tài sản.
Các bị đơn ông Nguyễn Hồng Q và bà Trần Thị Diễm thống N1 trình bày:
6
Năm 2005, ông Q và bà D1 có nhận chuyển nhượng của ông T1, bà D và bà
N thửa đất số 240, ông Q và bà D1 đã giao đủ tiền chuyển nhượng cho ông T1, bà
D và bà N nhưng chưa nhận đất do ông, bà sinh sống ở nước ngoài, chưa có điều
kiện nhận đất. Ông Q và bà D1 có đồng ý cho ông T1 và bà D hưởng toàn bộ cây
trái trên thửa đất số 240 đến khi sang tên. Ông M cho rằng ông Q và bà D1 có hứa
tặng cho ông thửa đất số 240 là không đúng, thực tế ông Q và bà D1 không có
hứa tặng cho thửa đất số 240 cho ông M. Ông M không cung cấp được văn bản
hay chứng cứ nào chứng minh có việc tặng đất nói trên. Bà N làm chứng cho rằng
ông Q có hứa cho đất nhưng bà N đã cao tuổi, bà N là mẹ ruột của ông M nên việc
làm chứng không khách quan. Do đó, ông Q và bà D1 không đồng ý với yêu cầu
khởi kiện, yêu cầu khởi kiện bổ sung của ông M về việc yêu cầu ông, bà tiếp tục
thực hiện hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 240, yêu cầu
ông T1, bà D, bà N và bà Ý làm thủ tục sang tên giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất đối với thửa đất này cho ông M.
Ông M tự ý vào quản lý, sử dụng đất, không được sự đồng ý của ông Q và
bà D1; ông Q và bà D1 không biết ông M vào quản lý, sử dụng đất; ông M cũng
không thông báo cho ông, bà biết ông vào quản lý, sử dụng đất. Khi quản lý, sử
dụng đất, ông M cũng không tôn tạo, giữ gìn đất mà còn đem đất đi bán như ông
T2 đã thừa nhận, hiện trạng đất vẫn là đất vườn, việc ông M yêu cầu nhận hiện
vật là phần đất có diện tích 1.332m
2
theo hồ sơ đo đạc là thửa đất số 240d thuộc
một phần thửa đất số 240 là vô lý. Do đó, ông Q và bà D1 không đồng ý với yêu
cầu khởi kiện bổ sung của ông M về việc yêu cầu ông bà liên đới với ông T1, bà
D, bà N, bà Ý bồi thường cho ông M công sức tôn tạo đất (bơm cát san lấp mương,
chở đất nâng bờ, trồng cây, chăm sóc, bón phân…), công sức bảo quản giữ gìn
đất trong 18 năm qua với phần đất có diện tích 1.332m
2
theo hồ sơ đo đạc là thửa
đất số 240d thuộc một phần thửa đất số 240 và yêu cầu ông bà liên đới với ông
T1, bà D, bà N, bà Ý bồi thường giá trị tài sản của ông M trên phần đất còn lại
theo hồ sơ đo đạc là thửa đất số 240e thuộc một phần thửa đất số 240.
Đối với ranh đất giữa thửa đất số 240 và các thửa đất khác, ông Q và bà D1
đồng ý theo hiện trạng sử dụng. Ông Q và bà D1 đồng ý với kết quả đo đạc, các
kết quả xem xét, thẩm định tại chỗ và kết quả định giá tài sản.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Hồ Minh T2 trình bày:
Ông là con của ông M. Từ năm 2006 đến nay, ông cùng ông M quản lý, sử
dụng thửa đất số 240. Ông thống nhất với lời trình bày của ông M
Trường hợp Toà án buộc ông M và ông di dời để trả lại thửa đất số 240 thì
nhà và hồ tròn chứa nước trên thửa đất này ông tự di dời được.
7
Đối với ranh đất giữa thửa đất số 240 và các thửa đất khác, ông đồng ý theo
hiện trạng sử dụng. Ông đồng ý với kết quả đo đạc, các kết quả xem xét, thẩm
định tại chỗ và kết quả định giá tài sản.
Do hòa giải không thành, Tòa án nhân dân huyện Giồng Trôm đưa vụ án ra
xét xử. Tại phần quyết định Bản án dân sự sơ thẩm số 145/2024/DS-ST ngày 17
tháng 9 năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện Giồng Trôm đã tuyên xử:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện, yêu cầu khởi kiện bổ sung của ông
Hồ Văn M về việc yêu cầu ông Nguyễn Hồng Q, bà Trần Thị D1 tiếp tục thực
hiện hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 240a có diện tích
qua đo đạc thực tế là 2.837,9m
2
, tờ bản đồ số 8, tọa lạc tại xã H, huyện G, tỉnh
Bến Tre và yêu cầu ông Hồ Văn T1, bà Phan Thị Ngọc D, bà Nguyễn Thị N, bà
Hồ Thị Như Ý sang tên thửa đất số 240a trên cho ông.
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện bổ sung của ông Hồ Văn M về việc
yêu cầu bồi thường công sức tôn tạo đất, buộc ông Hồ Văn T1, bà Phan Thị Ngọc
D và bà Nguyễn Thị N liên đới bồi thường cho ông Hồ Văn M chi phí san lấp ½
ao phía trước và giá trị tài sản trên thửa đất số 240a có diện tích qua đo đạc thực
tế là 2.837,9m
2
, tờ bản đồ số 8, tọa lạc tại xã H, huyện G, tỉnh Bến Tre (tài sản
gồm: 01 (một) cây dừa từ 01 năm đến dưới 04 năm nằm trên thửa đất số 240d; 10
(mười) cây dừa dưới 01 năm (trong đó có 05 cây nằm trên thửa đất số 240d và 05
cây nằm trên nằm trên thửa đất số 240e); 03 (ba) cây bưởi da xanh nằm trên thửa
đất số 240d; 03 (ba) bụi chuối nằm trên thửa đất số 240e; 03 (ba) cây cau (01 cây
nằm trên thửa đất số 240d và 02 cây nằm trên thửa đất số 240e); 69 (sáu mươi
chín) cây dừa trên 06 năm) với số tiền là 129.131.000 (một trăm hai mươi chín
triệu một trăm ba mươi mốt nghìn) đồng.
Chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Hồ Văn T1 về việc yêu cầu ông Hồ Văn
M và ông Hồ Minh T2 di dời tài sản trên thửa đất số 240a có diện tích qua đo đạc
thực tế là 2.837,9m
2
, tờ bản đồ số 8, tọa lạc tại xã H, huyện G, tỉnh Bến Tre, trả
lại thửa đất này cho ông; buộc ông Hồ Văn M và anh Hồ Minh T2 di dời tài sản
gồm: 01 (một) nhà nền ximăng, cột bêtông chôn, vách tole + gỗ, mái tole tráng
kẽm, không trần và 02 (hai) hồ tròn chứa nước, trả lại thửa đất số 240a có diện
tích qua đo đạc thực tế là 2.837,9m
2
, tờ bản đồ số 8, tọa lạc tại xã H, huyện G,
tỉnh Bến Tre cho ông Hồ Văn T1, bà Phan Thị Ngọc D, bà Nguyễn Thị N và chị
Hồ Thị Như Ý.
Ông Hồ Văn T1, bà Phan Thị Ngọc D, bà Nguyễn Thị N và bà Hồ Thị Như
Ý được tròn quyền quản lý, sử dụng thửa đất số 240a có diện tích qua đo đạc thực
tế là 2.837,9m
2
, tờ bản đồ số 8, tọa lạc tại xã H, huyện G, tỉnh Bến Tre và toàn bộ
tài sản trên thửa đất này.(Có họa đồ kèm theo)
8
2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện bổ sung của ông Hồ Văn M về việc
yêu cầu ông Nguyễn Hồng Q, bà Nguyễn Thị D2 và bà Hồ Thị Như Ý liên đới
bồi thường công sức tôn tạo, giữ gìn đất cho ông.
3. Không chấp nhận yêu cầu phản tố bổ sung của ông Hồ Văn T1 về việc yêu
cầu ông Hồ Văn M và ông Hồ Minh T2 liên đới bồi thường huê lợi trên vườn dừa
từ tháng 01/2007 đến tháng 4/2023 với số tiền là 487.545.000 đồng (bốn trăm tám
mươi bảy triệu năm trăm bốn mươi lăm nghìn đồng).
Ngoài ra, bản án còn tuyên về chi phí tố tụng, án phí và quyền kháng cáo của
các đương sự.
Ngày 14/11/2024 Toà án nhân dân huyện Giồng Trôm nhận được đơn kháng
cáo của bị đơn ông Hồ Văn T1. Nội dung kháng cáo một phần Bản án dân sự sơ
thẩm số 145/2024/DS-ST ngày 17 tháng 9 năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện
Giồng Trôm. Yêu cầu cấp phúc thẩm sửa bản án theo hướng không chấp nhận yêu
cầu của nguyên đơn về việc yêu cầu ông T1, bà D, bà N có nghĩa vụ liên đới bồi
thường chi phí san lấp ½ ao phía trước và trả giá trị tài sản trên thửa đất số 240a
với số tiền là 129.131.000 đồng.
Tại phiên tòa phúc thẩm: Người đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn xác
định nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, không đồng ý với kháng cáo của
ông T1. Ông T1 giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, rút lại phần yêu cầu phản tố bổ
sung về việc yêu cầu ông M và ông T2 liên đới bồi thường huê lợi vườn dừa từ
tháng 01/2007 đến tháng 4/2023 với số tiền 487.545.000 đồng. Người có quyền
lợi nghĩa vụ liên quan ông T2 không đồng ý với kháng của ông T1. Các đương
sự không thỏa thuận được nội dung giải quyết vụ án. Về yêu cầu rút một phần yêu
cầu phản tố của ông T1 thì người đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn, ông T2
yêu cầu Hội đồng xét xử giải quyết theo quy định pháp luật, không đưa ra ý kiến
đồng ý hay không đồng ý.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre tham gia phiên tòa phát ý
kiến:
- Về tố tụng: Những người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng đã
thực hiện các quyền và nghĩa vụ đúng quy định pháp luật tố tụng dân sự.
- Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Toà án áp dụng khoản 2 Điều 308,
Điều 309 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015. Chấp nhận một phần kháng cáo của bị đơn
ông Hồ Văn T1. Sửa Bản án dân sự sơ thẩm số 145/2024/DS-ST ngày 17 tháng 9
năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện Giồng Trôm, án phí vụ án tính lại theo quy
định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
9
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, lời trình bày
của các đương sự, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến đề nghị của
Kiểm sát viên, xét kháng cáo của bị đơn ông Hồ Văn T1; Hội đồng xét xử nhận
định:
Về tố tụng:
[1] Bị đơn bà Nguyễn Thị N được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai
nhưng vẫn không có mặt tại phiên tòa. Do đó, căn cứ vào khoản 3 Điều 296 Bộ
luật Tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt bà N.
[2] Đơn kháng cáo của ông Hồ Văn T1 được làm đúng theo quy định tại Điều
272, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự. Nội dung kháng cáo của bị đơn ông Hồ Văn T1
yêu cầu Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện bổ
sung của nguyên đơn về việc yêu cầu ông T1, bà D, bà N có nghĩa vụ liên đới bồi
thường chi phí san lấp ½ ao phía trước và giá trị tài sản trên thửa đất số 240a với
số tiền là 129.131.000 đồng. Các đương sự khác không kháng cáo. Viện kiểm sát
không kháng nghị. Căn cứ Điều 293 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án cấp phúc
thẩm xem xét trong phạm vi liên quan đến yêu cầu kháng cáo của ông T1.
[3] Tại phiên tòa phúc thẩm, ông T1 có yêu cầu rút lại yêu cầu phản tố bổ
sung về việc yêu cầu ông M và ông T2 liên đới bồi thường số tiền huê lợi vườn
dừa trong thời gian ông M, ông T2 vào quản lý với số tiền là 487.545.000 đồng.
Người đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn và ông T2 yêu cầu Toà giải quyết
theo pháp luật đối với việc rút yêu cầu phản tố này của bị đơn, không đưa ra ý
kiến đồng ý. Căn cứ quy định tại Điều 299 Bộ luật Tố tụng dân sự, Toà án không
đình chỉ phần rút yêu cầu phản tố nói trên của ông T1.
Về nội dung:
[1] Các bên đương sự thống nhất thửa đất tranh chấp có nguồn gốc từ bà
Nguyễn Thị N tặng cho ông Hồ Văn T1, bà Phan Thị Ngọc D. Sau đó, ông Q và
bà D2 có nhận chuyển nhượng thửa đất số 240 từ ông T1, bà D và bà N. Đất tranh
chấp có diện tích 3.055m
2
thuộc thửa đất số 240, tờ bản đồ số 8, tọa lạc tại xã H,
huyện G, tỉnh Bến Tre. Hiện tại thửa đất số 240 được cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất cho hộ gia đình ông Hồ Văn T1. Ông Hồ Văn M và ông Hồ Minh T2
đang quản lý, sử dụng thửa đất trên. Đây là sự kiện, tình tiết không phải chứng
minh theo quy định tại Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.
Các đương sự trong vụ án đều thống nhất nội dung: Ông T1, bà N, bà D có
lập hợp đồng chuyển nhượng thửa đất số 240 cho ông Q, bà D2 dưới hình thức
văn bản “giấy bán đất” đề ngày 15/8/2005 và đã nhận đủ số tiền theo thỏa thuận
10
trong “giấy bán đất” nhưng chưa thực hiện việc giao đất cho ông Q, bà D2. Như
vậy, bên chuyển nhượng đã nhận đủ số tiền theo thoả thuận nhưng bên nhận
chuyển nhượng chưa nhận thửa đất số 240 để quản lý, sử dụng, cũng chưa thực
hiện việc đăng ký quyền sử dụng đất thửa đất số 240 theo quy định của Luật đất
đai. Hiện tại thửa đất số 240 vẫn do hộ gia đình ông Hồ Văn T1 đứng tên giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất. Tuy nhiên, các bên đương sự không yêu cầu giải
quyết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 15/8/2005 nói trên nên
Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết trong vụ án này.
[2] Nguyên đơn ông M cho rằng ông Q, bà D2 đã tặng cho quyền sử dụng
thửa đất số 240 cho ông M sau khi ông Q, bà D2 nhận chuyển nhượng quyền sử
dụng đất từ ông T1, bà D, bà N, việc tặng cho đất chỉ nói miệng không lập thành
văn bản mà không đưa ra được chứng cứ chứng minh cho trình bày của mình,
đồng thời nội dung trình bày này của ông M cũng không được ông Q, bà D2 thừa
nhận. Mặt khác, theo quy định tại Điều 129 Luật đất đai năm 2003: “Văn bản cam
kết tặng cho hoặc hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất của hộ gia đình, cá nhân,
người Việt Nam định cư ở nước ngoài phải có chứng thực của Uỷ ban nhân dân
xã, phường, thị trấn nơi có đất hoặc chứng nhận của công chứng nhà nước”. Vậy
nên, không có căn cứ xác định có việc tặng cho quyền sử dụng đất giữa bà D2,
ông Q cho ông M, thửa đất số 240 vẫn thuộc quyền sử dụng của hộ gia đình ông
Hồ Văn T1.
[3] Xét yêu cầu hoàn trả công sức tôn tạo, bảo quản, giữ gìn tài sản đối với
phần đất có diện tích 1.332m
2
theo hồ sơ đo đạc là thửa đất số 240d thuộc một
phần thửa đất số 240, Hội đồng xét xử thấy rằng:
[3.1] Các đương sự xác định vào khoảng năm 2006 – năm 2007, ông M đã
quản lý, sử dụng thửa đất số 240 cho đến nay. Nguyên đơn cho rằng được ông Q,
bà D2 tặng cho thửa đất 240 nên vào quản lý, sử dụng, tuy nhiên việc tặng cho
quyền sử dụng đất giữa nguyên đơn với ông Q, bà D2 đối với thửa đất 240 không
tồn tại nên việc ông M cùng con ông M là ông T2 quản lý, sử dụng thửa đất số
240 là không hợp pháp. Các bị đơn biết việc ông M vào quản lý, sử dụng thửa đất
trong một khoảng thời gian dài, nhưng cho rằng không liên hệ được ông Q, bà D2
để xác thực việc ông Q, bà D2 có tặng cho đất thửa 240 cho ông M hay không nên
chỉ ngăn cản bằng lời nói, không kiên quyết ngăn cản việc sử dụng đất của ông
M, cũng không có yêu cầu cơ quan có thẩm quyền can ngăn, giải quyết việc ông
M tự ý vào quản lý, sử dụng thửa đất số 240. Ngoài ra, ông M và ông T2 có xác
nhận từ khi vào quản lý, sử dụng thửa đất số 240 có việc đem đất đi bán, đốn bỏ
dừa cũ và có tiến hành bơm cát, trồng dừa mới, xây dựng nhà trên thửa đất, ông
M đã thu huê lợi trên đất từ khi vào sử dụng đất cho đến nay. Như vậy, khi nguyên
đơn vào quản lý, sử dụng thửa đất 240, nguyên đơn có tiến hành cải tạo đất nhưng
11
cũng phá hủy cây trồng, đem đất đi bán mà không có sự đồng ý hoặc ngăn cản
bằng văn bản của chủ sử dụng thửa đất.
[3.2] Các bên đương sự thống nhất hiện trạng thửa đất số 240 trước đây có
01 cái ao ở phía trước thửa đất và hiện nay đã được san lấp ½ diện tích . Ông M
cho rằng ông M là người san lấp từ năm 2013, ông T1 cho rằng do Nhà nước làm
đường nên đổ đất ở hai bên đường và ông M đã dùng số đất này để lấp ao. Xét
thấy, ông T1 không cung cấp được tài liệu, chứng cứ chứng minh cho lời trình
bày. Theo xác nhận của ông Trương Tấn T4 thì ông T4 có bơm cát ½ ao phía
trước cho ông M với khối lượng là 180 khối, giá tiền năm 2013 là 50.000
đồng/khối. Việc quản lý, sử dụng thửa đất của ông M là không hợp pháp nhưng
ông M có công tôn tạo làm tăng giá trị phần ao nên cấp sơ thẩm chấp nhận một
phần yêu cầu hoàn trả công sức tôn tạo, bảo quản, giữ gìn tài sản của nguyên đơn,
buộc ông T1, bà D và bà N phải liên đới trả cho ông M phần tiền san lấp ½ ao với
số tiền là 9.000.000 đồng là phù hợp.
Ông M và ông T2 đang ở tại phần đất khác, việc ông M yêu cầu nhận phần
đất có diện tích 1.332m
2
theo hồ sơ đo đạc là thửa đất số 240d thuộc một phần
thửa đất số 240 là không phù hợp, không có căn cứ pháp luật nên không có cơ sở
chấp nhận.
Về đường đi từ đường công cộng ra đến cuối đất (phía sông) và phần đất
phía sau các đương sự không có yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét giải
quyết.
[4] Đối với cây trồng trên thửa đất tranh chấp:
[4.1] Các đương sự thống nhất: 01 cây dừa từ 01 đến dưới 04 năm nằm trên
thửa đất số 240d; 10 cây dừa dưới 01 năm (trong đó có 05 cây nằm trên thửa đất
số 240d và 05 cây nằm trên nằm trên thửa đất số 240e); 03 cây bưởi da xanh nằm
trên thửa đất số 240d; 03 bụi chuối nằm trên thửa đất số 240e đều là tài sản của
ông M. Theo Biên bản định giá tài sản ngày 29/8/2023 thì 01 cây dừa từ 01 đến
dưới 04 năm có giá trị là 550.000 đồng, 10 cây dừa dưới 01 năm có giá trị là
660.000 đồng, 03 cây bưởi da xanh có giá trị là 4.785.000 đồng, 03 bụi chuối có
giá trị là 165.000 đồng, tổng giá trị là 6.160.000 đồng.
[4.2] Các cây trồng còn lại gồm: 72 cây dừa trên 06 năm, 02 bụi tre (01 bụi
nằm trên thửa đất số 240d và 01 bụi nằm trên thửa đất số 240e), 03 cây cau (01
cây nằm trên thửa đất số 240d và 02 cây nằm trên thửa đất số 240e); 01 cây bưởi
da xanh nằm trên thửa đất số 240e. Ông T1 cho rằng toàn bộ các cây trồng này là
do ông T1 trồng; Ông M cho rằng dừa trên 06 năm có 03 cây là có sẳn trên đất,
69 cây còn lại là do ông M trồng, 02 bụi tre, 01 cây bưởi da xanh ông M thừa nhận
12
những cây này đã có trước khi ông M vào quản lý, sử dụng đất. Xét ý kiến trình
bày của đôi bên thấy rằng:
- Đối với 03 cây cau: Ông T1 không cung cấp được tài liệu, chứng cứ chứng
minh là do ông T1 trồng nên không có căn cứ xác định các cây này là của ông T1.
Theo Biên bản định giá tài sản ngày 29/8/2023 tổng giá trị 03 cây cau này là
121.000 đồng (trong đó 01 cây cau có trái có giá trị là 55.000 đồng và 02 cây cau
chưa trái có giá trị là 66.000 đồng).
- Đối với 69 cây dừa trên 06 năm còn lại: Các đương sự thống nhất từ khi
ông M vào quản lý, sử dụng thửa đất số 240 cho đến nay thì ông M có đốn dừa và
trồng dừa mới. Nguyên đơn cho rằng do dừa bị đốn khá lâu nên một số bị mục
rữa và có bồi lấp đất nên không còn vết tích, việc đốn dừa được ông M thực hiện
02 lần, mỗi lần cách nhau 05 năm. Bị đơn cho rằng các gốc dừa nguyên đơn đốn
bỏ vẫn còn nguyên hiện trạng, những cây dừa còn lại là do bị đơn trồng nên không
có gốc dừa nào bị đốn hay mục rữa như nguyên đơn trình bày. Tại biên bản xem
xét thẩm định tại chỗ ngày 23/01/2025 thể hiện tại vị trí các gốc dừa mà nguyên
đơn trình bày đã được nguyên đơn trồng lại dừa mới sau khi đốn bỏ dừa cũ thì
không có dấu vết thể hiện gốc dừa đã bị đốn bỏ, bị mục rữa, cũng không có vết
tích rễ dừa xung quanh gốc dừa bị mục rữa. Đồng thời, 03 cây dừa do nguyên đơn
xác định là 03 cây dừa có trước khi nguyên đơn vào quản lý, sử dụng đất về kích
thước, chiều cao và hiện trạng phát triển tương đương với những cây dừa còn lại.
Như vậy, lời trình bày của bị đơn phù hợp với chứng cứ được Tòa án thu thập, đủ
cơ sở để xác định 69 cây dừa trên 06 năm là do ông T1 trồng.
Trên cơ sở đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm về phần tài
sản này. Cụ thể, không buộc ông T1, bà D, bà N liên đới hoàn trả giá trị 69 cây
dừa với số tiền là 113.850.000 đồng cho ông M. Cấp sơ thẩm buộc ông T1, bà D,
bà N liên đới hoàn trả giá trị các cây trồng còn lại trên thửa đất tranh chấp gồm
01 cây dừa từ 01 đến dưới 04 năm nằm trên thửa đất số 240d; 10 cây dừa dưới 01
năm (trong đó có 05 cây nằm trên thửa đất số 240d và 05 cây nằm trên nằm trên
thửa đất số 240e); 03 cây bưởi da xanh nằm trên thửa đất số 240d; 03 bụi chuối
nằm trên thửa đất số 240e, 03 cây cau nằm trên thửa đất 240a và giá trị phần san
lấp ½ ao (với tổng số tiền được xác định theo Biên bản định giá tài sản ngày
29/8/2023 là 21.441.000 đồng) là phù hợp nên giữ nguyên phần nội dung này.
[5] Xét yêu cầu phản tố của ông T1 yêu cầu ông M và ông T2 liên đới bồi
thường huê lợi vườn dừa từ tháng 01/2007 đến tháng 4/2023 với số tiền
487.545.000 đồng, thấy rằng: Trong thời gian ông M vào sử dụng đất ông T1
không ngăn cản, cũng không chứng minh được số tiền thu hoạch dừa cụ thể trong
thời gian yêu cầu nên cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu của ông T1 là có căn
cứ, ông T1 cũng không có kháng cáo về phần nội dung này. Việc ông T1 yêu cầu
13
rút lại nội dung phản tố nói trên tại phiên toà phúc thẩm thì nguyên đơn vẫn yêu
cầu Toà giải quyết theo quy định pháp luật, không có ý kiến đồng ý nên Hội đồng
xét xử giữ nguyên quyết định bản án sơ thẩm về phần nội dung này.
[6] Về chi phí tố tụng: Do yêu cầu khởi kiện không được chấp nhận nên ông
Hồ Văn M có nghĩa vụ nộp số tiền chi phí tố tụng là 5.542.000 đồng và đã nộp
xong. Ông Hồ Văn T1 có yêu cầu xem xét, thẩm định tài sản có trên đất tại giai
đoạn phúc thẩm nên có nghĩa vụ nộp số tiền chi phí tố tụng là 400.000 đồng và đã
nộp xong.
[7] Về án phí dân sự sơ thẩm:
Căn cứ vào khoản 4 Điều 26, Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14
ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu
nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, án phí vụ kiện được xác định như
sau:
Do không chấp nhận yêu cầu khởi kiện, yêu cầu khởi kiện bổ sung của ông
M về việc yêu cầu ông Q, bà D2 tiếp tục thực hiện hợp đồng tặng cho quyền sử
dụng đất đối với thửa đất số 240 và yêu cầu ông T1, bà D, bà N, bà Ý sang tên
thửa đất số 240 cho ông M nên ông M phải chịu án phí dân sự sơ thẩm không có
giá ngạch là 300.000 đồng.
Do ông M được chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện bổ sung về việc yêu
cầu bồi thường công sức tôn tạo đất; buộc ông T1, bà D và bà N liên đới bồi
thường cho ông M phần san lấp ½ ao và chi phí hoàn trả giá trị những cây ông M
trồng trên đất nên án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch ông T1, bà D, bà N phải
liên đới nộp là: 5% x (9.000.000 đồng + 12.441.000 đồng) = 1.072.050 đồng.
Do chấp nhận yêu cầu phản tố của ông T1, buộc ông M và ông T2 di dời tài
sản trên thửa đất tranh chấp, trả lại thửa đất số 240 cho hộ ông T1 nên án phí dân
sự sơ thẩm không có giá ngạch là 300.000 đồng ông M và ông T2 có nghĩa vụ liên
đới chịu.
Do không chấp nhận yêu cầu phản tố bổ sung của ông T1 về việc yêu cầu
ông M và ông T2 liên đới bồi thường số tiền là 487.545.000 đồng nên án phí dân
sự sơ thẩm có giá ngạch là 23.501.800 đồng ông T1 phải chịu.
Ông M và bà N thuộc trường hợp người cao tuổi nhưng không có đơn xin
miễn án phí nên không được miễn án phí theo quy định tại khoản 1 Điều 14 Nghị
quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc
hội về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
14
Từ những nhận định trên, kháng cáo của ông T1 là có cơ sở một phần nên
được chấp nhận một phần. Sửa Bản án dân sự sơ thẩm số 145/2024/DS-ST ngày
17 tháng 9 năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện Giồng Trôm.
[8] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre là phù hợp
với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
[9] Án phí phúc thẩm: Do kháng cáo được chấp nhận một phần nên ông Hồ
Văn T1 không phải chịu án phí theo quy định tại Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức
thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 2 Điều 308, Điều 309 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Chấp nhận một phần kháng cáo của bị đơn ông Hồ Văn T1.
Sửa Bản án dân sự sơ thẩm số 145/2024/DS-ST ngày 17 tháng 9 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện Giồng Trôm.
Áp dụng khoản 3 và khoản 9 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a
khoản 1 Điều 39, Điều 92; Điều 147, khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật
Tố tụng dân sự; Các Điều 166, 357, 468, 457, 458, 459, 584, 585, 586 và Điều
589 Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 129 Luật Đất đai năm 2003; Điều 188 Luật
Đất đai năm 2013; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy
ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và
sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Hồ Văn M.
Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của bị đơn ông Hồ Văn T1, cụ thể:
1.1 Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện, yêu cầu khởi kiện bổ sung của ông
Hồ Văn M về việc yêu cầu ông Nguyễn Hồng Q, bà Trần Thị D1 tiếp tục thực
hiện hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 240a có diện tích
qua đo đạc thực tế là 2.837,9m
2
, tờ bản đồ số 8, tọa lạc tại xã H, huyện G, tỉnh
Bến Tre và yêu cầu ông Hồ Văn T1, bà Phan Thị Ngọc D, bà Nguyễn Thị N, bà
Hồ Thị Như Ý sang tên thửa đất số 240a nêu trên cho ông.
1.2 Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện bổ sung của ông Hồ Văn M về
việc yêu cầu các bị đơn liên đới bồi thường công sức tôn tạo thửa đất: Buộc ông
Hồ Văn T1, bà Phan Thị Ngọc D và bà Nguyễn Thị N phải liên đới trả cho ông
Hồ Văn M chi phí san lấp ½ ao phía trước và giá trị tài sản trên thửa đất số 240a
có diện tích qua đo đạc thực tế là 2.837,9m
2
, tờ bản đồ số 8, tọa lạc tại xã H, huyện
15
G, tỉnh Bến Tre (tài sản gồm: 01 (một) cây dừa từ 01 năm đến dưới 04 năm nằm
trên thửa đất số 240d; 10 (mười) cây dừa dưới 01 năm (trong đó có 05 cây nằm
trên thửa đất số 240d và 05 cây nằm trên nằm trên thửa đất số 240e); 03 (ba) cây
bưởi da xanh nằm trên thửa đất số 240d; 03 (ba) bụi chuối nằm trên thửa đất số
240e; 03 (ba) cây cau (01 cây nằm trên thửa đất số 240d và 02 cây nằm trên thửa
đất số 240e) với tổng số tiền là 21.441.000 (Hai mươi mốt triệu bốn trăm bốn
mươi mốt nghìn) đồng.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, ngày có đơn yêu cầu thi hành án
của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi
hành án) cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền hàng tháng bên phải
thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức
lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015.
1.3 Chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Hồ Văn T1 về việc yêu cầu ông Hồ
Văn M và ông Hồ Minh T2 di dời tài sản trên thửa đất số 240a có diện tích qua
đo đạc thực tế là 2.837,9m
2
, tờ bản đồ số 8, tọa lạc tại xã H, huyện G, tỉnh Bến
Tre, trả lại thửa đất này cho hộ gia đình ông T1; Buộc ông Hồ Văn M và ông Hồ
Minh T2 di dời tài sản gồm: 01 (một) nhà nền ximăng, cột bêtông chôn, vách tole
+ gỗ, mái tole tráng kẽm, không trần và 02 (hai) hồ tròn chứa nước, trả lại thửa
đất số 240a có diện tích qua đo đạc thực tế là 2.837,9m
2
, tờ bản đồ số 8, tọa lạc
tại xã H, huyện G, tỉnh Bến Tre cho hộ gia đình ông T1 gồm có ông Hồ Văn T1,
bà Phan Thị Ngọc D, bà Nguyễn Thị N và bà Hồ Thị Như Ý.
Ông Hồ Văn T1, bà Phan Thị Ngọc D, bà Nguyễn Thị N và bà Hồ Thị Như
Ý được toàn quyền quản lý, sử dụng thửa đất số 240a có diện tích qua đo đạc thực
tế là 2.837,9m
2
, tờ bản đồ số 8, tọa lạc tại xã H, huyện G, tỉnh Bến Tre và được
sở hữu toàn bộ cây trồng trên thửa đất này.
(Có họa đồ kèm theo).
2. Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện bổ sung của ông Hồ Văn M
về việc yêu cầu ông Nguyễn Hồng Q, bà Nguyễn Thị D2 và bà Hồ Thị Như Ý
liên đới bồi thường công sức tôn tạo, giữ gìn thửa đất cho ông M.
3. Không chấp nhận yêu cầu phản tố bổ sung của ông Hồ Văn T1 về việc yêu
cầu ông Hồ Văn M và ông Hồ Minh T2 liên đới bồi thường huê lợi trên vườn dừa
từ tháng 01/2007 đến tháng 4/2023 với số tiền là 487.545.000 (Bốn trăm tám mươi
bảy triệu năm trăm bốn mươi lăm nghìn) đồng.
4. Về chi phí tố tụng:
16
Chi phi tố tụng là 5.542.000 (Năm triệu năm trăm bốn mươi hai nghìn) đồng
ông Hồ Văn M phải chịu và đã nộp xong. Ông Hồ Văn T1 phải chịu 400.000 (Bốn
trăm nghìn) đồng và đã nộp xong.
5. Về án phí dân sự sơ thẩm:
5.1. Về án phí dân sự sơ thẩm không có giá ngạch:
Buộc ông Hồ Văn M nộp số tiền 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng; Ông Hồ
Minh T2, ông Hồ Văn M phải liên đới nộp số tiền 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng
tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre.
5.2. Về án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch:
Buộc ông Hồ Văn T1 nộp số tiền 23.501.800 (Hai mươi ba triệu năm trăm lẻ
một nghìn tám trăm) đồng nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là
12.351.000 (Mười hai triệu ba trăm năm mươi mốt nghìn) đồng theo các Biên lai
thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0010999 ngày 03/11/2022, số 0005863 ngày
02/6/2023 và số 0005015 ngày 26/4/2024 của Chi cục thi hành án dân sự huyện
Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre. Ông Hồ Văn T1 phải tiếp tục nộp số tiền là 11.150.800
(Mười một triệu một trăm năm mươi nghìn tám trăm) đồng tại Chi cục Thi hành
án dân sự huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre.
Bà Phan Thị Ngọc D, ông Hồ Văn T1, bà Hồ Thị N2 phải liên đới nộp số
tiền là 1.072.050 (Một triệu không trăm bảy mươi hai nghìn không trăm năm
mươi) đồng tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre.
6. Về án phí dân sự phúc thẩm:
H lại cho ông Hồ Văn T1 số tiền tạm ứng án phí là 300.000 (Ba trăm nghìn)
đồng theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0001796 ngày 01/10/2024
của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án
dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền
thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị
cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành
án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi
hành án dân sự.
7. Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.
17
Nơi nhận:
- TAND huyện Giồng Trôm;
- VKSND tỉnh Bến Tre;
- Chi cục THADS huyện Giồng Trôm ;
- Các đương sự;
- Phòng KTNV&THA TAND tỉnh;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Thị Rẻn
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 21/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 16/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 09/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Bản án số 13/2025/DS-PT ngày 07/01/2025 của TAND tỉnh Cà Mau về tranh chấp hợp đồng tặng cho tài sản
Ban hành: 07/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 06/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 26/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 20/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 18/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 11/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Bản án số 460/2024/DSPT ngày 28/11/2024 của TAND tỉnh Cà Mau về tranh chấp hợp đồng tặng cho tài sản
Ban hành: 28/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 19/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 14/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 16/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 28/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 20/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm