Bản án số 17/2025/DS-PT ngày 07/04/2025 của TAND tỉnh Quảng Bình về tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 17/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 17/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 17/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 17/2025/DS-PT ngày 07/04/2025 của TAND tỉnh Quảng Bình về tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Quảng Bình |
Số hiệu: | 17/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 07/04/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | bị đơn kháng cáo không được chấp nhận |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỈNH QUẢNG BÌNH Độc lập -Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 17/2025/DS - PT
Ngày: 07-4-2025
“V/v Tranh chp đòi lại tài sản”
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG BÌNH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Bà Từ Thị Hải D
Các Thẩm phán: Ông D Viết Hải; Bà Nguyễn Thanh Hoa
- Thư ký phiên tòa: Ông Ngô Bá Tun Linh - Thư ký TAND tỉnh Quảng Bình.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình: Bà Cao Thị M Nguyệt
- Kiểm sát viên.
Ngày 07/4/2025, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình xét xử phúc
thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 74/2024/TLPT-DS ngày 24 tháng 12 năm
2024 về việc “Tranh chp đòi lại tài sản”.
Do bản án Dân sự sơ thẩm số 51/2024/DS-ST ngày 14/11/2024 của Toà án
nhân dân thành phố Đồng Hới bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 480/2025/QĐ-PT ngày
10/02/2025 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Bùi Văn Q, sinh năm 1955; địa chỉ: Số nhà 14, đường K,
Tổ dân phố 9, phường N, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình, có mặt;
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn
Th – Luật sư của Chi nhánh Trung tâm Tư vn pháp luật cộng đồng và trợ giúp
pháp lý NCTN tại Quảng Bình; có đơn đề nghị xử vắng mặt;
- Bị đơn: Chị Trần Thị Th, sinh năm 1993; địa chỉ: Số nhà 23, đường T, tổ dân
phố 1, phường Đ, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình, vắng mặt;
Người đại diện theo ủy quyền của chị Trần Thị Th: Chị Bùi Thị Thiên L,
sinh năm: 1999; địa chỉ: Số 223 A, đường P, Phường B, thành phố Đ, tỉnh Quảng
Bình, có mặt;
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
+ Bà Đặng Thị H2, sinh năm 1969; địa chỉ: Số nhà 23, đường T, tổ dân phố 1,
phường Đ, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình, có mặt;
Người đại diện theo ủy quyền của bà Đặng Thị H2: Anh Phạm Anh V, sinh
năm: 1995; địa chỉ: Số 223 A, đường P, Phường B, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình,
có mặt;
+ Bà Bùi Thị T1, sinh năm 1965; địa chỉ: thôn 6, xã L Ninh, thành phố Đ, tỉnh
Quảng Bình, có mặt;
- Người làm chứng:
2
+ Ông Vũ Quý D, sinh năm 1983; Địa chỉ: thị trn Đ, huyện Th, thành phố H,
có đơn xin vắng mặt;
+ Ông Phan Xuân L; địa chỉ: thôn 6, xã L Ninh, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình,
có đơn xin xử vắng mặt;
+ Bà Trần Thị Thanh M; địa chỉ: thôn 6, xã L Ninh, thành phố Đ, tỉnh Quảng
Bình, có đơn xin xử vắng mặt;
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, nội dung vụ án tóm tắt như sau:
Nguyên đơn ông Bùi Văn Q trình bày: Năm 2021, ông và vợ là bà Đặng
Thị H2 đi làm việc tại Australia. Vì có nhu cầu mua nhà để sau này về lại Việt
Nam sống nên ông, bà đã gửi tiền về cho em gái ông Q là bà Bùi Thị T1 số tiền
1.605.000.000 đồng và gửi về cho con riêng của bà H2 là chị Trần Thị Th số tiền
971.000.000 đồng để nhờ mua nhà, đt tại Đồng Hới, Quảng Bình. Việc gửi tiền
cho chị Trần Thị Th, ông Q nhờ ông Vũ Quý D- một người quen của ông ở Hải
Phòng chuyển khoản cho chị Th. Việc tìm nhà, giao dịch, mua bán vợ chồng ông
giao cho bà T1. Sau khi bàn bạc thống nht, vợ chồng ông chọn mua nhà đt của
ông Phan Xuân L với giá 2.400.000.000 đồng. Nhà đt chọn mua có địa chỉ tại
thôn 11 Hữu Cung, xã L Ninh, thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình. Quá trình
thỏa thuận mua bán, bên bán nhà là ông L giảm 15.000.000 đồng, giá mua bán
nhà còn lại là 2.385.000.000 đồng. Bà T1 đặt cọc lần thứ nht vào ngày
20/01/2022 và thanh toán đủ vào ngày 24/01/2022. Trong tổng số tiền
2.385.000.000 đồng bà T1 chuyển thanh toán tiền nhà cho vợ chồng ông L có số
tiền 1.605.000.000 đồng là của ông Q chuyển cho bà T1, chị Trần Thị Th chuyển
khoản cho bà T1 số tiền 795.000.000 đồng và ngày 13/12/2021.
Do thời điểm mua nhà, đt vợ chồng ông Q, bà H2 vẫn đang ở nước ngoài
(Australia) nên đã nhờ chị Trần Thị Th, là con riêng của bà H2 đứng tên trong
Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đt, đứng tên hộ trên Giy chứng nhận
quyền sử dụng đt của nhà, đt mà ông, bà đã mua. Thủ tục chuyển nhượng hoàn
tt, chị Th được cp Giy chứng nhận quyền sử dụng đt, quyền sở hữu nhà ở và
tài sản khác gắn liền với đt số DĐ 177409 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh
Quảng Bình cp ngày 28/02/2023. Sau khi nhận Giy chứng nhận, chị Th giao lại
cho bà T1 ct giữ và khi vợ chồng ông Q về nước thì bà T1 đã giao giy chứng
nhận này lại cho vợ chồng ông Q. Từ khi vợ chồng phát sinh mâu thuẫn thì bà H2
là người ct giữ giy chứng nhận quyền sử dụng đt cho đến nay.
Sau khi mua nhà, vì vợ chồng ông vẫn chưa về nước nên có nhờ bà T1 là
xem có ai thuê ở thì cho họ thuê ở để vừa có thu nhập và vừa có người trông coi
nhà cửa. Bà T1 đã cho vợ chồng chị Trần Thị Thanh M thuê (bà T1 trực tiếp ký
hợp đồng cho thuê nhà với chị M). Giá thuê nhà là 1.500.000 đồng/tháng. Hàng
quý, bà T1 thu tiền thuê nhà và chuyển cho ông Q. Từ ngày vợ chồng ông Q về
nước thì ông Q trực tiếp quản lý nhà và thu tiền thuê nhà từ chị M. Tiền thuế đt
năm 2023 và 2024 do bà T1 nộp, chị Th chưa thực hiện một thủ tục nào về việc
giao, nhận đt trên thực tế và cũng không biết địa chỉ hay các đặc điểm cụ thể của
nhà, đt mình đứng tên hộ.
3
Về chiếc xe Mercedes, BKS 73A-306.07 đứng tên chị Trần Thị Th có
nguồn gốc từ việc ông Q ra Hà Nội mua xe cũ của ông Nghiêm Xuân H và bà Mai
Thị Hương Ng tại tổ 11 Láng Thượng, Đống Đa, Hà Nội với giá 570 triệu đồng.
Ngày 04/01/2023, sau khi trực tiếp giao dịch mua bán xong, ông Q chuyển khoản
số tiền 560.000.000 đồng cho bà Ngân và nhận xe về Quảng Bình. Số tiền
10.000.000 đồng còn lại sau khi nhận được hồ sơ gốc ông Q đã chuyển khoản cho
chị Th để chị Th thanh toán tiếp cho người bán xe. Do không rút hồ sơ gốc ngay
được mà phải đợi vài tháng sau, không tiện đi lại nhiều lần nên ông Q nhờ chị Th,
thời điểm đó đang sinh sống tại Hà Nội rút giy tờ gốc và chuyển về Quảng Bình
cho ông Q. Sau khi rút được hồ sơ gốc của xe về, chị Th đã đăng ký tên chủ xe là
Trần Thị Th. Ông Q cũng xác định là mua chiếc xe đó cho vợ là bà H2 sử dụng
nên không có ý kiến gì về việc chị Th đứng tên xe thời điểm đó.
Ngoài ra, trong thời gian vợ chồng chưa phát sinh mâu thuẫn thì vợ chồng
ông còn cho chị Th mượn số tiền 500.000.000 đồng để chị Th gửi tiết kiệm nhằm
mục đích chứng M năng lực tài chính, dễ đậu visa xut cảnh ra nước ngoài (thời
điểm này chị Th đang làm thủ tục để đi nước ngoài và hiện tại chị Th đã xut
cảnh). Vì vậy, ngày 17/02/2023 ông đã chuyển tiền từ số tài khoản
53110000046031 tại Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam, chủ tài
khoản Bùi Văn Q đến số tài khoản 233108518 tại Ngân hàng TMCP Việt Nam
Thịnh Vượng, chủ tài khoản Trần Thị Th số tiền 500.000.000 đồng (chuyển khoản
02 lần, mỗi lần 250.000.000 đồng). Sau đó, chị Th đã gửi tiết kiệm số tiền này tại
Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng. Ông yêu cầu chị Th trả lại nhưng chị
Th không đồng ý.
Ngày 12/8/2024, ông Q bổ sung yêu cầu khởi kiện: Ngày 04/5/2021 và
06/12/2021, ông Q có nhờ người quen là ông Vũ Quý D (ở Hải Phòng) chuyển
khoản vào tài khoản 233108518 tại Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng
của chị Th số tiền 971.400.000 đồng để chị Th chuyển cho bà T1 mua nhà đt ở
L Ninh. Sau khi nhận tiền, ngày 13/12/2021 chị Th mới chỉ chuyển cho bà T1
795.000.000 đồng, số tiền còn lại 176.400.000 đồng đến nay chị Th vẫn còn chiếm
giữ mà chưa trả lại cho vợ chồng ông nên ông có yêu cầu đòi lại.
Mặc dù toàn bộ việc giao dịch chuyển tiền đều là giữa ông với chị Th nhưng
đây là các tài sản được hình thành trong thời kỳ hôn nhân giữa ông và bà H2 nên
ông xác định đây là các tài sản chung của vợ chồng. Vì vậy, ông khởi kiện yêu
cầu chị Trần Thị Th trả lại cho vợ chồng ông các tài sản, gồm:
- Nhà, đt tại thửa đt số 331, tờ bản đồ số 29, địa chỉ tại thôn 11, Hữu
Cung, xã L Ninh, thành phố Đồng Hới, Giy chứng nhận quyền sử dụng đt,
quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đt số DĐ 177409 do Sở Tài nguyên
và Môi trường tỉnh Quảng Bình cp ngày 28/2/2022 mang tên chị Trần Thị Th;
- Xe ô tô nhãn hiệu Mercedes 05 chỗ, màu đen, biển kiểm soát: 73A-
306.07, Giy chứng nhận đăng ký xe mang tên Trần Thị Th;
- Số tiền chị Th mượn của vợ chồng ông: 500.000.000 đồng;
- Số tiền ông chuyển khoản nhờ thanh toán tiền mua nhà còn thừa, chị Th
đang giữ: 176.400.000 đồng.
Phía bị đơn trình bày: Nhà, đt tại thửa đt số 331, tờ bản đồ số 29, địa chỉ
tại thôn 11, Hữu Cung, xã L Ninh, thành phố Đồng Hới, Giy chứng nhận quyền
4
sử dụng đt, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đt số DĐ 177409 do Sở
Tài nguyên và Môi trường tỉnh Quảng Bình cp ngày 28/2/2023 mang tên chị
Trần Thị Th là do chị Th mua của ông Phan Xuân L, bà Tưởng Thị S theo Hợp
đồng chuyển nhượng số 648 tại Văn phòng Công chứng Hải Vượng ngày
29/01/2022 với giá 290.000.000 đồng bằng nguồn tiền riêng của chị Th. Sau khi
chuyển nhượng chị Th đã giao tiền mặt đủ số tiền 290.000.000 đồng cho ông L,
bà Sen và tiến hành đăng ký quyền sử dụng đt theo quy định.
Hiện tại nhà đã cho người khác thuê nhưng không rõ người thuê là ai.
- Xe ô tô Mercedes, BKS 73A-306.07 là do chị Th mua lại xe cũ của ông
Nghiêm Xuân H, bà Mai Thị Hương Ng theo hợp đồng mua bán xe ô tô được
công chứng số 2849 tại Văn phòng Công chứng Nguyễn Tiến Vinh, thành phố Hà
Nội với giá 50.000.000 đồng bằng nguồn tiền riêng của chị Th. Sau khi ký Hợp
đồng mua bán xe chị Th đã giao đủ số tiền 50.000.000 đồng bằng tiền mặt tại Văn
phòng công chứng và tiến hành sang tên theo đúng quy định.
Đối với số tiền 500.000.000 đồng gửi tiết kiệm tại ngân hàng VPBank là số
tiền chị Th tự lao động mà có, chị không vay mượn bt kỳ khoản tiền nào của ông
Q.
Đối với số tiền 176.400.000 đồng mà ông Q cho rằng đó là tiền của vợ
chồng ông Q chuyển cho chị Th để nhờ mua nhà đt hộ nhưng còn thừa, nay ông
Q yêu cầu chị Th trả lại số tiền đó là hoàn toàn không hợp lý. Số tiền mà ông Q,
bà H2 chuyển cho chị Th đó là tiền ông Q, bà H2 tự nguyện cho chị Th để tiêu
dùng hàng ngày, không liên quan gì đến việc chị Th mua đt, nhà đt tại xã L
Ninh, Đồng Hới.
Vì vậy, chị Th không chp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Q.
+ Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án bà Đặng Thị H2 và
người đại diện theo ủy quyền của bà H2 trình bày:
- Tại Đơn trình bày ý kiến nộp cho Tòa án đề ngày 12/6/2024, bà H2 trình
bày:
Đối với tài sản là quyền sử dụng đt và quyền sở hữu nhà ở trên thửa đt số
331, tờ bản đồ 29 tại thôn 11 Hữu Cung, xã L Ninh, thành phố Đồng Hới mang
tên Trần Thị Th là tài sản chung của vợ chồng bà và ông Q. Sau khi hai vợ chồng
bà ra nước ngoài làm ăn đã tiết kiệm được một số tiền và vợ chồng bà có mượn
thêm của chị Th số tiền 795.000.000 đồng.
Số tiền 500.000.000 đồng chị Th gửi tiết kiệm là tài sản riêng của chị Th.
Số tiền này khi chị Th đi nước ngoài về đã cho vợ chồng bà vay mượn để làm ăn
kinh doanh. Sau đó ông Q đã chuyển khoản trả lại cho chị Th.
- Tại Bản tự khai ngày 13/8/2024 bà H2 trình bày:
+ Nhà, đt tại thửa đt 331, tờ bản đồ 29 tại thôn 11 Hữu Cung, xã L Ninh,
thành phố Đồng Hới là tài sản riêng của chị Th, chị Th mua của ông L, bà Sen.
Tại Đơn trình bày trước đó nộp cho Tòa án do bà không nhớ rõ nên đã có lời khai
không đúng khi cho rằng nhà, đt là tài sản chung của vợ chồng bà.
+ Xe ô tô Mercedes là tài sản riêng của chị Th, do chị Th mua lại của ông
Nghiêm Xuân H, bà Mai Thị Hương Ng ở Hà Nội.
+ Số tiền 500.000.000 đồng chị Th gửi tiết kiệm là tài sản riêng của chị Th.
Do trước đó chị Th có nhờ vợ chồng bà giữ hộ 500.000.000 đồng nên sau này vợ
5
chồng bà tự nguyện trả lại cho chị Th, ông Q chuyển khoản cho chị Th 02 lần vào
ngày 17/02/2023.
Tại Biên bản hòa giải ngày 12/9/2024 bà H2 trình bày: Bà giữ nguyên ý
kiến trình bày về các tài sản nhà, đt L Ninh, xe ô tô Mercedes theo trình bày tại
Bản tự khai ngày 13/8/2024. Về số tiền 500.000.000 đồng và số tiền 176.400.000
đồng là tiền của ông Q và bà H2 đã chuyển trả nợ cho chị Th, vì trong thời gian ở
nước ngoài ông Q và bà H2 đã nhờ chị Th bỏ tiền ra để chi tiêu một số việc trong
gia đình của ông Q, bà H2.
+ Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Bùi Thị T1 trình bày:
Bà là em gái của ông Q, trong thời gian vợ chồng ông Q bà H2 làm ăn ở
nước ngoài có điện thoại về nhờ bà tìm mua nhà đt ở Đồng Hới. Sau khi bàn bạc,
thống nht thì ông Q, bà H2 đồng ý mua nhà, đt của ông L, bà Sen ở L Ninh với
giá 2.4 tỷ đồng.
Ngày 22/01/2022 bà đặt cọc cho ông L 500 triệu đồng và ngày 24/01/2022
bà chuyển khoản trả đủ số tiền mua nhà. Ông L có bớt 15 triệu đồng. Về nguồn
tiền mua nhà thì ông Q chuyển cho bà 1.605.000.000 đồng, chị Th chuyển cho bà
795.000.000 đồng. Vợ chồng ông Q, bà H2 điện về nói là nhờ chị Th đứng tên
trong Hợp đồng chuyển nhượng và trên giy chứng nhận quyền sử dụng đt. Sau
khi hoàn tt thủ tục mua bán, chị Th đưa lại Giy chứng nhận quyền sử dụng đt
cho bà ct giữ, khi vợ chồng ông Q, bà H2 về nước thì bà đã giao giy chứng nhận
lại cho ông Q. Trong thời gian vợ chồng ông Q còn ở nước ngoài thì bà T1 là
người nhận bàn giao nhà, trông coi và quản lý nhà đt này. Sau khi tham khảo ý
kiến ông Q thì bà T1 đã ký hợp đồng cho chị Trần Thị Thanh M thuê nhà, hàng
quý bà T1 thu tiền thuê nhà bà từ chị M rồi chuyển cho ông Q, từ lúc ông Q về
nước thì ông Q trực tiếp quản lý và thu tiền thuê nhà từ chị M.
Người làm chứng ông Nguyễn Xuân L trình bày:
Tháng 1 năm 2022, vợ chồng ông có chuyển nhượng nhà và đt tại thửa đt
số 331, tờ bản đồ 29, địa chỉ: Thôn 11 Hữu Cung, xã L Ninh, thành phố Đồng
Hới. Theo thỏa thuận ban đầu bên mua là bà Bùi Thị T1, sinh năm 1965, địa chỉ:
Thôn 6 xã L ninh, thành phố Đồng Hới, mua đt cho anh trai là ông Bùi Văn Q
đang làm việc tại Úc. Sau do ông Q không ở nhà nên cử con gái là Trần Thị Th
(con riêng của vợ ông Q) đại diện đứng ra làm thủ tục sang nhượng. Vợ chồng
ông đã ký Hợp đồng chuyển nhượng nhà, đt cho chị Trần Thị Th, sinh năm 1993,
địa chỉ: Phường Đồng Phú, thành phố Đồng Hới. Thủ tục chuyển nhượng thực
hiện tại Văn phòng Công chứng Hải Vượng. Giá mua bán nhà, đt là
2.400.000.000 đồng. Ông L bớt 15.000.000 đồng, ông thực nhận số tiền
2.385.000.000 đồng. Toàn bộ số tiền bán nhà do bà T1 chuyển khoản cho ông. Số
tiền mua bán ghi trên hợp đồng chuyển nhượng 290.000.000 đồng là số tiền không
đúng với số tiền giao dịch mua bán thực tế vì lý do bà Bùi Thị T1 muốn ghi giá
thp hơn để tránh đóng thuế nhà nước.
Người làm chứng chị Trần Thị Thanh M khai: Vợ chồng chị từ Huế ra Đồng
Hới làm ăn sinh sống. Ngày 06/5/2022, anh chị có thuê nhà của ông Q để ở. Thời
điểm đó hợp đồng thuê nhà vợ chồng chị trực tiếp ký với bà T1 và thanh toán tiền
thuê nhà cho bà T1. Từ tháng 4/2023 đến nay, chị M thanh toán tiền thuê nhà cho

6
ông Q. Chị M không biết chị Trần Thị Th là ai và từ khi chị thuê nhà ở cho đến
nay, chị Th chưa đến ngôi nhà này lần nào.
Người làm chứng ông Vũ Quý D trình bày: Năm 2021, ông Bùi Văn Q, sinh
năm 1955, quê Quảng Bình, số Hộ chiếu C8098451, làm việc tại Australia có
mượn ông tổng số tiền 971.400.000 đồng để ông chuyển cho con gái vợ mua đt
tên là Trần Thị Th, só tài khoản 233108518 mở tại Ngân hàng TMCP Việt Nam
Thịnh Vượng. Cụ thể các lần chuyển tiền: Ngày 04/5/2021 chuyển khoản số tiền
177.400.000 đồng, ngày 06/12/2021 chuyển 03 lần, lần 1: 300.000.000 đồng, lần
2: 300.000.000 đồng và lần 3: 194.000.000 đồng. Toàn bộ số tiền được ông D
chuyển từ số tài khoản 19032112234888 Ngân hàng TMCP Kỹ thương Việt Nam
mang tên Vũ Quý D đến số tài khoản 233108518 tại Ngân hàng TMCP Việt Nam
Thịnh Vượng mang tên Trần Thị Th. Kèm theo lời khai ông D cung cp chứng cứ
là chứng từ chuyển khoản, ảnh chụp màn hình điện thoại những lần phần mềm
ứng dụng của Ngân hàng thông báo chuyển khoản thành công.
Tại Bản án số 51/2024/DS-ST ngày 14/11/2024 của Toà án nhân dân thành
phố Đồng Hới đã quyết định:
- Áp dụng khoản 2 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều
39; các điều: 201, 227, 229, 147, 157, 271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm
2015;
- Áp dụng các điều: 117, 119, 163, 164, 166, 280, 357, 463, 468 Bộ luật
dân sự năm 2015;
- Áp dụng các điều: 166, 203 Luật đt đai năm 2013;
- Áp dụng Án lệ số 02/2016/AL được Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân
tối cao thông qua ngày 06/4/2016 và được công bố theo Quyết định số 220/QĐ-
CA ngày 06/4/2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
- Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu,
miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, xử chp nhận
toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Bùi Văn Q về việc “Đòi lại tài
sản” đối với bị đơn chị Trần Thị Th. Buộc chị Trẩn Thị Th phải trả lại cho vợ
chồng ông Bùi Văn Q và bà Đặng Thị H2 các tài sản sau:
- Quyền sử dụng đt, nhà ở và các tài sản khác gắn liền với đt của thửa đt
số 331, tờ bản đồ số 29, địa chỉ tại thôn m Hữu Cung, xã L Ninh, thành phố Đồng
Hới, tỉnh Quảng Bình theo Giy chứng nhận quyền sử dụng đt, quyền sở hữu nhà
ở và tài sản gắn liền với đt số DĐ 177409 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh
Quảng Bình cp ngày 28/2/2023 mang tên chị Trần Thị Th;
- Xe ô tô nhãn hiệu Mercedes 05 chỗ, màu đen, biển kiểm soát: 73A-
306.07, Giy chứng nhận đăng ký xe mang tên Trần Thị Th;
- Số tiền 676.400.000 đồng (Sáu trăm bảy mươi sáu triệu, bốn trăm ngàn
đồng).
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí, về chi phí tố tụng, quyền
kháng cáo cho các đương sự.
Ngày 21/11/2024, người đại diện theo ủy quyền của chị Trần Thị Th: Chị
Bùi Thị Thiên Lý có đơn kháng cáo với nội dung: Kháng cáo toàn bộ Bản án số
117/2024/DS-ST ngày 14/11/2024 của Toà án nhân dân thành phố Đồng Hới với
lý do Bản án của Toà án nhân dân thành phố Đồng Hới tuyên chưa hợp lý, chưa
7
khách quan làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích chính đáng của nguyên đơn. Đề
nghị Tòa án cp phúc thẩm sửa toàn bộ Bản án số 117/2024/DS-ST ngày
14/11/2024 của Toà án nhân dân thành phố Đồng Hới về việc “Tranh chấp đòi
lại tài sản”, bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Bùi Văn Q.
Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện theo ủy quyền của chị Trần Thị Th giữ
nguyên các nội dung trong đơn kháng cáo, đề nghị sửa án sơ thẩm theo hướng
công nhận nhà đt tại thửa đt số 331, tờ bản đồ số 29, địa chỉ tại thôn 11 Hữu
Cung, xã L Ninh, thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình lad tài sản chung của ông
Q, bà H2 và chị Th, trong đó chị Th đóng góp tiền mua nhà 795.000.000 đồng;
Xe ô tô nhãn hiệu Mercedes 05 chỗ, màu đen, biển kiểm soát: 73A- 306.07, Giy
chứng nhận đăng ký xe mang tên Trần Thị Th là của ông Q và chị Th vì chị Th có
góp 150.000.000 đồng để mua xe (chuyển tiền cho ông Q); Số tiền 500.000.000
đồng trước đây ông Q mượn nên trả lại cho chị Th, không phải chị Th mượn của
ông Q; Số tiền 176.000.000 đồng ông Q cho rằng nhờ ông D chuyển cho chị Th
để mua nhà là không phải mà là số tiền của chị Th. Tiền ông Vũ Quý D chuyển
cho chị Th là số tiền năm 2014 ông D mượn nay trả lại, không liên quan đến ông
Q.
Bà H2 trình bày nhà đt nói trên là nhờ ông Vũ Quý D chuyển tiền cho chị
Th để chuyển cho bà T1 mua nhà nên là tài sản chung của vợ chồng. Số tiền còn
lại sau khi chị Th chuyển cho bà T1 mua đt thì trả cho chị Th vì trong suốt quá
trình hai vợ chồng ở nước ngoài chị Th đã chi tiêu vào việc chung của gia đình.
Số tiền 500.000.000 đồng là của chị Th vì trước đây vợ chồng còn nợ chị Th nay
ông Q trả lại. Chiếc xe là của chị Th, số tiền chị Th chuyển cho ông Q mua xe là
bà H2 nhờ Th chuyển.
Ông Q thừa nhận chị Th có chuyển cho ông 150.000.000 đồng nhưng số
tiền này là của vợ chồng, bà H2 nhờ Th chuyển, trích ra trong số tiền của vợ chồng
ông khi ở nước ngoài có gửi cho chị Th (9 lần chuyển, có chi tiết sao kê). Các vn
đề khác giữ nguyên như đã trình bày ở sơ thẩm, đề nghị Tòa án không chp nhận
kháng cáo của bị đơn. Số tiền 176.000.000 đồng còn thừa không liên quan đến số
tiền chị Th chi tiêu vào việc chung của gia đình.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình phát biểu quan điểm giải
quyết vụ án:
Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án, người tiến hành tố tụng, người
tham gia tố tụng đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng Dân sự.
Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử không chp nhận kháng cáo, giữ
nguyên bản án sơ thẩm số 51/2024/DS-ST ngày 14/11/2024 của Tòa án nhân dân
thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên
toà và căn cứ kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về nội dung: Xét kháng cáo của bị đơn đề nghị xem xét bác đơn của
ông Q về việc đòi lại tài sản, Hội đồng xét xử thy:
[1.1]. Về yêu cầu đòi lại thửa đt số 331, tờ bản đồ 29 tại thôn 11 Hữu
8
Cung, xã L Ninh và các tài sản gắn liền với đt, Hội đồng xét xử thy: Qua các
chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án thì giao dịch chuyển nhượng thửa đt trên
là do bà Bùi Thị T1 (em gái ông Q) đứng ra thực hiện: bà T1 là người trực tiếp
chuyển tiền cho ông L 2 lần, lần một chuyển 500.000.000 đồng vào ngày
20/01/2022 và lần hai chuyển 1.885.000.000 đồng vào ngày 24/01/2022, tổng hai
lần 2.385.000.000 đồng. (Giá đt 2.400.000 đồng nhưng bà T1 được ông L bớt
15.000.000 đồng). Bà T1 nhận giy chứng nhận quyền sử dụng đt từ ông L và
giao lại cho Trần Thị Th làm thủ tục công chứng hợp đồng chuyển nhượng và làm
thủ tục cp giy chứng nhận quyền sử dụng đt mang tên Trần Thị Th. Lời trình
bày của bà T1 phù hợp với lời khai của ông Phan Xuân L (là người chuyển nhượng
đt). Sau khi nhận
chuyển nhượng, bà T1 là người quản lý nhà đt, cho người khác thuê nhà, sau đó
khi ông Q về nước thì giao lại cho ông Q quản lý. Chị Th lúc thì khai mua nhà với
giá 290.000.000 đồng và trả tiền cho ông L, lúc thì khai mua với giá 2.385.000.000
đồng, trong đó nhờ bà T1 trả cho ông L 795.000.000 đồng, số tiền còn lại ông Q
và bà H2 cho chị Th để mua. Lời khai của chị Th mâu thuẫn với nhau và mâu
thuẫn với lời khai của ông L, bà T1. Tại phiên tòa, người đại diện của chị Th cho
rằng số tiền ông D chuyển là số tiền trước đây ông D mượn chị Th và sau đó
chuyển trả, không liên quan đến ông Q. Tuy nhiên, đại diện hợp pháp của chị Th
không chứng M được trước đây ông D có nợ chị Th và ông D cũng xác định tiền
ông chuyển cho chị Th là do ông Q nhờ ông D chuyển. Vì vậy, việc chị Th và
người đại diện theo ủy quyền của chị Th cho rằng có góp tiền mua đt, nhà cùng
ông Q, bà H2 795.000.000 đồng là không có căn cứ.
Bản án sơ thẩm chp nhận yêu cầu của ông Q đòi lại quyền sử dụng đt và
tài sản gắn liền tại thửa đt 331, tờ bản đồ 29, diện tích 462,9m
2
tại thôn 11 Hữu
Cung, xã L Ninh đối với chị Th là có căn cứ.
[1.2]. Đối với yêu cầu của ông Q đòi lại chiếc xe Mercedes mang BKS 73A-
306.07 đăng ký xe tên Trần Thị Th, Hội đồng xét xử thy: chiếc xe nói trên trước
đây là của ông Nguyên Xuân H và bà Mai Thị Hương Ng, trú tại số m phường L,
quận Đ, Hà Nội. Qua môi giới, ông Q biết được và thoả thuận mua bán với bà
Ngân. Ông Q là người đã chuyển cho bà Ngân số tiền 560.000.000 đồng, chuyển
2 lần (lần 1 chuyển 290.000.000 đồng vào ngày 04/01/2023 và lần 2 chuyển
270.000.000 đồng vào ngày 05/01/2023).
Theo chị Th thì chị mua xe bằng nguồn tiền riêng theo Hợp đồng mua xe ô
tô đã được công chứng tại Văn phòng công chứng Nguyễn Tiến V, thành phố Hà
Nội. Lời khai về giá xe, cách thức chuyển tiền của chị Th là không phù hợp với
nhau, không phù hợp với các chứng cứ khác như chứng cứ ông Q chuyển khoản,
vi bằng về tin nhắn trò chuyện giữa ông Q với chị Th về việc mua xe. Tại phiên
tòa phúc thẩm, đại diện hợp pháp của bị đơn cho rằng chiếc xe là tiền của chị Th
góp với ông Q 150.000.000 đồng. Bà H2 thừa nhận 150 triệu mua xe là tiền bà
H2 nhờ chị Th chuyển cho ông Q. Ông Q trình bày số tiền này là tiền trước đây
ông Q ở nước ngoài chuyển cho chị Th, sau đó chị Th đã đưa cho bà H2. Do không
có tài khoản nên khi mua xe bà H2 đã nhờ chị Th chuyển cho ông Q. Vì vậy, án
sơ thẩm xét xử xác định ông Q là người bỏ tiền mua xe và nhờ chị Th đứng tên
nên chp nhận yêu cầu của ông Q buộc chị Th trả lại xe là có căn cứ.

9
[1.3] Về yêu cầu chị Th trả lại số tiền 676.400.000 đồng trong đó có
500.000.000 đồng ông Q cho chị Th mượn (giao dịch bằng hình thức chuyển
khoản) để chị Th gửi tiết kiệm, chứng M năng lực tài chính làm hồ sơ đi nước
ngoài và 176.400.000 đồng là số tiền còn lại trong tổng số tiền 971.000.000 đồng
ông Q nhờ ông D chuyển cho chị Th, chị Th đã chuyển cho bà T1 mua nhà với số
tiền 971.400.000 đồng, còn 176.400.000 đồng, Hội đồng xét xử thy: Tại công
văn số 141/VPB ngày 26/8/2024 của Ngân hàng VPBank, chi nhánh tỉnh Quảng
Bình thì ông Vũ Quý D đã chuyển vào tài khoản của chị Trần Thị Th tổng số tiền
971.400.000 đồng vào ngày 04/5/2021 và ngày 06/12/2021.
Chị Trần Thị Th đã 2 lần chuyển tiền cho bà T1 với tổng cộng 795.000.000
đồng; tổng tiền ông Q chuyển cho chị Th là 500.000.000 đồng (chuyển 02 lần vào
ngày 17/02/2023 và ngày 20/02/2023) , chị Th đã rút 500.000.000 đồng và gửi
tiết kiệm. Chị Th thừa nhận có nhận tiền ông Q chuyển nhưng cho rằng đó là số
tiền ông Q bà H2 cho để tiêu dùng cá nhân. Chị Th cũng thừa nhận có nhận tiền
từ ông D nhưng cho rằng có quan hệ giao dịch riêng, không liên quan đến ông Q
nhưng không chứng M được đó là giao dịch dân sự gì và ông D trình bày ông Q
nhờ ông D chuyển tiền cho chị Th. Lời trình bày của ông D và ông Q phù hợp với
nhau và phù hợp với chứng cứ ông D chuyển tiền vào tài khoản của chị Th.
Bà H2 cho rằng số tiền 500.000.000 đồng và 176.400.000 đồng là tiền ông
Q, bà H2 trả cho chị Th vì trước đây có nhờ chị Th chi tiêu một số công việc gia
đình. Lời trình bày của bà H2 mâu thuẫn với trình bày của chị Th. Bị đơn cũng
không chứng M được việc ông Q, bà H2 cho khoản tiền 500.000.0000 đồng,
không chứng M được giữa chị Th với ông D có quan hệ giao dịch dân sự.
Căn cứ các tài liệu, xác định trong thời gian ở nước ngoài, ông Q có nhờ
ông Vũ Quý D chuyển cho chị Th số tiền 971.000.000 đồng. Trong đó chị Th đã
chuyển cho bà T1 để mua nhà đt cho ông Q với số tiền 795.000.000, số còn lại
176.400.000 đồng. Số tiền 500.000.000 đồng chị Th nhận từ ông Q chị Th không
chứng M được trước đây ông Q, bà H2 có nợ chị Th, cũng không chứng M được
việc tặng cho. Án sơ thẩm buộc chị Th trả lại số tiền 676.400.000 đồng cho ông
Q là có căn cứ.
Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử thy kháng cáo của bị đơn về
việc sửa án sơ thẩm là không có căn cứ.
[2]. Về án phí dân sự phúc thẩm: Do kháng cáo không được chp nhận nên
bị đơn phải chịu án phí dân sự phúc thẩm theo luật định.
[3] Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị
kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
1. Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng Dân sự, không chp nhận kháng
cáo của bị đơn chị Trần Thị Th, giữ nguyên bản án sơ thẩm số 51/2024/DS-ST
ngày 14/11/2024 của Tòa án nhân dân thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình.
2. Về án phí: Chị Trần Thị Th phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự phúc
thẩm nhưng được khu trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng chị Th đã
10
nôp tại Biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0001529 ngày 02/12/2024
tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình.
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị
có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo,kháng nghị.
4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- TAND CC tại Đà Nẵng;
- VKSND tỉnh Quảng Bình
- Chi cục THADS TP Đồng Hới;
- TAND TP Đồng Hới;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án, Lưu Tòa Dân sự..
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(đã ký)
Từ Thị Hải Dương
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 04/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 02/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 31/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 27/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 24/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 21/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 21/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 20/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 20/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 20/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 19/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 19/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 18/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 17/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 14/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 11/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 11/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 06/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm