Bản án số 88/2024/DS-ST ngày 30/09/2024 của TAND huyện Krông Pắk, tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 88/2024/DS-ST

Tên Bản án: Bản án số 88/2024/DS-ST ngày 30/09/2024 của TAND huyện Krông Pắk, tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Krông Pắk (TAND tỉnh Đắk Lắk)
Số hiệu: 88/2024/DS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 30/09/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Bà Mai Thị Công Uẩn đề nghị vợ chồng ông Đinh Xuân Vê, bà Đỗ Thị Hạnh phải trả cho bà Mai Thị Công Uẩn trả số tiền là 29.087.000 đồng
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TOÀ ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN KRÔNG PẮC
TỈNH ĐẮK LẮK
Bản án số: 88/2024/DS-ST.
Ngày 30/9/2024.
(V/v Tranh chấp hợp đồng
mua bán tài sản).
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập -Tự do -Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN KRÔNG PẮC, TỈNH ĐẮK LẮK
-Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thm phán -Ch to phiên toà: Bà H’Năm Bkrông.
Các hội thẩm nhân dân: Bà Nguyễn Thị Lan.
Bà Trịnh Thị Oanh.
-Thư phiên toà: Nông Thị Lường Thư Toà án nhân dân huyện
Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk.
-Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Krông Pắc tham gia phiên tòa:
Bùi Thị Thu Hương Kiểm sát viên.
Ngày 30 tháng 9 năm 2024, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Krông Pắc xét xử
thẩm công khai vụ án dân sự thụ số 227/2023/TLST-DS ngày 24 tháng 10 năm
2023 về việc “Tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét
xử số 83/2024/QĐXXST-DS ngày 27 tháng 8 năm 2024, Quyết định hoãn phiên tòa số
64/2024/QĐ-HPT ngày 13/9/2024 giữa các đương sự:
1.Nguyên đơn: Mai Thị Công U -Ch Doanh nghiệp TNTM Ngọc U.
Địa chỉ: Số nhà 15, thôn 15, H, huyện K, tỉnh Đắk Lắk (Vắng mặt).
2.B đơn: Ông Đinh Xuân V, sinh năm 1946 (Có mặt).
Đỗ Thị H, sinh m 1956 (Vắng mặt).
Cùng địa chỉ: Số nhà 148, thôn 17, H, huyện K, tỉnh Đk Lắk.
3.Người quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
Ông Nguyễn Trọng N, sinh năm 1967.
Đa ch: Số n 15, thôn 15, H, huyn K, tỉnh Đk Lk (Vng mt).
Người đại diện tham gia tố tụng theo ủy quyền của nguyên đơn người
quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Trọng N ông Trường G, sinh năm
1992.
Địa chỉ: 27 T, phưng T, thành phố B, tỉnh Đk Lắk (Có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
1. Trong đơn khởi kiện nguyên đơn, bản tự khai, biên bản hòa giải tại phiên
tòa, người đại diện tham gia tố tụng theo ủy quyền của nguyên đơn người quyền
lợi nghĩa vụ liên quan ông Võ Trường G trình bày:
Doanh nghiệp nhân thương mại Ngọc U do Mai Thị Công U làm chủ
doanh nghiệp, thực hiện thu mua phê mua bán phân bón trên địa bàn. Ông
2
Nguyễn Trọng N chồng của Mai Thị Công U, thường xuyên giúp Uẩn trong
công việc kinh doanh. Trong quá trình mua bán, Uần nhiều lần cho vợ chồng ông
Đinh Xuân VĐỗ Thị H mua nợ phân bón. Cụ thể những lần như sau:
- Ngày 15/01/2020, ông V bà H nợ tiền mua phân bón và ng tiền bản p
nhân, số tiền là 22.017.000 đồng,
- Ngày 31/01/2020, ông V bà H nợ tiền mua phân bón: SA 03 bao, Lân 04 bao, số
tiền là 1.340.000 đồng. Số tiền này ông V và bà H đã thánh toán xong.
- Ngày 01/07/2020, ông V H nợ tiền mua phân bón gồm: Lio Thai 06 bao. số
tiền là 3.180.000 đồng.
- Ngày 03/09/2020, ông V H nợ tiền mua phân bón: Nhật Nam 06 bao, stiền
là 2.940.000 đồng.
- Ngày 11/02/2022, ông V H nợ tiền mua phân bón: Sa Nhật 02 bao, số tiền
950.000 đồng.
Như vậy, tổng số tiền vợ chồng ông V, H nợ 29.087.000 đồng (Hai
mươi chín triệu không trăm tám mươi bảy nghìn đồng).
Hai bên xác lập việc nợ trên bằng Giấy nợ tiền mua phân bón chữ của
H ông Nguyễn Trọng N dại diện cho Doanh Nghiệp Ngọc Uần tên, thời hạn
trả tiền là 07 ngày kể từ ngày mua. Việc xác lập Giấy nợ tiền mua phân bón giữa bà H
và ông Ngọc thì bà Uần biết và đồng ý với nội dung trên.
Tuy nhiên, đến nay đã quá thời hạn trả nợ nhưng vợ chồng ông Vệ, H vẫn
chưa trả nợ cho Uẩn. Mặc đã nhiều lần nhắc nhở nhưng ông Vệ, H cứ tránh
né, không có thiện chí trả nợ.
Vừa qua, Mai Thị Công U đã làm đơn khởi kiện vchồng ông Đinh Xuân V
bà ĐThH, đề nghị Tòa án nhân dân huyện K xét xử tuyên: Buộc vợ chồng ông
Đinh Xuân V, Đỗ Thị H phải trả cho Mai Thị Công U trả số tiền 29.087.000
đồng (Hai mươi chín triệu không trăm tám mươi bảy nghìn đồng). Đồng thời, phải trả
lãi suất phát sinh theo quy định của pháp luật đối với khoản tiền nêu trên (tính từ ngày
15/01/2020 đến ngày vụ án được giải quyết xong).
Ông Nguyễn Văn Ngọc hoàn toàn nhất trí với yêu cầu khởi kiện ý kiến của
nguyên đơn bà Mai Thị Công U, đề nghị Tòa án nhân dân huyện K xem xét giải quyết
theo quy định của pháp luật.
Đối với việc ông Đinh Xuân V cho rằng: “Từ năm 2020 cho đến năm 2022 bà H
vẫn thường xuyên giao dịch mua bán phân bón cũng như gửi phê tại doanh nghiệp
Ngọc U, số lượng phê gia đình ông gửi tại doanh nghiệp Ngọc U nhiều hơn rất
nhiều so với số nợ tiền mua phân bón, vì vậy việc cho rằng gia đình ông bà còn nợ tiền
phân bón của doanh nghiệp là vô lý. Đề nghị Tòa án xem xét, đối chiếu lại sổ mua bán
công ngiữa gia đình ông với doanh nghiệp Ngọc U để làm vấn đề này. Việc
doanh nghiệp Ngọc U khởi kiện gia đình ông còn nợ của doanh nghiệp số tiền
29.078.000 đồng tin i theo quy định của pp lut tính từ ngày 15/01/2020 không
đúng.
Bên cạnh đó ông V không giao dịch với doanh nghiệp Ngọc U nên trong hồ
khởi kiện doanh nghiệp cung cấp Hóa đơn bán hàng số PX010281 ngày 03/9/2020
(khách hàng Hạnh-Vê) có chữ ký của ông Đinh Xuân V là không đúng”.
3
Mai Thị Công U ông Nguyễn Trọng N ý kiến như sau: Giữa vic mua
bán phân bón gửi phê của khách hàng, trong đó gia đình ông V, H 2 vic
kc nhau. Đối vi vic gi p giữa hain cũng lập phiếu gi, cụ th phiếu
gi ngày 09/11/2019, gửi từ ngày 15/11/2019 đến ny 15/11/2020, ghi số lưng các
ln gi, giá tin, thanh toán, ch c nhn của ngưi gi. Trưng hợp ông Đinh Xuân
V cho rng số lượng cà phê gia đình ông gửi tại doanh nghiệp Ngọc U nhiều hơn rất
nhiều so với số nợ tiền mua phân bón thì đề nghị ông cung cấp phiếu gửi để so nh,
làm mâu thun giữa 2 bên.
Đối với việc ông Đinh Xuân V cho rằng ông không tham gia giao dịch với
doanh nghiệp nên chữ của ông trong hóa đơn bán hàng không đúng thì doanh
nghiệp cũng đã đề nghị giám định chữ ký, chữ viết của ông V, H, Phòng kỹ thuật
giám định Công an tỉnh Đắk Lắk đã kết luận về vấn đề này nên ý kiến của ông V
không căn cứ. Nguyên đơn người quyền lợi nghĩa vụ liên quan hoàn toàn
nhất trí với Kết luận giám định số 929/KL-KTHS ngày 09/7/2024 của Phòng kỹ thuật
giám định Công an tỉnh Đắk Lắk.
2.Trong biên bản ly li khai, bn bn hòa gii tại phn tòa bị đơn ông Đinh Xuân
V trình bày:
Giữa gia đình tôi (cụ thể vtôi Đỗ Thị H) quan hệ mua bán phân bón,
gửi phê với Doanh nghiệp nhân Ngọc U của Mai Thị Công U từ hơn 10 năm
nay. Trong quá trình giao dịch mua bán thì H trực tiếp làm việc với vợ chồng ông
Ngọc, Uẩn. Đỗ Thị H thường xuyên mua tạm ứng phân bón các loại của ông
Ngọc, Uẩn, tới mùa phê sau khi thu hoạch, gia đình tôi chở phê tươi đến
doanh nghiệp Ngọc U xây xát, phơi khô thành phê nhân xô. Sau đó giữa 2 bên đối
chiếu tiền mua bán phân bón, sau khi trừ nợ tiền mua phân bón thì số tiền cà phê n
lại doanh nghiệp trách nhiệm thanh toán lại cho gia đình tôi. Từ gần 10 năm nay
việc giao dịch mua bán, gửi phê, tính toán nợ giữa gia đình tôi doanh nghiệp
Ngọc U chủ yếu H trực tiếp thực hiện, bản thân tôi công tác tại Công ty TNHH
MTV phê Thắng Lợi nghỉ hưu từ năm 2015 cho đến nay nên việc giao dịch với
doanh nghiệp Ngọc U tôi không tham gia.
Theo như tôi được biết từ năm 2020 cho đến năm 2022 H vẫn thường xuyên
giao dịch mua bán phân bón ng như gửi phê tại doanh nghiệp Ngọc U, số lượng
phê gia đình tôi gửi tại doanh nghiệp Ngọc U nhiều hơn rất nhiều so với số nợ tiền
mua phân bón, vậy việc cho rằng gia đình tôi còn nợ tiền phân bón của doanh
nghiệp lý. Đề nghị Tòa án xem xét, đối chiếu lại sổ mua bán công nợ giữa gia
đình tôi với doanh nghiệp Ngọc U để làm vấn đề này. Việc doanh nghiệp Ngọc U
khởi kiện gia đình tôi còn nợ của doanh nghiệp số tiền 29.078.000 đồng tiềni theo
quy định ca pháp lut tính từ ngày 15/01/2020 không đúng, tôi không đồng ý.
Bên cạnh đó tôi không giao dịch với doanh nghiệp Ngọc U nên trong hồ sơ khởi
kiện doanh nghiệp cung cấp Hóa đơn bán hàng số PX010281 ngày 03/9/2020 (khách
hàng Hạnh-Vê) có chữ ký của tôi (Đinh Xuân V) là không đúng.
Từ trước đến nay tôi không quan hệ gửi phê hoặc mua bán phân bón với
Doanh nghiệp TNTM Ngọc U chỉ có vợ tôi là bà Đỗ Thị H người trực tiếp tham
gia và các loại hóa đơn mau bán, xác nhận nợ, vậy đối với yêu cầu khởi kiện của
4
Doanh nghiệp thì tôi không đồng ý.Hiện nay vợ tôi Đỗ Thị H bị tai nạn giao
thông nên không đến tham gia làm việc với Tòa án được.
3.Bị đơn bà Đỗ Thị H vắng mặt.
3.Ý kiến ca ni quyn li nghĩa v liên quan ông Nguyn Trng N:
Đồng ý với lời khai của người đại diện tham gia tố tụng của nguyên đơn, không
ý kiến bổ sung. Đề nghị Tòa án giải quyết: Buộc vợ chồng ông Đinh Xuân V, bà Đỗ
Thị H phải trả cho Mai Thị Công U trả số tiền 29.087.000 đồng (Hai mươi chín
triệu không trăm tám mươi bảy nghìn đồng). Đồng thời, phải trả lãi suất phát sinh theo
quy định của pháp luật đối với khoản tiền nêu trên (tính từ ngày 15/01/2020 đến ngày
vụ án được giải quyết xong).
Tại phiên tòa, người đại diện tham gia tố tụng của nguyên đơn giữ nguyên yêu
cầu khởi kiện về việc buộc bị đơn ông Đinh Xuân V Đỗ Thị H phải trả số tiền
mau hàng còn nợ 29.087.000 đồng. Xin rút yêu cầu khởi kiện về việc yêu cầu tính
lãi suất đối với số tiền trên.
Bị đơn ông Đinh Xuân V xác định gia đình ông không còn nsố tiền mua
bán phân bón như yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, số tiền 950.000 đồng theo hóa
đơn nguyên đơn khởi kiện gia đình ông đã trả, đối với các hóa đơn khác do ông
không được cầm hóa đơn nên ông không biết số nợ này. Bên cạnh đó Doanh nghiệp
Ngọc U còn nợ phê của gia đình ông đang gửi chưa thanh toán hết, vậy ông
không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Tại phiên tòa đại diện Vin kim sát nn dân huyện K phát biểu quan điểm:
-Vtố tụng: Quá tnh điều tra, thu thập chứng cứ của ván từ khi thụ đến khi có
quyết định đưa vụ án ra xét xử Thẩm phán đã giải quyết đúng trình tự của Bluật ttụng
n sự, tại phiên a HĐXX, thư ký nguyên đơn đã chấp nh tốt c quy định của
pháp luật. Bđơn không chấp nh đúng quy định của pháp luật.
-Về nội dung: Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1
Điều 39, khoản 2 Điều 227, Điều 228, khoản 2 Điều 244 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ Điều 166; Điều 280; Điều 289, Điều 357; Điều 430, Điều 466; khoản 2
Điều 468 của Bộ luật Dân sự;
Căn cứ Điều 27, Điều 30, Điều 37 Luật hôn nhân gia đình;
Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên xử:
-Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Mai Thị Công U -
Chủ Doanh nghiệp tư nhân Ngọc U.
-Buộc ông Đinh Xuân V Đỗ Thị H phải trả cho Mai Thị Công U - Chủ
Doanh nghiệp tư nhân Ngọc U số tiền 29.087.000 đồng và lãi suất phát sinh kể từ ngày
Bản án có hiệu lực pháp luật.
- Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc tính lãi suất đối với số tiền
29.087.000 đồng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi xem xét các chứng cứ, tài liệu trong hồ vụ án được thẩm tra tại
phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về áp dụng pháp luật tố tụng:
5
1.1.Quan hệ pháp luật tranh chấp: Đây là tranh chấp yêu cầu thanh toán tiền mua
bán tài sản còn nợ theo xác nhận nợ giữa DNTN Ngọc U với Đỗ Thị H, ông Đinh
Xuân V, do vậy xác định đây tranh chấp dân sự, về quan htranh chấp “Tranh
chấp hợp đồng mua bán tài sản” theo quy định tại khoản 3 Điều 26 Bộ luật tố tụng dân
sự.
1.2.Về thẩm quyền giải quyết của Tòa án: Bị đơn Đỗ Thị H, ông Đinh Xuân
V có nơi cư trú tại huyện K, tỉnh Đắk Lắk. Vì vậy, căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 35
điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án nêu trên thuộc thẩm
quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh Đắk Lắk.
[2]. Vsự vắng mặt của bị đơn: Hội đồng xét xử thấy rằng Tòa án đã thực hiện
việc cấp tống đạt các văn bản theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự cho bị
đơn, tuy nhiên bị đơn Đỗ Thị H mặc dù đã được tống đạt văn bản tố tụng hợp lệ vẫn
vắng mặt không do. Do đó, Tòa án xét xử vắng mặt các bị đơn Đỗ Thị H
phù hợp với quy định tại Điều 227, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[3]. Về nội dung: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ lời trình bày của đương
sự có trong hồ sơ vụ án, thể hiện:
3.1.Đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn buộc vợ chồng ông Đinh Xuân V,
Đỗ Thị H phải trả cho Mai Thị Công U số tiền là 29.087.000 đồng (Hai mươi
chín triệu không trăm tám mươi bảy nghìn đồng), đây số tiền nợ mua bán phê,
phân bón giữa bà Mai Thị Công U chủ Doanh nghiệp tư nhân thương mại Ngọc U
vợ chồng ông Đinh Xuân V và bà Đỗ Thị H.
Cùng với yêu cầu khởi kiện bà Uẩn, ông Ngọc cung cấp cho Tòa án các giấy xác
nhận nợ, hóa đơn mua hàng, cụ thể:
Giấy nợ tiền mua phân bón ghi ngày 15/01/2020 nội dung: ông V H nợ
tiền mua phân bón ứng tiền bán phê nhân, nợ tiền 22.017.000 đồng; Nợ tiền
mua phân bón gồm Lio Thai 06 bao, số tiền 3.180.000 đồng ngày 01/07/2020; nợ
tiền mua phân bón: Nhật Nam 06 bao, số tiền 2.940.000 đồng ngày 03/09/2020; N
tiền mua phân bón Sa Nhật 02 bao là 950.000 đồng ngày 11/02/2022.
Ngoài ra bà Uẩn, ông Ngọc còn cung cấp 03 hóa đơn bán hàng còn nợ tiền mua
phân bón gồm Lio Thai 06 bao, số tiền 3.180.000 đồng ngày 01/07/2020; Ntiền
mua phân bón: Nhật Nam 06 bao, số tiền 2.940.000 đồng ngày 03/09/2020; Ntiền
mua phân bón Sa Nhật 02 bao là 950.000 đồng ngày 11/02/2022.
Quá trình giải quyết vụ án ông V, H không đến tham gia tố tụng, vậy Tòa
án đã ra quyết định trưng cầu giám định chữ ký, chữ viết. Tại Kết luận giám định s
929/KL-KTHS ngày 09/7/2024 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lăk
nội dung như sau:
Chữ ký, chữ viết mang tên Đỗ Thị H trên tài liệu cần giám định ký hiệu A1, A2,
A3 chữ ký, chữ viết mang tên Đỗ Thị H trên tài liệu mẫu so sánh hiệu M1 do
cùng một người ký và viết ra.
Chữ viết, chữ mang tên Đinh Xuân V trên tài liệu cần giám định hiệu A4
chữ chữ viết mang tên Đinh Xuân V trên các tài liệu mẫu so sánh hiệu M3,
M4, M5 cùng một người ký và viết ra.
Như vậy đủ n cứ để xác định việc ông V, H mua bán phân bón,
6
phê với Uẩn, ông Ngọc xác nhận còn nợ tiền là đúng. Phân bón ông V, bà H đã
nhận xong, nhưng không thanh toán tiền đầy đủ cho bên bán là vi phạm nghĩa vụ thanh
toán theo quy định tại khoản 3 Điều 434 của Bộ luật Dân snăm 2015. Do đó, vợ
chồng ông V, H phải liên đới trả số tiền nợ mua mua phân bón cho nguyên đơn
Mai Thị Công U theo quy định tại các Điều 27, 30 37 Luật Hôn nhân gia đình.
Cần buộc ông Đinh Xuân V, bà Đỗ Thị H có nghĩa vụ thanh toán cho bà Mai Thị Công
U -Chủ DNTNTM Ngọc U số tiền còn nợ là 29.087.000 đồng.
Đối với việc ông Đinh Xuân V cho rằng: Ông không giao dịch với doanh nghiệp
Ngọc U nên trong hồ khởi kiện doanh nghiệp cung cấp Hóa đơn bán hàng số
PX010281 ngày 03/9/2020 (khách hàng Hạnh-Vê) chữ của ông (Đinh Xuân V)
là không đúng. Tuy nhiên ông không đề nghị giám định lại chữ ký chữ viết, trong biên
bản làm việc ông không ký, không viết mà đề nghị lăn tay để xác nhận biên bản, vì vậy
không có cơ sở để xem xét cho ý kiến này.
Tại phiên tòa ông Đinh Xuân V cung cấp cho Hội đồng xét xử 01 bản photo hóa
đơn bán hàng ghi số PX015687 ngày 11/02/2022 cho rằng gia đình ông đã thanh
toán số tiền 950.000 đồng nhưng Doanh nghiệp TNTM Ngọc U vẫn đưa vào khởi kiện
buộc gia đình ông phải trả là có sự gian dối. Qua đối chiếu các chứng cứ mà các đương
sự giao nộp thì thấy rằng:
Hóa đơn bán hàng ghi số PX015687 ngày 11/02/2022 nội dung “Tên hàng
hóa :1. LÂN VĂN ĐIỂN, số lượng 2, đơn giá 230.000 đồng, thành tiền 460.000
đồng; 2.SA NHẬT UP KIM CƯƠNG 21-0-0, số lượng 2, đơn giá 475.000 đồng, thành
tiền 950.000 đồng; Tổng thanh toán 1.410.000 đồng”, trên hóa đơn ghi chữ viết tay
“R”.
Hóa đơn bán hàng ghi số PX015688 ngày 111/02/2022 nội dung: “Tên hàng
hóa là:1.SA NHẬT UP KIM CƯƠNG 21-0-0, số lượng 2, đơn giá 475.000 đồng,
thành tiền 950.000 đồng”.
Người đại diện của nguyên đơn xác định, hóa đơn bán hàng ghi số PX015687
ngày 11/02/2022, số tiền phải thanh toán 1.410.000 đồng thì ông V, H đã thanh
toán xong, vậy Doanh nghiệp TNTM Ngọc U đã đánh dấu chữ “R” đưa lại hóa
đơn mua hàng cho khách hàng, không liên quan đến khoản tiền nợ mua hàng chưa
thanh toán của hóa đơn bán hàng số PX015688 ngày 111/02/2022 với số tiền 950.000
đồng mà nguyên đơn đang khởi kiện.
Qua xem xét 02 hóa đơn n hàng trên 02 số khác nhau số tiền phải thanh
toán khác nhau n không cơ sở xemt lời khai nại của bị đơn ông Định Xuân .
3.2. Đối với việc yêu cầu tính lãi suất đối với số tiền 29.087.000 đồng từ ngày
15/01/2020:
Giấy nợ tiền mua phân bón ghi ngày 15/01/2020 có nội dung: ông V bà H nợ tiền
mua phân bón ứng tiền bản phê nhân, nợ tiền 22.017.000 đồng; Nợ tiền mua
phân bón gồm Lio Thai 06 bao. số tiền 3.180.000 đồng ngày 01/07/2020; nợ tiền
mua phân bón: Nhật Nam 06 bao, số tiền 2.940.000 đồng ngày 03/09/2020; Ntiền
mau phân bón Sa Nhật 02 bao là 950.000 đồng ngày 11/02/2022.
Trong giấy xác nhận nợ các bên thỏa thuận nếu quá 7 ngày người mua hàng
nếu không trả phải chịu lãi 2 %/tháng. Như vậy thỏa thuận này là vượt quá quy định tại
7
khoản 1 Điều 468 Bộ luật dân sự. Bên cạnh đó việc nguyên đơn yêu cầu tính lãi t
ngày 15/01/2020 trên tổng số nợ 29.087.000 đồng là không hợp lý.
Tuy nhiên tại phiên tòa người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn xin t
yêu cầu khởi kiện về tính lãi suất, xét thấy đây là sự tự nguyên của đương sự, đúng quy
định của pháp luật vậy căn cứ khoản 2 Điều 244 Bộ luật tố tụng dân sự, đình chỉ
giải quyết đối với yêu cầu tính lãi của nguyên đơn.
[4].Về án phí dân sự thẩm: Căn cứ o điểm đ Điều 12 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về
mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Bị đơn ông Định Xuân Vê Đỗ Thị H được miễn án phí dân sự thẩm do
ông bà là người cao tuổi theo quy định của Điều 2 Luật người cao tuổi.
Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận nên nguyên đơn được
nhận lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp.
[5].Về chi phí tố tụng: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận
nên ông Đinh Xuân V và bà Đỗ Thị H phải chịu chi phí giám định chữ ký là 6.500.000
đồng, số tiền này Mai ThCông U đã nộp tạm ứng, vậy ông V, H phải hoàn
trả lại cho Mai Thị Công U số tiền 6.500.000 đồng.
[6]. Xét thấy ý kiến, quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát hoàn toàn căn
cứ, đúng quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
Vì các l trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều
162, khoản 2 Điều 227, Điều 228, khoản 2 Điều 244, Điều 266 của Bộ luật Tố tụng
dân sự;
Căn cứ Điều 166; Điều 280; Điều 289, Điều 357; Điều 430, Điều 466; khoản 2
Điều 468 của Bộ luật Dân sự;
Căn cứ Điều 27, Điều 30, Điều 37 Luật hôn nhân gia đình;
Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định vmức thu, miễn, giảm, thu,
nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Mai Thị
Công U - Chủ DNTN Ngọc U.
1.Buộc ông Đinh Xuân V và bà Đỗ Thị H phải trả cho bà Mai Thị Công U - Chủ
DNTN Ngọc U số tiền 29.087.000 đồng (Hai mươi chín triệu không trăm tám mươi
bảy nghìn đồng).
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, nời được thi hành án nộp đơn yêu cầu
thi hành án, nếu người phải thi hành án chưa thanh toán xong số tiền phải thi nh thì
còn phải trả tiền lãi theo mức lãi suất quy định tại Điều 357 và khoản 2 Điều 468 của B
luật dân sự năm 2015 tương ứng với số tiền thời gian chậm trả.
2.Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc tính lãi đối với số tiền
29.087.000 đồng.
3. Về án phí dân sự thẩm: Bị đơn ông Đinh Xuân V ĐThị H được
miễn án phí dân sự sơ thẩm.
8
Nguyên đơn bà Mai Thị Công U được nhận lại số tiền 727.000 đồng tạm ứng án
phí đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí tòa án số AA/2023/0003412 ngày
18/10/2023 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện K, tỉnh Đắk Lắk.
4. Về chi phí tố tụng: Ông Đinh Xuân V Đỗ Thị H phải chịu 6.500.000
đồng chi phí giám định chữ ký. Số tiền này bà Mai Thị Công U đã nộp tạm ứng, vì vậy
ông V, bà H phải hoàn trả lại cho Mai Thị Công U số tiền 6.500.000 đồng.
5. Về quyền kháng cáo:
c đương sự mặt tại phiên tòa được quyền kng cáo bản án sơ thm trong hạn
15 ngày kể từ kể từ ngày tun án. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa được kháng cáo bản
án trong hạn 15 ngày ktừ ngày nhn được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi
hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị
cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật thi
hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật
thi hành án dân sự.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
-TAND tỉnh Đắk Lắk; THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
-VKSND H.K;
-Chi cục THADS H.K; (Đã ký)
-Các đương sự;
-Lưu hồ sơ, TA.
H’ Năm Bkrông
9
CÁC HỘI THẨM NHÂN DÂN
Nguyễn Thị Lan Trịnh Thị Oanh
THẨM PHÁN -CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
H’Năm Bkrông
10
Tải về
Bản án số 88/2024/DS-ST Bản án số 88/2024/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 88/2024/DS-ST Bản án số 88/2024/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất