Bản án số 659/2024/DS-PT ngày 26/12/2024 của TAND tỉnh Bến Tre về tranh chấp hợp đồng tặng cho tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 659/2024/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 659/2024/DS-PT ngày 26/12/2024 của TAND tỉnh Bến Tre về tranh chấp hợp đồng tặng cho tài sản
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng tặng cho tài sản
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Bến Tre
Số hiệu: 659/2024/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 26/12/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH BẾN TRE
Bản án số: 659/2024/DS-PT
Ngày: 26-12-2024
V/v tranh chấp hợp đồng tặng cho quyền sử
dụng đất
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANHNƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH BẾN TRE
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm :
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Phạm Thị Thu Trang;
Các Thẩm phán: Ông Bùi Quang Sơn;
Ông Nguyễn Hữu Lương.
- Thư phiên tòa: Huỳnh Triệu Anh Thư - Thư Tòa án nhân dân
tỉnh Bến Tre.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân
tỉnh Bến Tre tham gia phiên tòa:
Trần Thị Kim Ngân - Kiểm sát viên.
Ngày 26 tháng 12 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre xét xử
phúc thẩm công khai vụ án thụ số 432/2024/TLPT-DS ngày 25 tháng 10 năm
2024 về “Tranh chấp hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất”.
Do Bản án dân sự thẩm số: 93/2024/DS-ST ngày 29 tháng 8 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 4497/2024/QĐXXPT-
DS ngày 13 tháng 11 năm 2024, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn:
Ông Nguyễn Ngọc A, sinh năm 1953;
Địa chỉ: C, ấp P, xã P, huyện C, tỉnh Bến Tre.
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn (theo văn bản ủy quyền ngày
20/4/2023):
Huỳnh Thị D, sinh năm 1997; hộ khẩu thường trú: Ấp T, T, huyện B,
tỉnh Bến Tre. Địa chỉ liên hệ: Số A, đường số C, khu dân S, khu phố M,
phường G, thành phố B, tỉnh Bến Tre.
2
Huỳnh Thị D ủy quyền lại cho: Nguyễn Thị M, sinh năm 1990; địa
chỉ thường trú: Số C, ấp H, H, huyện C, tỉnh Bến Tre; địa chỉ liên hệ: Số A,
đường số C, khu dân S, khu phố M, phường G, thành phố B, tỉnh Bến Tre. (có
mặt)
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn:
Luật sư Nguyễn Văn T - Luật Công ty L Cộng sự - Chi nhánh miền
Tây. (có đơn xin xét xử vắng mặt)
Địa chỉ liên hệ: Số A, đường số C, khu dân S, khu phố M, phường G,
thành phố B, tỉnh Bến Tre.
2. Bị đơn:
Ông Nguyễn Đắc V, sinh năm 1984;
Nơi cư trú: Ấp P, xã P, huyện C, tỉnh Bến Tre.
Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn:
Huỳnh N, sinh năm 2001; địa chỉ liên hệ: Số C, đại lộ Đ, phường P,
thành phố B, tỉnh Bến Tre. (có mặt)
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn:
Ông Nguyễn Ngọc P - Luật Công ty L1, thuộc đoàn Luật Thành phố
H. (có mặt)
3. Người kháng cáo: Ông Nguyễn Đắc V, là bị đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo nội dung bản án sơ thẩm;
Theo đơn khi kiện trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn
người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày:
Ông đứng tên quyền sử dụng đất phần đất diện tích 3.952m
2
thuộc
thửa đất số 1529; phần đất diện tích 9.244m
2
thuộc thửa đất số 1507; phần đất
diện tích 300m
2
thuộc thửa đất số 1528, cùng tờ bản đồ số 02, tọa lạc tại P,
huyện C, tỉnh Bến Tre do Ủy ban nhân dân huyện C, tỉnh Bến Tre cấp giấy chứng
nhận quyền sdụng đất ngày 03/11/1990 cho ông Ấ. Nguồn gốc các thửa đất nêu
trên là của cha mẹ ông cho riêng ông vào khoảng năm 1975 và ông quản lý
phần đất này từ thời gian đó cho đến nay.
Ngày 26/02/2009, ông cho con trai Nguyễn Đắc V phần đất có diện
tích 2.381m
2
thuộc thửa 1528, 1529, tờ bản đồ số 02, đất tọa lạc tại xã P, huyện C,
3
tỉnh Bến Tre và ông V cũng đã được đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
thửa đất.
Năm 2015, ông V hỏi xin ông về số đất còn lại diện tích 7.544m
2
.
Tuy nhiên, ông đã cho ông V phần đất diện tích 2.381m
2
thuộc thửa đất số
1528, 1529 nên ông không đồng ý cho nữa. Sau đó, ông V đổi ý hỏi mua ông
phần đất vườn diện tích 4.424,7m
2
, thuộc thửa đất 1507, tờ bản đồ số 02 (thửa
mới thửa 54, tbản đồ số 2) với giá 500.000.000 đồng thì được ông đồng
ý. Các bên thỏa thuận với nhau ông V đcho ông canh tác hưởng huê lợi
trên thửa đất này đến khi nào ông già yếu sẽ giao lại cho ông V quản lý, sử
dụng. Đồng thời, ông V phải giao ông số tiền chuyển nhượng 500.000.000 đồng
vào ngày 11/3/2015. Tuy nhiên, do ông V chưa chuẩn bị đủ tiền chuyển nhượng
nên ông V xin ông thời gian 06 tháng kể từ ngày 11/3/2015 sẽ giao đủ tiền
chuyển nhượng cho ông ông V sẽ trả cho ông tiền lời trong 06 tháng
12.000.000 đồng.
Ngày 11/3/2015, ông V viết giấy tay nội dung: “…con Nguyễn Đắc V
đưa cha Nguyễn Ngọc A tiền lời 06 tháng 12.000.000 đồng, nợ tiền bán đất
500.000.000 đồng…” và phía dưới tên, ghi họ tên của ông V. Ông V đã đưa số
tiền 12.000.000 đồng cho ông trong ngày 03/11/2015. Cũng trong ngày
03/11/2015, các bên đến Văn phòng C để ký hợp đồng. Ông V đnghị ông làm
hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất phần đất nêu trên thay làm hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất để nhằm mục đích không đóng tiền thuế. Do tin
tưởng con nên ông đã làm hợp đồng tặng cho theo yêu cầu của ông V giao
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông cho ông V. Tuy nhiên, ông chưa
làm thủ tục sang tên cho ông V đến khi nào ông V giao đủ tiền chuyển nhượng
cho ông thì ông mới hồ sang tên đất cho ông V. Sau khi hợp đồng
tặng cho quyền sử dụng đất tại Văn phòng C, các bên tiếp tục hợp đồng thỏa
thuận ngày 11/3/2015 để thỏa thuận với nhau ông sẽ tiếp tục quản đất này
đến khi nào già yếu không còn khả năng canh tác thì sẽ giao lại ông V quản lý.
do hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất được các bên tại Văn phòng C vào
ngày 11/3/2015 nhưng ngày công chứng ngày 12/3/2015 do vào ngày
11/3/2015 khi các bên đến văn phòng công chứng để hợp đồng tặng cho nhưng
không đem đầy đủ giấy tờ nên văn phòng công chứng yêu cầu phải bổ sung giấy
tờ đầy đủ thì mới công chứng. Sau đó, ông V đã làm thủ tục sang tên để được
đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất phần đất này. Ông hoàn toàn
không biết việc ông V đã được đứng tên phần đất nêu trên, thời gian sau này ông
mới biết sự việc này nên đã nộp đơn tranh chấp ra Tòa án.
4
Tại phiên tòa, ông người đại diện theo ủy quyền của ông M
trình bày chcủa ông trong đơn đề nghị đăng biến động quyền sdụng
đất, quyền sở hữu nhà tài sản khác gắn liền với đất ngày 12/3/2015 trong hồ
sơ quy trình cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông V không phải do ông
nhưng ông không yêu cầu giám định chữ tên này. Ông đồng ý với
kết quả đo đạc, biên bản xem xét thẩm định tại chỗ, biên bản định giá của Tòa án.
Các cây trồng trên phần đất đang tranh chấp là do ông trồng và canh tác. Về chi
phí tố tụng, ông Ấ yêu cầu giải quyết theo quy định pháp luật.
Nay ông khởi kiện yêu cầu tuyên bố hợp đồng tặng cho quyền sử dụng
đất ngày 11/3/2015 hợp đồng thỏa thuận ngày 11/3/2015 giữa ông Nguyễn
Ngọc A với ông Nguyễn Đắc V tại Văn phòng C hiệu do giả tạo. Đồng thời,
ông yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông với
ông V đối với phần đất diện tích 4.424,7m
2
, thuộc thửa số 1507, tờ bản đồ số 02
(thửa mới 54, tờ bản đồ số 9), tọa lạc tại xã P, huyện C, tỉnh Bến Tre đây
giao dịch bị che giấu do ông V không thực hiện việc trả tiền cho ông . Ông
cũng không bàn giao đất cho ông V quản lý, sử dụng hiện tại ông cũng
không đồng ý tiếp tục thực hiện việc chuyển nhượng. Kiến nghị quan thẩm
quyền điều chỉnh sang tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất phần đất diện tích
4.424,7m
2
, thuộc thửa số 1507, tờ bản đồ số 02 (thửa mới 54, tờ bản đồ số 9) từ
ông Nguyễn Đắc V sang ông Nguyễn Ngọc A.
Theo đơn phản tố, trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn và người đại
diện theo ủy quyền của bị đơn người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của bị
đơn trình bày:
Về nguồn gốc phần đất tranh chấp ông V thống nhất là tài sản riêng của ông
được gia đình bên nội của ông V tặng cho riêng ông . Ông V thừa nhận vào
năm 2009, ông có tặng cho ông V phần đất diện tích 2.381m
2
thuộc thửa đất
số 1528, 1529, tờ bản đồ số 02, tại P, huyện C, tỉnh Bến Tre ông V cũng
được đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Ông V là con chung của ông Ấ
với vtrước Nguyễn Thị N1. Do ông còn rất nhiều đất nên vào khoảng
năm 2014 - 2015, ông V có xin ông phần đất diện tích khoảng 4 công, thuộc
thửa 1507, tờ bản đồ số 02 (thửa mới 54, tờ bản đồ s9) thì ông đồng ý cho.
Đến ngày 11/3/2015 các bên ra Văn phòng C để tên hợp đồng tặng cho
quyền sdụng đất văn bản thỏa thuận cùng ngày 11/3/2015. Khi xong
hợp đồng tặng cho thì Văn phòng C đã gigiấy chứng nhận quyền sử dụng đất
của ông và làm thủ tục sang tên cho ông V được đứng tên phần đất này vào
tháng 3/2015. Chữ ký tên trong đơn đề nghị đăng ký biến động quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất ngày 12/3/2015 là do ông
5
tên. Tuy nhiên tại phiên tòa, ông không thừa nhận chữ này do ông
ông V cũng không yêu cầu giám định chữ tên của ông Ấ. Lý do hợp đồng tặng
cho quyền sử dụng đất được các bên tại Văn phòng C vào ngày 11/3/2015
nhưng ngày công chứng lại ngày 12/3/2015 do khi các bên đến Văn phòng C
vào ngày 11/3/2015 nhưng đem thiếu giấy tờ, do đó, Văn phòng công chứng yêu
cầu bổ sung giấy tờ đầy đủ vào ngày 12/3/2015 nên công chứng viên mới công
chứng vào ngày 12/3/2015.
Thời gian sau này, ông nghe tác động của người ngoài nên đến gặp
ông V để xin hỗ trợ số tiền 300.000.000 đồng nhưng ông V đồng ý hỗ trợ cho ông
số tiền 500.000.000 đồng ông V viết biên nhận ngày 11/3/2015 để đưa
ông giữ. Nội dung trong giấy biên nhận do ông V viết tên. Biên nhận
này được ghi sau ngày 11/3/2015. Nội dung biên nhận có ghi “…con Nguyễn Đắc
V đưa cha Nguyễn Ngọc A tiền lời 06 tháng 12.000.000 đồng…” là do ông
không có nghề nghiệp ổn định nên các bên có thỏa thuận ông sẽ tiếp tục quản lý
phần đất này đến khi nào ông giao lại đất cho ông V quản lý thì ông V sẽ đưa số
tiền 500.00.000 đồng cho ông Ấ. Do không xác định chính xác thời gian nào ông
sẽ giao đất cho ông V quản nên mới ghi trong biên nhận một khoảng thời
gian là 06 tháng, số tiền 12 triệu đồng là tiền ông V hỗ trợ cho ông Ấ trong khoảng
thời gian này.
Trước đây, các bên thỏa thuận khi nào ông giao đất cho ông V canh
tác thì ông V sẽ đưa cho ông số tiền 500.000.000 đồng nhưng tại phiên tòa, ông
V đồng ý sẽ hỗ trợ cho ông số tiền 738.000.000 đồng. Nếu ông không đồng ý
nhận số tiền hỗ trợ này thì ông V không đồng ý theo yêu cầu khởi kiện của ông .
Đồng thời, ông V yêu cầu Tòa án công nhận cho ông V phần đất diện tích
4.424,7m
2
, thuộc thửa số 1507, tờ bản đsố 02 (thửa mới 54, tờ bản đồ số 9),
tọa lạc tại P, huyện C, tỉnh Bến Tre hiện do ông V đứng tên giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất. Ông V yêu cầu ông giao cho ông V được trọn quyền quản
lý, sử dụng, canh tác thửa đất nêu trên vì ông hiện tại đã già yếu không còn khả
năng canh tác. Nếu trong trường hợp Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông
thì ông V không yêu cầu ông phải trả lại cho ông V số tiền 12.000.000 đồng.
Ông V đồng ý kết quả đo đạc, kết quả xem xét thẩm định tại chỗ kết quả định
giá của Tòa án. Các cây trồng trên đất do ông trồng chăm sóc. Ông
người đang quản lý, canh tác phần đất này.
Do hòa giải không thành, Tòa án nhân dân huyện Châu Thành đã đưa vụ án
ra xét xử.
Tại Bản án dân sthẩm số 93/2024/DS-ST ngày 29 tháng 8 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành đã tuyên:
6
Căn cứ các điều 26, 35, 39, 92, 147, 227, 228, 271, 273 của Bộ luật Tố tụng
dân sự; các điều 122, 129, 137, 410, 425 của Bộ luật Dân sự năm 2005; Điều 357,
468 của Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 188 của Luật Đất đai năm 2013; Nghị
quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản sử dụng án phí lệ phí Tòa
án.
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Ngọc A đối với ông
Nguyễn Đắc V.
+ Tuyên bố hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất ngày 11/3/2015 giữa
ông Nguyễn Ngọc A với ông Nguyễn Đắc V tại Văn phòng C đối với thửa đất số
1507, tờ bản đồ số 02 (thửa mới 54, tờ bản đsố 9), tọa lạc tại P, huyện C,
tỉnh Bến Tre hiệu.
+ Tuyên bố hợp đồng thỏa thuận ngày 11/3/2015 ký giữa ông Nguyễn Ngọc
A với ông Nguyễn Đắc V tại văn phòng C đối với thửa đất số 1507, tờ bản đồ số
02 (thửa mới là 54, tờ bản đồ số 9), tọa lạc tại xã P, huyện C, tỉnh Bến Tre vô hiệu.
+ Hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông với ông V
đối với phần đất diện tích 4.424,7m
2
, thuộc thửa số 1507, tờ bản đồ số 02 (thửa
mới là 54, tờ bản đồ số 9), tọa lạc tại xã P, huyện C, tỉnh Bến Tre.
2. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Nguyễn Đắc V về việc yêu
cầu ng nhận cho ông V phần đất diện tích 4.424,7m
2
, thuộc thửa số 1507, tờ
bản đồ số 02 (thửa mới 54, tờ bản đồ số 9), tọa lạc tại P, huyện C, tỉnh Bến
Tre và yêu cầu ông Ấ giao ông thửa đất nêu trên để ông V toàn quyền quản lý.
3. Kiến nghị quan thẩm quyền điều chỉnh giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất đối với thửa đất số 54, tờ bản đồ số 9, tọa lạc tại P, huyện C, tỉnh Bến
Tre do Ủy ban nhân dân huyện C, tỉnh Bến Tre đã cấp cho ông Nguyễn Đắc V để
cấp lại cho ông Nguyễn Ngọc A.
Ngoài ra, Bản án còn tuyên về án phí, chi phí tố tụng quyền kháng cáo
của các đương sự.
Ngày 24/9/2024, bị đơn ông Nguyễn Đắc V kháng cáo bản án thẩm.
Theo nội dung kháng cáo, ông V yêu cầu cấp phúc thẩm sửa bản án thẩm theo
hướng công nhận cho ông V phần đất diện tích 4.424,7m
2
, thuộc thửa đất số
1507, tờ bản đồ số 02 (thửa mới 54, tờ bản đsố 9), tọa lạc tại P, huyện C,
tỉnh Bến Tre yêu cầu ông giao cho ông thửa đất nêu trên để ông toàn quyền
quản lý.
7
Tại phiên tòa phúc thẩm, người đại diện theo ủy quyền của bị đơn ông
Nguyễn Đắc V người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của bị đơn trình bày bị
đơn đang giữ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của phần đất tranh chấp, không
thế chấp quyền sử dụng đất, đồng thời, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của bị đơn trình bày lời bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho bị đơn đề nghị
Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của ông V, sửa Bản án thẩm theo hướng
công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông với ông V đối
với phần đất diện tích 4.424,7m
2
, thuộc thửa số 1507, tờ bản đồ số 02 (thửa mới
54, tờ bản đồ số 9), tọa lạc tại xã P, huyện C, tỉnh Bến Tre.
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn không đồng ý với kháng cáo
của bị đơn, đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre tham gia phiên tòa phát
biểu ý kiến:
- Về tố tụng: Những người tiến hành tố tụng đã tuân theo đúng các quy định
của pháp luật tố tụng, những người tham gia tố tụng thực hiện đúng quyền
nghĩa vụ theo quy định của pháp luật tố tụng.
- Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xcăn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ
luật Tố tụng dân sự năm 2015, không chấp nhận kháng cáo của ông V, giữ nguyên
Bản án dân sự thẩm số: 93/2024/DS-ST ngày 29 tháng 8 năm 2024 của Tòa án
nhân dân huyện Châu Thành.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ đã được thẩm tra công khai
tại phiên tòa; kết quả tranh tụng tại phiên tòa; ý kiến đề nghị của Kiểm sát viên;
xét kháng cáo của ông Nguyễn Đắc V; Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng:
Bị đơn ông Nguyễn Đắc V kháng cáo thực hiện các thủ tục kháng cáo
hợp lệ, trong thời hạn luật định nên được xem xét giải quyết theo trình tự phúc
thẩm.
[2] Xét kháng cáo của bị đơn, Hội đồng xét xử xét thấy:
Xét “Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất” ngày 11/3/2015 “Hợp đồng
thỏa thuận” ngày 11/3/2015 giữa ông Nguyễn Ngọc A với ông Nguyễn Đắc V
tại Văn phòng C đối với phần đất diện tích 4.424,7m
2
, thuộc thửa đất số 1507,
tờ bản đồ số 02 (nay là thửa 54, tờ bản đồ số 9), tọa lạc tại xã P, huyện C, tỉnh Bến
Tre.
8
[2.1] Về hình thức: Các hợp đồng được lp thành văn bản và đưc công
chng ti Văn phòng C và tại thời điểm tham gia hợp đồng các bên minh mẫn,
nhận thức được hành vi của mình; tự nguyện thỏa thuận giao kết hợp đồng
cùng tên nên hợp đồng đúng quy định về mặt hình thức được quy định pháp
luật.
[2.2] Về nội dung: Ông cho rằng hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất
ngày 11/3/2015 cho này giả tạo nhằm che giấu hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất giữa các bên, ông cung cấp bản chính tờ giấy viết tay đề ngày
11/3/2015 để chứng minh cho lời trình bày này.
Xét “Tờ giấy viết tay đề ngày 11/3/2015” nội dung “…con Nguyễn Đắc
V đưa cha Nguyễn Ngọc A tiền lời 6 tháng 12.000.000 đồng, nợ tiền bán đất
500.000.000 đồng…”. Trong quá trình giải quyết vụ án tại phiên tòa, các bên
đương sự thống nhất nội dung chữ viết trong tờ giấy viết tay ngày 11/3/2015 là do
ông V viết ký, ghi họ tên. Nội dung trong giấy viết tay này thỏa thuận giữa
ông ông V liên quan đến phần đất diện tích 4.424,7m
2
, thuộc thửa đất số
1507, tờ bản đồ s02 (nay thửa đất s54, tờ bản đồ số 9), tọa lạc tại P,
huyện C, tỉnh Bến Tre. Phía ông ông V thỏa thuận ông V sẽ đưa cho ông
số tiền 500.000.000 đồng. Đây là tình tiết không phải chứng minh theo quy định
tại Điều 92 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Xét lời trình bày của ông V cho rằng tgiấy viết tay ngày 11/3/2015 được
ghi sau ngày các bên ký hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất. Ông V cho rằng
sau khi ông tặng cho quyền sử dụng đất cho ông V xong thì ông đã thay đổi ý
kiến yêu cầu ông V phải đưa cho ông số tiền 300.000.000 đồng, nhưng ông
V đồng ý đưa cho ông số tiền 500.000.000 đồng nên ông V mới viết giấy viết
tay ngày 11/3/2015 (giấy viết tay này được viết sau ngày 11/3/2015) đưa cho ông
giữ.
Hội đồng xét xử thấy rằng lời trình bày của ông V là không có căn cứ, bởi lẽ
nếu ông và ông V thực tế chỉ thỏa thuận tặng cho quyền sdụng đất với nhau
thì ông V sẽ không viết giấy ghi nội dung nợ tiền bán đất 500.000.000 đồng
đưa giấy tay cho ông giữ. Đồng thời, trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã
ban hành thông báo yêu cầu ông V cung cấp chứng cứ chứng minh cho lời trình
bày của ông là căn cứ nhưng ông V không cung cấp được chứng cứ chứng
minh.
Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử đủ căn cứ xác định hợp đồng
tặng cho quyền sử dụng đất ngày 11/3/2015 nhằm che giấu hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất giữa ông và ông V nên hợp đồng tặng cho quyền sử
9
dụng đất ngày 11/3/2015 vô hiệu do giả tạo theo quy định tại Điều 129 của Bộ luật
Dân snăm 2005. Do hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất ngày 11/3/2015
hiệu dẫn đến hợp đồng thỏa thuận ngày 11/3/2015 cũng hiệu theo quy định tại
Điều 410 của Bộ luật Dân sự năm 2005.
[2.3] Xét giao dịch dân sự bị che giấu là hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất:
Mặc các bên không lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
theo quy định pháp luật nhưng về bản chất đây thỏa thuận chuyển nhượng
quyền sử dụng đất giữa các bên, chứ không phải hợp đồng tặng cho quyền sử dụng
đất. Theo nội dung giấy viết tay thể hiện ông V nợ tiền bán đất của ông
500.000.000 đồng, ông V tên ghi họ tên. Ông V thừa nhận chính ông
là người ghi biên nhận ngày 11/3/2015, ông V cũng đồng ý giao cho ông Ấ số tiền
500.000.000 đồng nên mới ghi biên nhận. Giấy viết tay không phải hợp đồng
theo đúng hình thức do pháp luật quy định. Ông V cũng chưa trả số tiền
500.000.000 đồng cho ông , phía ông cũng chưa giao đất cho ông V quản lý,
canh tác. Phía ông không đồng ý tiếp tục thực hiện việc chuyển nhượng đối với
phần đất nêu trên. Do đó, yêu cầu khởi kiện của ông về việc hủy hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông với ông V là căn cứ theo quy
định tại Điều 425 của Bộ luật Dân sự năm 2005.
[2.4] Về hậu quả của hợp đồng vô hiệu và hợp đồng bị hủy:
Xét về lỗi làm cho hợp đồng hiệu và hợp đồng bị hủy thì giữa ông
ông V đều có lỗi, do đó hai bên phải hoàn trả cho nhau những gì đã nhận theo quy
định tại các điều 137, 425 của Bộ luật Dân sự năm 2005. Tuy nhiên, ông và ông
V đều thừa nhận giữa hai bên không có việc giao nhận tài sản (ngoại trừ số tiền
12.000.000 đồng ông V giao cho ông ông V cũng không ý kiến hay
yêu cầu đối với số tiền này). Ông vẫn người đang trực tiếp quản lý, sử
dụng phần đất diện tích 4.424,7m
2
, thuộc thửa số 1507, tờ bản đsố 02 (nay là
thửa đất số 54, tờ bản đồ số 9), tọa lạc tại xã P, huyện C, tỉnh Bến Tre. Do đó, giữa
ông và ông V không phải hoàn trả gì cho nhau.
Từ những phân tích trên, xét thấy a án cấp thẩm chấp nhận yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn
căn cứ.
[3] Ông V kháng cáo nhưng không cung cấp được tài liệu, chứng cứ chứng
minh cho yêu cầu kháng cáo căn cứ nên Hội đồng xét xử không chấp nhận
kháng cáo.
10
[4] Quan điểm của người bảo vquyền lợi ích hợp pháp của ông V
không phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên không được chấp nhận.
[5] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre là phù hợp
với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
[6] Về án phí:
Về án phí dân sự thẩm: Cấp thẩm xác định tiền án pthẩm chưa
phù hợp nên cấp phúc thẩm điều chỉnh lại như sau:
Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận nên bị đơn phải chịu
tiền án phí 900.000 đồng; yêu cầu phản tố của bị đơn không được chấp nhận
nên bị đơn phải chịu tiền án phí là 300.000 đồng. Tổng cộng tiền án phí bị đơn
phải chịu là 1.200.000 đồng.
Về án phí dân sự phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên ông
V phải chịu án phí dân sự phúc thẩm theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Không chấp nhận kháng cáo của ông Nguyễn Đắc V.
Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 93/2024/DS-ST ngày 29 tháng 8 năm
2024 của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre.
Căn cứ các điều 147, 148, 157, 165 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
Căn cứ các điều 122, 129, 137, 410, 425 của Bộ luật Dân sự năm 2005; Điều
357, 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 188 của Luật Đất đai năm 2013; Nghị
quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản sử dụng án phí lệ phí Tòa
án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Ngọc A đối với ông
Nguyễn Đắc V.
Tuyên bố hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất đề ngày 11/3/2015 giữa
ông Nguyễn Ngọc A với ông Nguyễn Đắc V được công chứng tại Văn phòng C
ngày 12/3/2015 đối với thửa đất số 1507, tờ bản đồ số 02 (nay là thửa đất số 54, tờ
bản đồ số 9), tọa lạc tại xã P, huyện C, tỉnh Bến Tre vô hiệu.
11
Tuyên bố hợp đồng thỏa thuận ngày 11/3/2015 ký giữa ông Nguyễn Ngọc A
với ông Nguyễn Đắc V tại Văn phòng C đối với thửa đất số 1507, tờ bản đồ số 02
(nay thửa đất số 54, tờ bản đồ số 9), tọa lạc tại P, huyện C, tỉnh Bến Tre
hiệu.
Hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông với ông V đối
với phần đất diện tích 4.424,7m
2
, thuộc thửa số 1507, tờ bản đồ số 02 (nay là thửa
đất số 54, tờ bản đồ số 9), tọa lạc tại xã P, huyện C, tỉnh Bến Tre.
2. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Nguyễn Đắc V về việc yêu
cầu ng nhận cho ông V phần đất diện tích 4.424,7m
2
, thuộc thửa số 1507, tờ
bản đồ số 02 (nay là thửa đất số 54, tờ bản đồ số 9), tọa lạc tại P, huyện C, tỉnh
Bến Tre và yêu cầu ông giao ông V thửa đất nêu trên để ông V toàn quyền quản
lý.
3. Kiến nghị quan thẩm quyền điều chỉnh giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất đối với thửa đất số 54, tờ bản đồ số 9, tọa lạc tại P, huyện C, tỉnh Bến
Tre do Ủy ban nhân dân huyện C, tỉnh Bến Tre đã cấp cho ông Nguyễn Đắc V để
cấp lại cho ông Nguyễn Ngọc A.
4. Về chi phí tố tụng:
Buộc ông Nguyễn Đắc V nghĩa vụ trả lại cho ông Nguyễn Ngọc A số
tiền là 11.162.000đ (mười một triệu một trăm sáu mươi hai nghìn đồng).
Kể từ ngày bản án hiệu lực pháp luật đơn yêu cầu thi hành án của
người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành
án) cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành
án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất
quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
5. Về án phí:
5.1. Về án phí dân sự sơ thẩm:
Ông Nguyễn Ngọc A thuộc trường hợp miễn nộp tiền tạm ứng án phí.
Ông Nguyễn Đắc V phải chịu 1.200.000đ (một triệu hai trăm nghìn đồng)
nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án pông V đã nộp là 300.000đ (ba
trăm nghìn đồng) theo biên lai số 0000415, ngày 02/5/2024 tại Chi cục Thi hành
án dân shuyện Châu Thành. Ông V phải nộp tiếp án phí 900.000đ (chín trăm
nghìn đồng).
5.2 Về án phí dân sự phúc thẩm:
Ông Nguyễn Đắc V phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) nhưng được
khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) theo
12
biên lai thu tạm ứng án phí số 0003101 ngày 24 tháng 9 năm 2024 của Chi cục Thi
hành án dân shuyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre. Ông V đã nộp đủ án phí dân sự
phúc thẩm.
Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật thi
hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án quyền thỏa
thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng
chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 của Luật thi hành án dân
sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo Điều 30 của Luật thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- Các đương sự;
- VKSND tỉnh Bến Tre;
- TAND huyện Châu Thành;
- Chi cục THADS huyện Châu Thành;
- Phòng KTNV&THA TAND tỉnh;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Phạm Thị Thu Trang
Tải về
Bản án số 659/2024/DS-PT Bản án số 659/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 659/2024/DS-PT Bản án số 659/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất