Bản án số 616/2024/DS-PT ngày 12/12/2024 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp hợp đồng tặng cho tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 616/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 616/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 616/2024/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 616/2024/DS-PT ngày 12/12/2024 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp hợp đồng tặng cho tài sản |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng tặng cho tài sản |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Bình Dương |
Số hiệu: | 616/2024/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 12/12/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Giữ nguyên bản sơ thẩm |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH BÌNH DƯƠNG
Bản án số: 616/2024/DS-PT
Ngày 12-12-2024
V/v Tranh chấp hợp đồng tặng
cho quyền sử dụng đất
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH DƯƠNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:
Các Thẩm phán:
Bà Huỳnh Thị Thanh Tuyền.
Ông Nguyễn Văn Thanh;
Ông Nguyễn Thanh Tùng.
- Thư ký phiên tòa: Bà Lê Thị Thanh - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh Bình
Dương.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương tham gia phiên tòa:
Bà Trần Thị Phước – Kiểm sát viên.
Ngày 12 tháng 12 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương
xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 454/2024/TLPT-DS ngày 15
tháng 10 năm 2024 về việc “Tranh chấp hợp tặng cho quyền sử dụng đất”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 81/2024/DS-ST ngày 08 tháng 7 năm 2024
của Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Bình Dương bị kháng cáo.
Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 420/2024/QĐ-PT ngày
28 tháng 10 năm 2024; Quyết định hoãn phiên tòa phúc thẩm số 490/2024/QĐ-
PT ngày 07 tháng 11 năm 2024 và quyết định hoãn phiên tòa phúc thẩm số
546/2024/QĐ-PT ngày 28 tháng 11 năm 2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Phạm Văn Đ, sinh năm 1959; địa chỉ: tổ A, Khu phố
C, phường H, thành phố T, tỉnh Bình Dương; có mặt.
- Bị đơn: Ông Phạm Văn H, sinh năm 1987; địa chỉ: tổ A, Khu phố C,
phường H, thành phố T, tỉnh Bình Dương; có mặt.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1959; có đơn xin giải quyết vắng mặt.
2. Bà Lưu Thị Tuyết M, sinh năm 1990; có mặt.
3. Cháu Phạm Thanh B, sinh năm 2012;
4. Cháu Phạm Thị Hồng N, sinh năm 2015;
5. Cháu Phạm Bình A, sinh năm 2020;
Cùng địa chỉ: tổ A, Khu phố C, phường H, thành phố T, tỉnh Bình Dương.
Người đại diện hợp pháp của các cháu Phạm Thanh B, Phạm Thị Hồng N
và Phạm Bình A: Ông Phạm Văn H, sinh năm 1987 và bà Lưu Thị Tuyết M,
sinh năm 1990; địa chỉ: tổ A, khu phố C, phường H, thành phố T, tỉnh Bình
Dương, là người đại diện theo pháp luật; có mặt.
7. Văn phòng C; địa chỉ: đường Đ, khu phố C, phường H, thành phố T,
tỉnh Bình Dương. Người đại diện hợp pháp: Ông Phạm Văn T1 - Trưởng Văn
phòng, là người đại diện theo pháp luật; có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt.
- Người kháng cáo: Nguyên đơn ông Phạm Văn Đ.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
1. Theo đơn khởi kiện, quá trình tố tụng nguyên đơn ông Phạm Văn Đ
trình bày:
Ông Phạm Văn Đ và bà Nguyễn Thị T trước đây có quan hệ là vợ chồng,
quá trình chung sống có tạo lập được tài sản chung là thửa đất số 510, tờ bản đồ
số 7, toạ lạc tại phường H, thành phố T, tỉnh Bình Dương, được Ủy ban nhân
dân huyện (nay là thành phố) Tân Uyên cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
số AK537340 vào ngày 03/8/2007. Đến năm 2008, vợ chồng xây dựng 01 căn
nhà cấp bốn để sinh sống, sống chung với vợ chồng ông Đ còn có gia đình con
trai là Phạm Văn H, vợ Lưu Thị Tuyết M cùng các cháu.
Vào năm 2021, do ông H cần vốn để kinh doanh nên đã nhờ ông Đ và vợ là bà
Nguyễn Thị T thế chấp tài sản để vay vốn ngân hàng giúp ông H. Do vợ chồng
ông Đ cũng đã lớn tuổi, không tiện đi vay giúp ông H nên ông H đã đề nghị vợ
chồng ông Đ sang tên cho ông H phần đất có diện tích 530,9m
2
thuộc thửa đất
số 510, tờ bản đồ số 7 tọa lạc tại phường H, thành phố T, tỉnh Bình Dương để
ông Hòa thuận T2 thực hiện thủ tục vay vốn. Do là người thân trong gia đình
nên vợ chồng ông Đ đã đồng ý.
Ngày 01/6/2021, vợ chồng ông Đ đã đến Văn phòng C ký hợp đồng tặng
cho quyền sử dụng đất có diện tích 530,9m
2
thuộc thửa đất số 510, tờ bản đồ số
7 nêu trên cho ông H. Hợp đồng tặng cho được Văn phòng C công chứng có số
công chứng 3297, quyển số 01/2021 TP/CC. Theo đó, vợ chồng ông Đ đã thực
hiện thủ tục tặng cho ông Phạm Văn H phần đất nêu trên nhưng thực chất việc
tặng cho này chỉ là vợ chồng ông Đ cho ông H diện tích đất trống với chiều
ngang là 4,6m, phần diện tích còn lại có chiều ngang đất 5,4m thì ông Đ chỉ cho
ông H mượn để tiện cho việc thực hiện thủ tục vay vốn ngân hàng để hỗ trợ ông
H làm ăn. Trên thửa đất 510 nêu trên, vào thời điểm ký hợp đồng tặng cho có
tồn tại căn nhà cấp 04 diện tích khoảng 400m
2
do vợ chồng ông Đ xây dựng
năm 2008. Sau khi ký hợp đồng tặng cho, vợ chồng ông Đ vẫn tiếp tục sinh
sống tại căn nhà trên đất cho đến nay, cùng vợ chồng ông H, hai bên không lập
biên bản nào khác về tài sản trên đất.
Thời gian gần đây, giữa ông Đ và ông H phát sinh mâu thuẫn với nhau.
Nguyên nhân chủ yếu là ông H không tôn trọng ông Đ, có những lời lẽ xúc
phạm ông Đ. Thậm chí còn muốn đuổi ông Đ ra khỏi nhà. Nhận thấy, hành vi
của ông H không tôn trọng đấng sinh thành, trái với luân thường đạo lý là vi
phạm pháp luật, ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của ông
Đ. Vì vậy, ông Đ khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết các yêu cầu sau:
+ Tuyên vô hiệu hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất ngày 01/6/2021
giữa ông Phạm Văn Đ, bà Nguyễn Thị T và ông Phạm Văn H, do Văn phòng C
công chứng số 01/2021 TP/CC-SCC/HĐGD;
+ Kiến nghị Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B thu hồi Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số
DC671118, số vào sổ cấp GCN: CS11733 đã cấp cho ông Phạm Văn H vào
ngày 21/6/2021.
Vào tháng 12/2022, ông Đ và bà T ly hôn. Đối với việc ông H hứa sẽ chu
cấp cho ông Đ và bà T mỗi năm 100.000.000 đồng, thời hạn 15 năm, ông Đ
khẳng định không phải là chu cấp mà trả cho vợ chồng ông Đ mỗi năm
100.000.000 đồng tương đương với giá trị đất trong thời gian 15 năm. Tuy nhiên,
đến nay ông Đ chỉ mới nhận được tiền của năm 2021, còn năm 2022 trở đi ông
Đ không nhận được tiền, việc giao nhận tiền cho bà T thì ông Đ không biết.
Năm 2023, ông Đ và bà T đã ly hôn. Trường hợp ông H muốn được nhận luôn
nhà và đất nêu trên thì ông H phải giao cho ông Đ số tiền ông H hứa trả hằng
năm là 700.000.000 đồng và giá trị căn nhà cấp 04 là 350.000.000 đồng, tổng
cộng là 1.050.000.000 đồng. Ông Đ sẽ đồng ý ra khỏi căn nhà, giao nhà, đất cho
ông H, kết thúc việc kiện tụng. Nếu không đồng ý thì ông Đ đề nghị giải quyết
theo quy định của pháp luật đối với các yêu cầu khởi kiện mà ông Đ đã yêu cầu.
2. Bị đơn ông Phạm Văn H trình bày:
Ông Phạm Văn H là con trai của ông Phạm Văn Đ và bà Nguyễn Thị T.
Vào ngày 01/6/2021, ông Đ, bà T đã tặng cho phần đất có diện tích 530,9m
2
,
thuộc thửa đất số 510, tờ bản đồ số 7, tọa lạc tại phường H, thành phố T, tỉnh
Bình Dương cho ông H. Để thực hiện thủ tục tặng cho phần đất này, ông Đ và
bà T đã cùng với ông H tiến hành ký hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất. Tại
thời điểm ký hợp đồng, mọi người đều đủ năng lực hành vi dân sự, tinh thần tỉnh
táo, tự nguyện, không bị ai lừa dối và không bị bất cứ ai ép buộc. Trước khi ký
tên và điểm chỉ vào hợp đồng, các bên đã đọc lại đầy đủ thông tin, nội dung của
hợp đồng. Hợp đồng tặng quyền sử dụng đất đã được công chứng tại Văn phòng
C theo số công chứng 3297, quyển số 01/2021 TP/CC-SCC/HNGD theo đúng
quy định của pháp luật. Việc tặng cho phần đất này là tự nguyện và không có
bất cứ yêu cầu ràng buộc gì trong bản hợp đồng. Sau khi được tặng cho, ông H
đã làm đúng theo quy định của pháp luật về việc sang tên phần đất này. Đồng
thời, ông H đã tiến hành sửa chữa lại một phần căn nhà, cổng và mái che của
nhà kho phía sau. Hiện tại, ông H là chủ sử dụng hợp pháp của phần đất này và
đã được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất. Phần đất và tài sản trên đất hiện nay ông H đã thế chấp tại Ngân hàng
Q – Chi nhánh S.
Đến nay, ông Đ lại khởi kiện ra Tòa án để yêu cầu tuyên vô hiệu hợp
đồng tặng cho quyền sử dụng đất; kiến nghị thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất đã cấp cho ông H là vô cùng không hợp lý. Ông Đ cho rằng chỉ cho
ông H mượn một phần đất là không đúng. Trong hợp đồng tặng cho ông H thì
không có ghi bất cứ điều kiện gì về việc tặng cho phần đất này. Về phương diện
đạo đức, ông H không làm gì sai trái. Những việc làm sai trái của ông Đ trước
đây ông H đã nhiều lần trình bày, vì không thể sống chung được với ông Đ nên
mẹ là bà T đã quyết định ly hôn với ông Đ để tuổi già được yên bình, không bị
ông Đ hành hạ, đánh đập. Sau đó, bà T đã được Toà án giải quyết cho ly hôn.
Ông H xác định thời điểm ký hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất cho
ông H thì ông H có nói sẽ chu cấp cho ông Đ và bà T mỗi năm số tiền
100.000.000 đồng, thời hạn 15 năm. Sau đó, hằng năm từ năm 2021, 2022, 2023
bà M (vợ ông H) đã đưa cho bà T mỗi năm 100.000.000 đồng (đều có ký nhận
đầy đủ). Riêng năm 2024 là chưa đưa. Từ những nội dung trên đây, ông H yêu
cầu Tòa án bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là ông Phạm Văn Đ.
Nay ông Đ có ý kiến là yêu cầu ông H phải giao cho ông Đ số tiền hứa trả hằng
năm với số tiền cụ thể là 700.000.000 đồng và giá trị căn nhà là 350.000.000
đồng, tổng cộng 1.050.000.000 đồng thì ông H không đồng ý vì ông H hiện giờ
hoàn cảnh cũng rất khó khăn không có đủ khả năng để giao một lúc số tiền trên
cho ông Đ, ông H sẽ thực hiện đúng lời hứa và thực hiện theo hằng năm. Mỗi
năm đưa 100.000.000 đồng cho ông Đ, bà T.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị T trình bày:
Bà Nguyễn Thị T và ông Phạm Văn Đ kết hôn từ năm 1978 và đã được
giải quyết ly hôn theo Bản án hôn nhân và gia đình số 103/2022/HNGĐ-ST
ngày 07/12/2022 của Tòa án nhân dân thị xã (nay là thành phố ), tỉnh Bình
Dương. Quá trình chung sống, bà T và ông Đ đã tạo lập được một số tài sản
trong đó có quyền sử dụng đất có diện tích 530,9m
2
thuộc thửa đất số 510, tờ
bản đồ số 7 tại phường H, thành phố T. Ngày 01/6/2021, bà T và ông Đ đã đến
Văn phòng C ký hợp đồng tặng cho phần đất nêu trên cho ông Phạm Văn H,
được công chứng số 3297, quyển số 01/2021 TP/CC. Bà T xác định việc tặng
cho quyền sử dụng đất nêu trên là hoàn toàn tự nguyện, không bị ép buộc nên có
hiệu lực pháp luật. Việc ông Đ cho rằng chỉ cho ông H mượn tài sản để thế chấp
Ngân hàng là không đúng. Tại thời điểm ký hợp đồng tặng cho đất thì ông H có
nói sẽ chu cấp cho ông Đ và bà T mỗi năm 100.000.000 đồng, thời hạn 15 năm.
Sau đó, hằng năm từ năm 2021, 2022, 2023 con dâu là bà M đã đưa cho bà T
mỗi năm 100.000.000 đồng (đều có ký nhận đầy đủ). Riêng năm 2024 là chưa
đưa. Khi nhận tiền thì bà T đều báo cho ông Đ biết sự việc này. Mặc dù vợ
chồng đã ly hôn nhưng cho đến nay thì bà T, ông Đ vẫn sống chung với nhau, ăn
uống chung. Chi phí sinh hoạt đều do bà T chi trả. Do đó, bà T thống nhất ý kiến
của ông H, không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của ông Đ.
4.Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Lưu Thị Tuyết M trình
Bày:
Bà M thống nhất với ý kiến của ông H, bà T, không có ý kiến gì khác.
5. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cháu B, N, A, do người đại diện
hợp pháp ông H và bà M trình bày:
Thống nhất với ý kiến của ông H, bà M, không có ý kiến gì khác.
6. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Văn phòng C trình bày:
Đối với hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất số 3297 chứng nhận ngày
01/6/2021 giữa bên tặng cho là ông Phạm Văn Đ cùng vợ là bà Nguyễn Thị T và
bên được tặng cho là ông Phạm Văn H. Vào ngày 01/6/2021, Công chứng viên
Phạm Văn T1 là Trưởng Văn phòng có tiếp nhận hồ sơ công chứng hợp đồng
tặng cho quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 510, tờ bản đồ số 7, diện tích
530,9m
2
, tọa lạc tại Hội N, T, Bình Dương theo yêu cầu của ông Phạm Văn Đ,
bà Nguyễn Thị T và ông Phạm Văn H. Sau khi yêu cầu các đương sự cung cấp
đầy đủ các giấy tờ theo đúng quy định của pháp luật, căn cứ theo yêu cầu của
từng người tham gia giao dịch công chứng viên tiến hành làm thủ tục công
chứng hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất đối với thửa đất nêu trên, cụ thể
như sau:
Ông Phạm Văn Đ cùng vợ là bà Nguyễn Thị T đã đồng ý tặng cho ông
Phạm Văn H toàn bộ quyền sử dụng đất do ông Phạm Văn Đ cùng vợ là bà
Nguyễn Thị T đứng tên trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AK 537340,
số vào sổ H 01784 do Ủy ban nhân dân huyện T, tỉnh Bình Dương cấp ngày
03/8/2007. Ông Phạm Văn Đ, bà Nguyễn Thị T và ông Phạm Văn H đã tự
nguyện lập văn bản, tại thời điểm công chứng, các ông bà có năng lực hành vi
dân sự theo quy định của pháp luật, mục đích, nội dung văn bản công chứng
không vi phạm pháp luật, không trái đạo đức xã hội và các ông bà tham gia giao
dịch này đã đọc hiểu và đồng ý ký tên, điểm chỉ lên trên văn bản trước sự chứng
kiến của công chứng viên. Do đó, yêu cầu khởi kiện của ông Đ về việc yêu cầu
tuyên vô hiệu hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất số 3297, quyển số
01/2021TP/CC-SCC/HĐGD do Văn phòng C, tỉnh Bình Dương chứng nhận
ngày 01/6/2021 là không có căn cứ.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 32/2023/DS-ST ngày 10/5/2023, Tòa án
nhân dân thành phố T đã quyết định:
Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Phạm Văn Đ đối
với bị đơn ông Phạm Văn H về việc yêu cầu tuyên vô hiệu hợp đồng tặng cho
quyền sử dụng đất ngày 01/6/2021 giữa ông Phạm Văn Đ, bà Nguyễn Thị T và
ông Phạm Văn H, do Văn phòng C công chứng số 01/2021 TP/CC-SCC/HĐGD;
kiến nghị thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho ông Phạm Văn H.
Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 448/2023/DS-PT ngày 30/9/2023, Toà án
nhân dân tỉnh Bình Dương đã quyết định:
1. Chấp nhận một phần kháng cáo của nguyên đơn ông Phạm Văn Đ.
2. Huỷ Bản án dân sự sơ thẩm số 32/2023/DS-ST ngày 10/5/2023 của Tòa
án nhân dân thành phố T, tỉnh Bình Dương, chuyển hồ sơ vụ án về cho Tòa án
nhân dân thành phố T giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm với lý do: Toà án cấp
sơ thẩm có những vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, chưa điều tra, thu thập
đầy đủ chứng cứ, tuyên không đúng đối tượng khởi kiện.
- Tại phiên tòa sơ thẩm:
Nguyên đơn ông Phạm Văn Đ trình bày: Nguyên đơn yêu cầu bị đơn trả
lại phần đất mà nguyên đơn không tặng cho bị đơn, cụ thể là nguyên đơn chỉ
tặng cho bị đơn phần đất chiều rộng 4,6m là đất trống, còn phần đất có nhà có
chiều rộng 5,4m thì nguyên đơn chỉ cho mượn. Phần đất này nằm toàn bộ trong
quy hoạch, đến ngày 30/7/2024 thì sẽ họp dân để thoả thuận phương án bồi
thường. Do đó, yêu cầu bị đơn trả lại phần đất này để sau này khi Nhà nước thu
hồi được bao nhiêu tiền thì nguyên đơn sẽ lấy. Nguyên đơn không đồng ý với
phương án lấy tiền 01 lần như đã nêu trong quá trình giải quyết vụ án. Nguyên
đơn thừa nhận hiện nay nguyên đơn, bị đơn và bà T vẫn đang sống chung nhà,
ăn uống chung với nhau.
Bị đơn ông Phạm Văn H trình bày: Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện
của nguyên đơn. Nguyên đơn khởi kiện là không có căn cứ, vì chính nguyên đơn
là người chủ động tặng cho bị đơn phần đất này, chính nguyên đơn là người đi
đến các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền làm các thủ tục xin cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất cho bị đơn. Sau khi được cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất thì bị đơn mới đi làm thủ tục thế chấp tại Ngân hàng để vay tiền. Bị
đơn xác nhận tặng cho thì chỉ tặng cho đất, không tặng cho nhà, hiện nay
nguyên đơn, bị đơn và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vẫn đang
sống chung với nhau tại căn nhà này. Nếu nguyên đơn muốn nhận 01 lần số tiền
bị đơn hứa trả hằng năm thì bị đơn đồng ý trả cho nguyên đơn trong các năm
còn lại từ năm 2024-2035 và 1/3 giá trị căn nhà, xưởng, vì căn nhà và nhà
xưởng hiện nay có công sức đóng góp của bị đơn nhiều trong việc cải tạo, sửa
chữa.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà T trình bày: Việc tặng cho bị
đơn quyền sử dụng đất tranh chấp là tự nguyện và sự việc có thật. Hằng năm bà
T là người nhận tiền của con dâu đưa, năm 2024 đã nhận thêm 50.000.000 đồng.
Hiện nay, bà T, ông Đ già cả không có công việc, không có thu nhập sống dựa
vào con cái, tiền con cái đưa. Hai ông, bà mặc dù đã ly hôn nhưng vẫn sống
chung, ăn uống, chi tiêu sinh hoạt chung, trong đó bà T là người chi trả các
khoản tiền cũng như chi phí sinh hoạt, mỗi lần nhận tiền từ con dâu đều thông
báo cho ông Đ. Việc bà T ký nhận tiền thì từ năm 2021 cho đến nay đều như
vậy, không riêng con trai là ông Đ mà anh của Đ là ông H1 cũng vậy, hằng năm
vợ chồng ông H1 cũng giao cho ông bà 100.000.000 đồng, bà T cũng là người
ký nhận tiền.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 81/2024/DS-ST ngày 08 tháng 7 năm 2024
của Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Bình Dương đã quyết định:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Phạm Văn Đ
đối với bị đơn ông Phạm Văn H về việc:
+ Tuyên vô hiệu hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất ngày 01/6/2021
giữa ông Phạm Văn Đ, bà Nguyễn Thị T và ông Phạm Văn H, do Văn phòng C,
quyển số 01/2021 TP/CC-SCC/HĐGD;
+ Kiến nghị Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B thu hồi Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số
DC671118, số vào sổ cấp GCN: CS11733 đã cấp cho ông Phạm Văn H vào
ngày 21/6/2021.
2. Về chi phí tố tụng: Ông Phạm Văn Đ phải chịu số tiền 9.813.636 đồng
(chín triệu tám trăm mười ba nghìn sáu trăm ba mươi sáu đồng) chi phí xem xét,
thẩm định tại chỗ, đo đạc, định giá tài sản, ông Đ đã thi hành xong.
3. Về án phí sơ thẩm: Ông Phạm Văn Đ được miễn án phí.
Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về quyền kháng cáo của các đương sự.
Sau khi có Bản án sơ thẩm, ngày 23/7/2024 nguyên đơn ông Phạm Văn Đ
có đơn kháng cáo toàn bộ Bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện
và yêu cầu kháng cáo. Bị đơn đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên bản án sơ
thẩm. Các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương phát biểu quan điểm:
- Về tố tụng: Những người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng đã
thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Tòa án cấp sơ thẩm đã khắc
phục những thiếu sót của lần xét xử trước. Ngày 25/6/2024, Ngân hàng Thương
mại Cổ phần Q xác định tài sản thế chấp đã giải chấp cho khách hàng và đề nghị
không đưa vào tham gia tố tụng trong vụ án. Do đó, quyền lợi ích hợp pháp của
Ngân hàng Q không bị ảnh hưởng nữa nên không cần thiết đưa Ngân hàng
Thương mại Cổ phần Q tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan.
- Về nội dung: Theo nội dung Hợp đồng tặng cho ngày 01/6/2021 thể hiện
ông Phạm Văn Đ, bà Nguyễn Thị T và ông Phạm Văn H đã tự nguyện lập văn
bản, tại thời điểm công chứng, ông Đ, bà T và ông H có năng lực hành vi dân sự
theo quy định của pháp luật, mục đích, nội dung văn bản công chứng không vi
phạm pháp luật, không trái đạo đức xã hội. Ông Đ, bà T và ông H đã đọc hiểu và
đồng ý ký tên, điểm chỉ trên hợp đồng trước sự chứng kiến của công chứng viên.
Hợp đồng tặng cho đã được công chứng theo đúng quy định pháp luật. Sau khi
được tặng cho, ông H đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số
DC671118 ngày 21/6/2021. Mặc dù Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất ngày
01/6/2021 không ghi điều kiện tặng cho nhưng tại phiên toà phúc thẩm, biên bản
hoà giải, biên bản làm việc thể hiện các bên đã có thỏa thuận, thống nhất về điều
kiện tặng cho là ông H sẽ trả cho ông Đ và bà T 100.000.000 đồng/năm, thời hạn
15 năm. Do đó, có căn cứ xác định hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất trên là
hợp đồng tặng cho tài sản có điều kiện. Các bên đương sự chỉ thoả thuận trả cho
ông Đ và bà T mỗi năm 100.000.000 đồng mà không thỏa thuận rõ là giao nhận
chung hay riêng cho từng người. Theo các giấy nhận tiền từ năm 2021 đến năm
2024 thể hiện: bà T đều là người trực tiếp nhận tiền, mặc dù năm 2021 ông Đ
thừa nhận đã nhận tiền nhưng cũng chỉ có một mình bà T ký. Do đó, việc bị đơn
đã thanh toán tiền hàng năm cho cha mẹ là có thật nên không có căn cứ cho rằng
bị đơn ông H vi phạm điều kiện hợp đồng. Ông Đ cho rằng chỉ tặng cho ông H
diện tích đất trống với chiều ngang là 4,6m, còn phần diện tích còn lại có chiều
ngang đất 5,4m thì chỉ cho ông H mượn để thực hiện thủ tục vay vốn ngân hàng
nhưng không có chứng cứ chứng minh. Hơn nữa, tại phiên toà phúc thẩm, ông Đ
thừa nhận hợp đồng tặng cho nêu trên là hợp đồng tặng cho có điều kiện, cụ thể
ông H sẽ trả cho ông Đ và bà T mỗi năm 100.000.000 đồng, thời hạn 15 năm. Sự
thừa nhận này phù hợp với lời trình bày của các đương sự tại Biên bản hoà giải
và biên bản ghi nhận ý kiến vào ngày 04/5/2024 và các giấy nhận tiền. Do đó,
yêu cầu khởi kiện của ông Đ về việc tuyên Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng
đất ngày 01/6/2021 giữa ông Phạm Văn Đ, bà Nguyễn Thị T và ông Phạm Văn
H tại Văn phòng C vô hiệu; kiến nghị thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất cấp cho ông H là không có căn cứ chấp nhận.
Ông Đ thừa nhận chỉ mới nhận được tiền của năm 2021, còn năm 2022 trở
đi không nhận được tiền, việc giao nhận tiền cho bà T ông Đ không biết. Tuy
nhiên, bà T xác nhận từ năm 2021 đến năm 2023, bà M (vợ ông H) có giao cho
bà T 100.000.000 đồng/năm và năm 2024 đã giao 50.000.000 đồng. Mỗi lần
nhận tiền, bà T đều báo cho ông Đ biết. Ông Đ và bà T sống chung với nhau, chi
tiêu, sinh hoạt trong nhà đều do bà T chi từ nguồn tiền nhận của các con. Năm
2023, ông Đ và bà T đã ly hôn. Tuy nhiên, tại phiên toà sơ thẩm lần 02, các
đương sự đều thừa nhận, cho đến thời điểm mở phiên toà sơ thẩm, ông Đ và bà
T vẫn sống chung với nhau, chi tiêu, sinh hoạt trong nhà đều do nguồn tiền từ bà
T chi. Ngoài ra, đối với người con trai lớn cũng tương tự như bị đơn là mỗi năm
đều giao cho cha mẹ là ông Đ, bà T 100.000.000 đồng. Bà T là người trực tiếp
nhận tiền. Do đó, ông Đ cho rằng không biết và không chấp nhận đã nhận tiền là
không có căn cứ. Số tiền 100.000.000 đồng hàng năm do bà T nhận xuất phát từ
điều kiện của hợp đồng tặng cho đối với quyền sử dụng đất là tài sản chung của
ông Đ, bà T. Do đó, trường hợp ông Đ cho rằng bà T nhận nhưng không giao lại
cho ông Đ thì ông Đ được quyền khởi kiện bà T bằng một vụ án khác.
Từ những phân tích trên, nhận thấy: Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết vụ án
phù hợp quy định của pháp luật nên không có cơ sở chấp nhận kháng cáo của
nguyên đơn. Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự, đề nghị Hội
đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn, giữ nguyên quyết định
của bản án sơ thẩm.
Sau khi nghiên cứu các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được
thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, lời trình bày
của các đương sự, ý kiến của Kiểm sát viên.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị T và người
đại diện hợp pháp của Văn phòng C đều có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt. Vì
vậy, căn cứ Điều 296 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét
xử vắng mặt các đương sự có tên trên.
[1.2] Quá trình giải quyết vụ án, Ngân hàng Thương mại Cổ phần Q1
được xác định với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án
do phần đất tranh chấp đã được ông H thế chấp cho Ngân hàng để vay tiền.
Ngày 25/6/2024, Tòa án cấp sơ thẩm có nhận được văn bản của Ngân hàng
Thương mại Cổ phần Q có nội dung: “Thửa đất số 510, tờ bản đồ số 7 tại
phường H, thành phố T đã giải chấp cho khách hàng” đồng thời, Ngân hàng đề
nghị không đưa Ngân hàng vào tham gia tố tụng trong vụ án. Xét thấy, quyền và
lợi ích hợp pháp của Ngân hàng Thương mại Cổ phần Q không bị ảnh hưởng
nữa nên Tòa án cấp sơ thẩm không đưa Ngân hàng Thương mại Cổ phần Q tham
gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án là phù
hợp.
[2] Về nội dung:
[2.1] Xét hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất đã ký ngày 01/6/2021
giữa ông Phạm Văn Đ, bà Nguyễn Thị T và ông Phạm Văn H, được Văn phòng
C công chứng số 01/2021 TP/CC-SCC/HĐGD: Xét thấy, Hợp đồng này đã được
các bên tự nguyện lập tại Văn phòng công chứng, tại thời điểm công chứng, ông
Đ, bà T và ông H đều có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, hình thức và nội dung
của hợp đồng phù hợp với quy định của pháp luật, không vi phạm điều cấm của
pháp luật và không trái đạo đức xã hội. Ông Đ, bà T và ông H đã đọc hiểu và ký
tên, điểm chỉ trên hợp đồng trước sự chứng kiến của công chứng viên, hợp đồng
đã được công chứng theo đúng quy định của pháp luật, ông H đã được cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số DC671118, số vào sổ cấp GCN: CS11733
ngày 21/6/2021 nên hợp đồng đã hoàn tất và phát sinh hiệu lực theo quy định tại
các Điều 500, 501, 502 và Điều 503 của Bộ L; các Điều 166, 167 và Điều 168
của Luật Đất đai. Mặc dù hợp đồng trên không ghi điều kiện tặng cho nhưng tại
phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm, nguyên đơn, bị đơn và người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan đều thừa nhận hợp đồng tặng cho nêu trên là hợp đồng tặng
cho có điều kiện, cụ thể ông H sẽ trả cho ông Đ và bà T mỗi năm 100.000.000
đồng, thời hạn 15 năm. Điều này phù hợp với lời trình bày của nguyên đơn, bị
đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan tại biên bản hoà giải, Biên bản ghi
nhận ý kiến vào ngày 04/5/2024 và các giấy nhận tiền. Do đó, việc nguyên đơn
cho rằng chỉ tặng cho ông H diện tích đất trống với chiều ngang là 4,6m; phần
diện tích còn lại có chiều ngang đất 5,4m thì chỉ cho ông H mượn để thực hiện
thủ tục vay vốn ngân hàng là không có căn cứ chấp nhận.
[2.2] Xét thấy, điều kiện tặng cho do các bên thỏa thuận miệng là hợp
pháp. Do đó, có căn cứ xác định hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất trên là
hợp đồng tặng cho tài sản có điều kiện. Ông Đ thừa nhận chỉ mới nhận được tiền
của năm 2021, còn năm 2022 trở đi không nhận được số tiền nào, việc giao nhận
tiền cho bà T ông Đ không biết. Năm 2023, ông Đ và bà T đã ly hôn. Bà T trình
bày hằng năm từ năm 2021, 2022, 2023 con dâu là bà M đã đưa cho bà T mỗi
năm 100.000.000 đồng, năm 2024 đã đưa 50.000.000 đồng, mỗi lần nhận tiền bà
T đều báo cho ông Đ biết. Hơn nữa, cho đến thời điểm hiện nay mặc dù đã ly
hôn nhưng ông Đ và bà T đều sống chung với nhau, chi tiêu, sinh hoạt trong nhà
đều do nguồn tiền từ bà T chi. Xét thấy, các bên đương sự chỉ thỏa thuận miệng
trả cho ông Đ và bà T mỗi năm 100.000.000 đồng mà không nói rõ là đưa chung
hay đưa riêng cho từng người. Theo các giấy nhận tiền thể hiện từ năm 2021-
2024 bà T đều là người trực tiếp nhận tiền, mặc dù năm 2021 ông Đ thừa nhận
đã nhận tiền nhưng cũng chỉ có một mình bà T ký. Do đó, việc bị đơn đã thanh
toán tiền hằng năm cho cha mẹ là có thật nên nguyên đơn cho rằng bị đơn ông H
vi phạm điều kiện hợp đồng tặng cho là không có căn cứ.
[2.3] Tại phiên tòa, các đương sự đều thừa nhận, cho đến thời điểm mở
phiên toà mặc dù đã ly hôn nhưng ông Đ và bà T đều sống chung với nhau, chi
tiêu, sinh hoạt trong nhà đều do từ nguồn tiền bà T chi. Ngoài ra, đối với người
con trai lớn cũng tương tự như bị đơn là mỗi năm đều đưa cho cha mẹ là ông Đ,
bà T 100.000.000 đồng. Bà T cũng là người trực tiếp nhận tiền. Do đó, ông Đ
cho rằng không biết và không xác định chưa nhận tiền là không có căn cứ chấp
nhận. Số tiền 100.000.000 đồng hàng năm nhận xuất phát từ điều kiện của hợp
đồng tặng cho đối với quyền sử dụng đất là tài sản chung của ông Đ, bà T,
trường hợp ông Đ cho rằng bà T nhận nhưng không đưa lại cho ông Đ phần của
ông Đ thì ông Đ được quyền khởi kiện bà T bằng một vụ án khác.
[2.4] Đối với tài sản trên đất gồm 01 căn nhà trệt; 01 nhà kho. Quá trình tố
tụng, các đương sự đều thống nhất ngoài việc ký hợp đồng tặng cho quyền sử
dụng đất thì các bên không có ký thêm bất kì hợp đồng hay thỏa thuận nào khác
về căn nhà, không có sự việc tặng cho nhà và hiện nay tất cả các đương sự đều
đang ở trong căn nhà đó. Căn nhà chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu
nhà ở và các công trình khác, không được công nhận quyền sở hữu nhà trong
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, khi đi kê khai đăng ký chỉ đăng ký quyền
sử dụng đất. Do đó, có căn cứ xác định tài sản trên đất không được tặng cho
cùng với quyền sử dụng đất. Ngoài ra, hiện nay các đương sự đang sinh sống tại
đây và không có yêu cầu giải quyết, do đó Tòa án cấp sơ thẩm không xem xét
giải quyết là phù hợp. Trường hợp các bên có phát sinh tranh chấp sẽ được giải
quyết bằng một vụ án khác.
[2.5] Quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn có ý kiến: Trường hợp bị đơn
muốn được nhận luôn nhà và đất nêu trên thì phải giao cho nguyên đơn số tiền
trả hằng năm và giá trị căn nhà là 350.000.000 đồng. Nguyên đơn sẽ đồng ý ra
khỏi căn nhà, giao nhà, đất cho bị đơn, kết thúc việc kiện tụng. Tại phiên toà,
mặc dù bị đơn đồng ý với yêu cầu trên của nguyên đơn nhưng nguyên đơn thay
đổi lời khai chỉ yêu cầu lấy lại phần đất có chiều rộng 5,6m. Do đó, Tòa án cấp
sơ thẩm không xem xét giải quyết đối với yêu cầu trên là phù hợp.
Từ những nhận định trên, xét thấy Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận
yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Phạm Văn Đ đối với bị đơn ông Phạm
Văn H là phù hợp nên không có căn cứ để Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu
kháng cáo của nguyên đơn ông Phạm Văn Đ.
[3] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương tại
phiên tòa phúc thẩm là phù hợp.
[4] Về án phí dân sự phúc thẩm: Ông Phạm Văn Đ là người cao tuổi nên
được miễn án phí theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa
án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
- Căn cứ khoản 1 Điều 148, khoản 1 Điều 308 và Điều 313 của Bộ luật Tố
tụng dân sự;
- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy
ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và
sử dụng án phí và lệ phí Tòa án,
1. Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn ông Phạm Văn Đ.
Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 81/2024/DS-ST ngày 08 tháng 7
năm 2024 của Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Bình Dương.
2. Về án phí dân sự phúc thẩm: Ông Phạm Văn Đ được miễn án phí.
3. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Bình Dương;
- Chi cục THADS thành phố T;
- TAND thành phố T;
- Các đương sự;
- Lưu: HCTP, HSVA, Tòa Dân sự.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Huỳnh Thị Thanh Tuyền
Tải về
Bản án số 616/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 616/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 26/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 18/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 11/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Bản án số 460/2024/DSPT ngày 28/11/2024 của TAND tỉnh Cà Mau về tranh chấp hợp đồng tặng cho tài sản
Ban hành: 28/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 19/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 14/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 16/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 28/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 20/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 19/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 17/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 17/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 17/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 16/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 14/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 09/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm