Bản án số 01/2025/DS-PT ngày 09/04/2025 của TAND tỉnh Bắc Kạn về tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 01/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 01/2025/DS-PT ngày 09/04/2025 của TAND tỉnh Bắc Kạn về tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Bắc Kạn
Số hiệu: 01/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 09/04/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Không chấp nhận toàn bộ kháng cáo của bị đơn bà Mã Thị D1. Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH BẮC KẠN
Bản án số: 01/2025/DS-PT
Ngày: 09/4/2025
V/v: Tranh chấp đòi lại Giấy
chứng nhận QSD đất
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẮC KẠN
Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Vi Thị Tuyết Mai
Các Thẩm phán: Lý Thị Thúy
Ông Hoàng Hữu Truyền
Thư phiên tòa: Ông Nguyễn Hoàng Đạt– Thư Tòa án nhân dân
tỉnh Bắc Kạn.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Kạn tham gia phiên t:
Lê Thị Dịu - Kiểm sát viên.
Ngày 09 tháng 4 năm 2025 tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân tỉnh
Bắc Kạn, xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số:10/2024/TLPT- DS
ngày 11/12/2024, về việc “Tranh chấp đòi lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất”.
Do bản án dân sự thẩm số: 05/2024/DS-ST ngày 29 tháng 10 năm
2024 của Tòa án nhân dân huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:01/2025/QĐ-PT ngày10 tháng 02
năm 2025, giữa các đương sự:
*Nguyên đơn: Th D, sinh năm: 1945. Có mặt
Địa ch: T A, th trn B, huyn C, tnh Bc Kn.
Người bo v quyn và li ích hp pháp của nguyên đơn: Ông Mai Xuân
H- Luật sư thuộc Đoàn Luật sư thành phố H. Có mt
*B đơn: Mã Th D1, sinh năm 1968. Có mặt
Địa ch: Thôn B, th trn B, huyn C, tnh Bc Kn.
Người bo v quyn li ích hp pháp ca b đơn: Lưu Thúy H1-
Luật sư của Văn phòng L thuc Đoàn Luật sư tỉnh T. Có mt
2
* Người kháng cáo: Bị đơn bà Mã Th D1
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo bản án thẩm các tài liệu trong hồ vụ án thì nội dung vụ
án được tóm tắt như sau:
Theo đơn khởi kiện, bản tự khai, Biên bản lấy lời khai tại phiên a
nguyên đơn Hà Thị D trình bày:
Năm 2013, hộ gia đình được Nhà nước cấp đổi 07 (bảy) Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất (sổ đỏ), đối với các thửa đất sau:
- Giấy chứng nhận QSD đất số BS 108063 cấp quyền sử dụng thửa đất
279, tờ bản đồ số 61, diện tích 1126,3m2, đất chuyên trồng lúa nước, địa chỉ Đ.
- Giấy chứng nhận QSD đất số BS 108064 cấp quyền sử dụng thửa đất
359, tờ bản đồ số 61, diện tích 1144,9m2, đất chuyên trồng lúa nước, địa chỉ Đ.
- Giấy chứng nhận QSD đất số BS 108065 cấp quyền sử dụng thửa đất
384, tờ bản đồ số 61, diện tích 98,6m
2
,đất trồng lúa nước còn lại, địa chỉ Đ.
- Giấy chứng nhận QSD đất số BS 108066 cấp quyền sử dụng thửa đất
392, tờ bản đồ số 61, diện tích 203,4 m
2
, đất trồng lúa nước còn lại, địa chỉ Đ.
- Giấy chứng nhận QSD đất số BS 108067 cấp quyền sử dụng thửa đất
393, tờ bản đồ số 61, diện tích 170,8 m
2
, đất trồng lúa nước còn lại, địa chỉ Đ.
- Giấy CNQSDĐ số BS 108068 cấp QSD thửa đất 122, tờ bản đồ số 64,
diện tích 842,6 m
2
, đất chuyên trồng lúa nước,địa chỉ: Đ,
- Giấy chứng nhận QSD số BS 108069 cấp QSD thửa đất 149, tờ bản đồ
số 64, diện tích 664,0 m
2
, đất chuyên trồng lúa nước, địa chỉ Đồng Nà Thôm P.
Tất cả các thửa đất trên đều do UBND huyện C cấp ngày 06/12/2013 cho
hộ bà Hà Thị D có địa chỉ tại thị trấn B, huyện C, tỉnh Bắc Kạn.
Sau khi được cấp Giấy chứng nhận QSD các thửa đất nêu trên gia đình bà
sử dụng đất ổn định, không tranh chấp, các giấy chứng nhận QSD đất được
cất trong tủ của gia đình. Đến khoảng tháng 9/2022, phát hiện mất các giấy
chứng nhận QSD đất trên. đã trình báo UBND thị trấn B, huyện C, tỉnh Bắc
Kạn, sau khi trình báo, được biết Thị D1 (con gái của bà) đã quản lý,
giữ toàn bộ các giấy chứng nhận QSD đất trên. 07 (bảy) thửa đất được cấp QSD
đất nêu trên trên tài sản của được nhận thừa kế từ bố mẹ, chủ hộ nên
được đứng tên trên Giấy chứng nhận QSD đất.
Do D1 tự ý quản , cất giữ 07 (bảy) giấy chứng nhận QSD đất của
nên đã gây khó khăn và cản trở bà thực hiện quyền của chủ sử dụng đất như
thực hiện các giao dịch dân sự về chuyển nhượng, thế chấp…QSD đất. vậy
yêu cầu Thị D1 phải trả lại 07 (bảy) giấy chứng nhận QSD đất nêu
trên cho bà. Ngoài ra bà không có yêu cầu gì khác.
3
Quá trình tố tụng bị đơn Mã Thị D1 trình bày:
con gái cả của D, năm 1991 kết hôn với ông Văn T, sau
khi kết hôn vợ chồng chung sống cùng hộ gia đình với bà D tại tổ A, thị trấn
B, huyện C, tỉnh Bắc Kạn, năm 2009 chồng chết, năm 2017 cắt hộ khẩu
chuyển về sinh sống tại thôn B, thị trấn B, huyện C, tỉnh Bắc Kạn đ lo
hương khói cho ông Văn H2 (bố đẻ của - chết năm 2011) nhưng thực tế
bà vẫn sinh sống ở cả hai nơi, chỉ đến khiD nộp đơn khởi kiện bà lên Toà án
bà mới về ở hẳn tại thôn B, nhưng mọi việc của thôn B1 tổ 11A bà đều tham
gia đầy đủ.
Năm 1994 các thửa đất trên được cấp giấy chứng nhận QSD đất lần đầu
cho hộ gia đình bà D, thời điểm đó hộ bà D gồm có: Bà D, vợ chồng bà, các con
D là Thị D2, Thị T1 01 con của khi đó còn nhỏ. Năm 2013
được cấp đổi, vẫn cấp cho hộ bà Thị D lúc đó hộ D gồm D, bà, hai
con của bà T1 lúc đó còn nhỏ. Tất cả các thửa đất được cấp giấy chứng
nhận QSD đất nêu trên, người trực tiếp canh tác từ trước đến nay. Từ khi
được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lần đầu, bà D đã giao cho bà quản
lý vì bà là con lớn ở cùngD chịu trách nhiệm lo toan mọi việc trong gia đình
hội, D giao cho bà đi vay mượn tiền để lo cho các em, giao đất cho
sử dụng, giao giấy chứng nhận QSD đất cho quản , cầm giữ. Việc giao
giấy tờ cho bà, các em của bà đều biết và không ai có ý kiến gì từ trước đến nay.
Nay bà D khởi kiện, yêu cầu trả lại các giấy chứng nhận QSD đất nêu
trên cho bà D, bà không nhất trí vì bà đã vất vả vay mượn tiền rồi trả nợ cho các
em, nuôi dưỡng con cái cho các em từ trước đến nay nhưng không được các em
mcông nhận, mẹ và các em cũng không chịu trả cho các khoản tiền
đã vay trả nhộ mọi người. Nay bà yêu cầu D, D3, T1 phải trả
tiền cho bà thì bà mới nhất trí trả lại các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nêu
trên cho bà D. Các khoản tiền gồm:
- Năm 2009 D vay Ngân hàng N, chi nhánh huyện C, tỉnh Bắc Kạn số
tiền 50.000.000đ (năm mươi triệu đồng), mục đích vay tiền cho Thị D3
(con gái bà D, em gái bà) sử dụng để đi nước ngoài (bà D3 hiện đang sinh sống
Đức không địa chỉ). người thanh toán toàn bộ tiền gốc lãi phát
sinh cho Ngân hàng. Nay bà yêu cầu bà D phải thanh toán cho bà số tiền gốc và
lãi mà bà đã trả Ngân hàng.
- Năm 2014 Thị T1 (con gái D, em gái bà) vay Ngân hàng N,
chi nhánh huyện C, tỉnh Bắc Kạn số tiền 250.000.000đ (hai trăm năm mươi
triệu đồng). Số tiền này sau đó D người trả gốc lãi cho Ngân
hàng, khoản vay này không yêu cầu giải quyết hiện nay vẫn giữ giấy
chứng nhận QSD đất của bà T1.
- Năm 2014 thực hiện ý kiến của D, đã vay của Trịnh Thị H3
(trú tại: Tổ B, thị trấn B, huyện C, tỉnh Bắc Kạn) số tiền 350.000.000đ (ba trăm
năm mươi triệu đồng) lãi tính theo lãi Ngân hàng 0,85%/năm, mục đích
vay cho Thị T1 sử dụng đi Đức. người trả gốc lãi cho H3.
4
Nay yêu cầu D phải trả cho số tiền 350.000.000đ (ba trăm năm mươi
triệu đồng) tiền gốc lãi phát sinh theo lãi suất Ngân hàng từ năm 2014 -
2015.
- Năm 2016 D vay Ngân hàng N, chi nhánh huyện C, tỉnh Bắc Kạn số
tiền 950.000.000đ (chín trăm năm mươi triệu đồng. Khoản vay này phải trả
cho Ngân hàng tiền gốc 200.000.000đ (hai trăm triệu đồng) tiền lãi tkhi
vay đến lúc tất toán xong khoảng 700.000.000đ (bảy trăm triệu đồng). Nay
yêu cầu D phải thanh toán cho tổng số tiền 700.000.000đ (bảy trăm triệu
đồng) mà bà đã trả cho Ngân hàng.
- Năm 2019 theo yêu cầu của D, tiếp tục vay của bà Trịnh Thị H3
số tiền 130.000.000đ (một trăm ba mươi triệu đồng), mục đích vay cho
Thị D2 (con gái bà D, em gái bà) sử dụng. Nay bà yêu cầu D phải trả cho bà
số tiền trên.
- Ngoài ra n trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng các cháu con của bà
Mã Thị D3 và bà Mã Thị T1. Nay bà yêu cầu bà Thị D3, bà Mã Thị T1 phải
trả các chi phí nuôi dưỡng, chăm sóc cho bà, cụ thể như sau:
+ Cháu ờng Đức T2 (con Thị D3), đã chăm sóc, nuôi dưỡng
từ năm 2007 đến năm 2008. Bà yêu cầu bà D3 phải trả tiền công chăm sóc, nuôi
dưỡng cho với số tiền 2.000.000đ/tháng x 01 năm(12 tháng) = 24.000.000đ
(hai mươi tư triệu đồng).
+ Cháu Đỗ Văn B, Đỗ Trung S (con bà Mã Thị T1), bà đã chăm sóc, nuôi
dưỡng từ năm 2014 đến năm 2019. yêu cầu T1 phải trả tiền công chăm
sóc, nuôi dưỡng cho bà với số tiền 2.000.000đ/tháng/1 cháu x 2 cháu x 5 năm(
60 tháng) = 200.000.000đ (hai trăm triệu đồng).
+ Cháu Nguyễn Khánh K (con Thị D3), đã chăm sóc, nuôi
dưỡng từ tháng 6/2020 đến tháng 6/2023. yêu cầu D3 phải trả tiền công
chăm c, nuôi dưỡng với số tiền 2.000.000đ/tháng x 03 năm (36 tháng) =
72.000.000đ (bảy mươi hai triệu đồng).
Việc bà D bảo bà đi vay tiền để lo cho các em không có ai biết, không
người làm chứng đều là người trong nhà. Bà xác nhận hiện nay bà đang quản
lý, giữ 07 (bảy) giấy chứng nhận QSD đất mà D yêu cầu trả, 07 (bảy) giấy
chứng nhận QSD đất cũng không được bảo đảm cho các khoản vay trên, quá
trình giữ các giấy chứng nhận QSD đất trên, không được cản trở việc sử
dụng đất của bà D đối với các thửa đấttrong 07 (bảy) giấy chứng nhận QSD
đất trên.
Tại Bản án dân sự thẩm số 05/2024/DS-ST ngày 29 tháng 10 năm
2024 của Tòa án nhân dân huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn Căn cứ vào: Áp dụng
khoản 2 Điều 26, khoản 1 Điều 35, Điều 39, Điều 147, điểm b khoản 2 Điều
227, khoản 3 Điều 228, 271, 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 164, 166, 169
của Bộ luật Dân sự; Điều 100, khoản 7 Điều 166 của Luật Đất đai năm 2013;
Điều 26, 134 của Luật Đất đai năm 2024; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14
5
ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn,
giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Hà Thị D về việc khởi kiện đòi tài
sản giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với Thị D1. Buộc
Thị D1 phải trả lại cho Thị D bản chính các giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất sau:
- Giấy chứng nhận QSD đất số BS 108063 do UBND huyện C cấp ngày
06/12/2013 đứng tên hộ Thị D, thửa đất 279, diện tích 1126,3m
2
, tờ bản
đồ số 61, Đ, thị trấn B, huyện C, tỉnh Bắc Kạn.
- Giấy chứng nhận QSD đất số BS 108064 do UBND huyện C cấp ngày
06/12/2013 đứng tên hộ Thị D, thửa đất 359, diện tích 1144,9m
2
, tờ bản
đồ số 61, Đ, thị trấn B, huyện C, tỉnh Bắc Kạn.
- Giấy chứng nhận QSD đất số BS 108065 do UBND huyện C cấp ngày
06/12/2013 đứng tên hộ Hà Thị D, thửa đất 384, diện tích 98, 6m
2
, tờ bản đồ
số 61, Đ, thị trấn B, huyện C, tỉnh Bắc Kạn.
- Giấy chứng nhận QSD đất số BS 108066 do UBND huyện C cấp ngày
06/12/2013 đứng tên hộ Thị D, thửa đất 392, diện tích 203,4 m
2
, tờ bản
đồ số 61, Đ, thị trấn B, huyện C, tỉnh Bắc Kạn.
- Giấy chứng nhận QSD đất số BS 108067 do UBND huyện C cấp ngày
06/12/2013 đứng tên hộ bà Thị D, thửa đất 393, diện tích 170,8 m
2
, tờ bản
đồ số 61, Đ, thị trấn B, huyện C, tỉnh Bắc Kạn.
- Giấy chứng nhận QSD đất số BS 108068 do UBND huyện C cấp ngày
06/12/2013 đứng tên hộ bà Thị D, thửa đất 122, diện tích 842,6 m
2
, tờ bản
đồ số 64, Đ, thị trấn B, huyện C, tỉnh Bắc Kạn.
- Giấy chứng nhận QSD đất số BS 108069 do UBND huyện C cấp ngày
06/12/2013 đứng tên hộ bà Thị D, thửa đất 149, diện tích 664,0 m
2
, tờ bản
đồ số 64, Đ, thị trấn B, huyện C, tỉnh Bắc Kạn.
Ngoài ra bản án thẩm còn tuyên ván phí, quyền kháng cáo của các
đương sự theo quy định của pháp luật.
Ngày 18/11/2024, bị đơn bà Thị D1 kháng cáo toàn bộ bản án
thẩm đnghị Tòa án cấp phúc thẩm Hủy bản án thẩm với do: Quá trình
giải quyết vụ án Tòa án cấp thẩm không thụ yêu cầu phản tố của bị đơn,
nguyên đơn không t chức họp gia đình thống nhất các khoản nợ trước khi khởi
kiện ra Tòa án, nguyên đơn chỉ là thành viên hộ gia đình được cấp QSD đất nên
không có quyền định đoạt cả 07 giấy chứng nhận QSD đất.
Tại phiên tòa phúc thẩm
Bị đơn giữ nguyên kháng cáo, không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi
kiện của nguyên đơn.
6
Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn đề nghị HĐXX Hủy
bản án sơ thẩm với lý do: Cấp sơ thẩm giải quyết vụ án không đúng thẩm quyền
vì đây là vụ án có yếu tố nước ngoài; Không đúng quan hệ pháp luật tranh chấp;
Chưa làm quyền của các thành viên đối với quyền sử dụng đất của hộ gia
đình; Việc xác định yêu cầu của bị đơn đối với nguyên đơn các thành viên
trong hộ gia đình về việc trả các khoản tiền vay, tiền công chăm sóc, nuôi
dưỡng không phải yêu cầu phản tố là chưa xem xét toàn diện vụ án.
Nguyên đơn không nhất trí nội dung kháng cáo của bị đơn, đề nghị giữ
nguyên bản án sơ thẩm.
Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn đề nghị HĐXX
bác kháng cáo của bị đơn, ginguyên bản án thẩm với do: Việc họp gia
đình cũng như làm rõ các khoản nợ không liên quan đến vụ án; Ý kiến của
UBND thị trấn B tại Biên bản làm việc lời khuyên đối với nguyên đơn, b
đơn không phải là yêu cầu bắt buộc.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Kạn phát biểu quan điểm:
Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên
tòa, và việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng trong quá trình giải
quyết vụ án, đảm bảo đúng quy định của pháp luật; Về đường lối giải quyết vụ
án, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị đơn, giữ nguyên
bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Chợ Đồn.
NHN ĐNH CA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cu các tài liu chng c có trong h vụ án được thm
tra tại phiên tòa căn c vào kết qu tranh lun ti phiên tòa, Hi đồng xét x
nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng:
[1.1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Quá trình khởi kiện, thụ lý vụ án
Tòa án cấp thẩm xác định quan hệ pháp luật tranh chấp yêu cầu chấm dứt
hành vi cản trở trái pháp luật đối với QSD đất trả lại lại giấy chứng nhận
QSD đất, tuy nhiên trong quá trình giải quyết vụ án, các đương sự thừa nhận, bị
đơn không hành vi cản trở trái pháp luật đối với việc thực hiện QSD đất của
nguyên đơn, nguyên đơn chỉ yêu cầu bị đơn trả lại 07 (bảy) giấy chứng nhận
QSD đất cho nguyên đơn, ngoài ra không có yêu cầu gì khác nên Tòa án cấp sơ
thẩm xác định quan hệ pháp luật tranh chấp trong vụ án tranh chấp đòi lại
giấy chứng nhận QSD đất là đúng quy định của pháp luật.
[1.2] Về việc xét xvắng mặt bị đơn tại phiên tòa thẩm: Quá trình
giải quyết Tòa án cấp thẩm đã triệu tập hợp lệ bị đơn lần 2 nhưng bị đơn
vắng mặt và có đơn xin nghỉ ngày 27/10/2024 gửi Tòa án, qua xem xét thấy nội
dung đơn không thuộc trường hợp bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan nên
Tòa án cấp sơ thẩm xét xử vắng mặt bị đơn là đúng quy định của pháp luật.
[1.3] Về c thủ tục tố tụng khác: Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án
cấp thẩm đã xác định đúng thẩm quyền giải quyết, xác định người tham gia
7
tố tụng đúng quy định của pháp luật. Đơn kháng cáo của bị đơn trong hạn luật
định được xem xét theo trình tự phúc thẩm.
[2] Về nội dung: Xem xét yêu cầu kháng cáo của bị đơn:
[2.1] Kháng cáo việc Tòa án cấp thẩm không thụ yêu cầu phản tố
của bị đơn, Hội đồng xét xử thấy: Ngày 9/8/2024 bị đơn có đơn yêu cầu phản tố
bổ sung giữ nguyên nội dung đơn yêu cầu phản tố ngày 5/8/2024, nội dung đơn
phản tố ngày 5/8/2024, bị đơn trình bày: Ruộng tài sản chung của gia đình,
nguyên đơn chỉ người đứng tên trên giấy chứng nhận QSD đất, theo luật thì
cả hộ gia đình đều có quyền quyết định sử dụng, bị đơn cũng là thành viên trong
gia đình nhưng lại bị nguyên đơn cấm canh tác nguyên đơn đòi quyền định
đoạt cả 7 giấy chứng nhận QSD đất, thế bị đơn không nhất ttrả lại giấy
chứng nhận QSD đất cho nguyên đơn khi nội bộ gia đình chưa thống nhất cách
giải quyết.
Xem xét đơn phản tố ngày 5/8/2024 của bị đơn, Hội đồng xét xử thấy:
Nội dung đơn không phợp với quy định tại Điều 200/BLTTDS do vậy việc
Tòa án cấp thẩm không thụ giải quyết yêu cầu phản tố của bị đơn phù
hợp, đúng quy định của pháp luật. Do vậy kháng cáo của bị đơn là không có
sở để xem xét. Cần bác kháng cáo.
[2.2] Kháng cáo việc Tòa án cấp thẩm th giải quyết vụ án khi
nguyên đơn không tổ chức họp gia đình thống nhất các khoản nợ trước khi khởi
kiện ra Tòa án, nguyên đơn chỉ là thành viên hộ gia đình được cấp QSD đất nên
không có quyền định đoạt cả 7 giấy chứng nhận QSD đất.
Hội đồng xét xử thấy:
Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn phải trả lại cho nguyên đơn 07
(bảy) giấy chứng nhận QSD đất mà hộ nguyên đơn được Nhà nước cấp đổi năm
2013, gồm giấy chứng nhận QSD đất số: BS 108063 cấp quyền sử dụng thửa
đất 279, tờ bản đồ số 61, diện tích 1126,3m2, địa chỉ Đ; BS 108064 cấp quyền
sử dụng thửa đất 359, tờ bản đ số 61, diện tích 1144,9m2, địa chỉ Đ; BS
108065 cấp quyền sử dụng thửa đất 384, tờ bản đồ số 61, diện tích 98,6m
2
, địa
chỉ Đ; BS 108066 cấp quyền sử dụng thửa đất 392, tờ bản đồ số 61, diện tích
203,4 m
2
, địa chỉ Đ; BS 108067 cấp quyền sử dụng thửa đất 393, tờ bản đồ số
61, diện tích 170,8 m
2
, địa chỉ Đ; BS 108068 cấp QSD thửa đất 122, tờ bản đồ
số 64, diện tích 842,6 m
2
, địa chỉ: Đồng Thôm P; BS 108069 cấp QSD thửa
đất 149, tờ bản đồ số 64, diện tích 664,0 m
2
, địa chỉ Đồng Nà Thôm P.
Quá trình giải quyết vụ án bị đơn thừa nhận hiện nay đang quản lý, giữ
07 giấy chứng nhận QSD đất nguyên đơn yêu cầu trả, nhưng bị đơn không
nhất trí trả các giấy chứng nhận QSD đất cho nguyên đơn với lý do nguyên đơn
các con của nguyên đơn chưa trả cho bđơn các khoản tiền bị đơn đã
vay, trả nhộ mọi người cũng như tiền công chăm sóc, nuôi dưỡng các cháu
của nguyên đơn.
Hội đồng xét xử thấy:
8
Khoản 1 Điều 105/Bộ luật dân sự quy định: “Tài sản vật, tiền, giấy tờ
có giá và quyền tài sản”
Theo từ điển tiếng Việt thì: Vật cái hình khối mà con người thể
nhận biết được hoặc vật là một bộ phận của thế giới vật chất có thể đáp ứng nhu
cầu của con người và con người có thể kiểm soát được.
Giấy chứng nhận QSD đất là một bộ phận của thế giới vật chất được phát
hành ra để đáp ứng nhu cầu của con người và con người có thể kiểm soát được.
Điều 164/ Bộ luật dân sự quy định:
1…
2. Chủ sở hữu… đối với tài sản có quyền yêu cầu a án…buộc người có
hành vi xâm phạm quyền phải trả lại tài sản..”
Điều 166/ Bộ luật dân sự quy định:
1.Chủ sở hữu… đối với tài sản quyền đòi lại tài sản từ người chiếm
hữu, người sử dụng tài sản, người được lợi về tài sản không căn cứ pháp
luật.”
Điều 92/Bộ luật tố tụng dân sự quy định những tình tiết sự kiện không
phải chứng minh: Một bên đương sthừa nhận hoặc không phản đối những
tình tiết, sự kiện, tài liệu, văn bản, kết luận của quan chuyên môn bên
đương sự kia đưa ra thì bên đương sự đó không phải chứng minh”.
Quá trình giải quyết vụ án cả nguyên đơn và bị đơn đều thừa nhận: Từ
khi được Nnước cấp đổi các giấy chứng nhận QSD đất vào năm 2013 thì tất
cả 07 (bảy) giấy chứng nhận QSD đất nêu trên đều được cấp cho hộ Thị
D do bà D đứng tên chủ hộ trong giấy chứng nhận QSD đất. Cả 07 (bảy)
giấy chứng nhận QSD đất hiện nay đều do bị đơn đang quản lý. Theo quy định
của Luật Đất đai năm 2013, Thông số 23/2014/TT- BTNMT ngày 19/5/2014
của Bộ T3 quy định về giấy chứng nhận QSD đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản
khác gắn liền với đất thì chủ hộ được đứng tên trên giấy chứng nhận QSD đất
(Điểm c, khoản 1 Điều 5/Thông số 23/2014/TT- BTNMT), đại diện hộ gia
đình các giấy tờ khi thực hiện thủ tục hành chính về đất đai. Do đó đthuận
lợi khi thực hiện các quyền đại diện của chủ hộ về đất đai, nguyên đơn yêu cầu
được quản lý các giấy chứng nhận QSD đất là phù hợp.
Căn cứ vào các quy định của pháp luật u trên Bản án thẩm đã chấp
nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc bị đơn phải trả cho nguyên đơn
bản chính 07 (bảy) giấy chứng nhận QSD đất do nguyên đơn đứng tên chủ hộ
mà bị đơn đang quản lý, cầm giữ có căn cứ, đúng quy định của pháp luật. Do
vậy kháng cáo của bị đơn về việc không nhất trí trả giấy chứng nhận QSD đất
cho nguyên đơn nguyên đơn chỉ thành viên hộ gia đình được cấp QSD đất
nên không quyền định đoạt cả 7 Giấy chứng nhận QSD đất không căn
cứ để xem xét, cần bác kháng cáo.
Việc bị đơn yêu cầu nguyên đơn phải trả cho bị đơn các khoản tiền gồm:
Tiền gốc i của khoản tiền bà D vay Ngân hàng N, chi nhánh huyện C, tỉnh
9
Bắc Kạn năm 2009, số tiền 50.000.000đ (năm mươi triệu đồng); G lãi của
khoản vay Trịnh Thị H3 (trú tại: Tổ B, thị trấn B, huyện C, tỉnh Bắc Kạn)
350.000.000đ (ba trăm năm ơi triệu đồng; G lãi của khoản tiền D vay
Ngân hàng N, chi nhánh huyện C, tỉnh Bắc Kạn năm 2016 là 700.000.000đ (bảy
trăm triệu đồng); Khoản vay bà Trịnh Thị H3 năm 2019 130.000.000đ (một
trăm ba mươi triệu đồng). Yêu cầu bà Mã Thị D3, bà Mã Thị T1 phải trả các chi
phí nuôi dưỡng, chăm sóc cho bị đơn gồm: Công chăm c, nuôi dưỡng cháu
Lường Đức T2 (con Thị D3) tổng số tiền 24.000.000đ (hai mươi triệu
đồng); C chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Nguyễn Khánh K (con Thị D3)
tổng số tiền 72.000.000đ (bảy mươi hai triệu đồng); C chăm sóc, nuôi dưỡng
cháu Đỗ Văn B, Đỗ Trung S (con Thị T1), số tiền 200.000.000đ (hai
trăm triệu đồng) thì bị đơn mới trả lại các Giấy chứng nhận QSD đất cho
nguyên đơn, Hội đồng xét xử thấy: Đây những nội dung không liên quan đến
vụ án nên Tòa án cấp sơ thẩm không xem xét, giải quyết là có căn cứ, đúng quy
định của pháp luật.
Quá trình giải quyết tại cấp phúc thẩm bị đơn cung cấp Biên bản làm việc
ngày 25/01/2024 tại UBND thtrấn B, huyện C cho rằng văn bản trên yêu
cầu nguyên đơn phải giải quyết nội bộ trong gia đình nhưng nguyên đơn không
thưc hiện nội dung trên Tòa án đã thụ , xét xkhông đúng quy định,
Hội đồng xét xử thấy: Biên bản làm việc ngày 25/01/2024 của UBND thị trấn
B, huyện C không phải Quyết định giải quyết tranh chấp hiệu lực pháp
luật của cơ quan có thẩm quyền, do vậy nguyên đơn quyền khởi kiện tại Tòa
án để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình việc Tòa án cấp thẩm thụ
lý, giải quyết vụ án là đúng quy định của pháp luật.
Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cấp thẩm đã thu thập bổ sung một
số tài liệu chứng cứ sau khi đã mở phiên họp công khai chứng cứ hòa giải
nhưng không mở phiên họp công khai chứng cứ tiếp theo để công khai các tài
liệu chng cứ đã bổ sung, tại phiên tòa thẩm Hội đồng xét xử cũng không
công khai các tài liệu chứng cứ bổ sung trên. Việc Tòa án cấp thẩm không
ng khai các tài liệu chứng cứ được thu thập bổ sung làm ảnh hưởng đến
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự; Tại đơn khởi kiện nguyên đơn yêu cầu
bị đơn chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật đối với QSD đất của nguyên đơn
yêu cầu bị đơn trả lại lại giấy chứng nhận QSD đất cho nguyên đơn, Tòa án
cấp thẩm đã thụ giải quyết cả hai yêu cầu trên của nguyên đơn, tại phiên
họp công khai chứng cứ hòa giải, nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi
kiện, tại phiên tòa thẩm nguyên đơn yêu cầu bị đơn trlại lại giấy chứng
nhận QSD đất. Bản án sơ thẩm xem xét, đánh giá yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn về việc trả lại giấy chứng nhận QSD đất nhưng không đánh giá yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn về việc buộc bị đơn chấm dứt hành vi cản trở trái
pháp luật trong khi yêu cầu này đã được Tòa án cấp sơ thẩm thụ lý là thiếu sót.
Tuy nhiên những vi phạm thiếu sót nêu trên không làm thay đổi bản chất vụ
án, do vậy Hội đồng xét xử thấy không cần thiết phải hủy bản án thẩm
yêu cầu Tòa án cấp sơ thẩm nghiêm túc rút kinh nghiệm là phù hợp.
10
Từ những phân tích và nhận định nêu trên, Hội đồng xét xử thấy luật đơn
kháng cáo của bị đơn là không căn cứ để xem xét, cần bác kháng cáo giữ
nguyên bản án dân sự thẩm số 05/2024/DS-ST ngày 29 tháng 10 năm 2024
của Toà án nhân dân huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn.
[3] Về án phí: Căn cứ khoản 1 Điều 148/Bộ luật tố tụng dân sự, bị đơn
phải chịu án phí dân sự phúc thẩm
Vì các lẽ trên;
Căn cứ Điều 293, khoản 1 Điều 308, khoản 1 Điều 148 của Bộ luật tố
tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử
dụng án phí và lệ phí Tòa án
QUYẾT ĐỊNH
1. Không chấp nhận toàn bộ kháng cáo của bị đơn Thị D1. Giữ
nguyên bản án dân sự thẩm số: 05/2024/DS-ST ngày 29 tháng 10 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn.
2. Về án phí: Bị đơn phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí
dân sphúc thẩm được trừ vào số tiền tạm ứng án phí phúc thẩm 300.000đ
(Ba trăm nghìn đồng) mà b đơn đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí
Tòa án số 0003357 ngày 27/11/2024 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Chợ
Đồn, tỉnh Bắc Kạn. Xác nhận bị đơn đã nộp đủ tiền án phí dân sự phúc thẩm.
3. Các quyết định khác của bản án thẩm không kháng cáo, kháng
nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2
Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành
án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự
nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều
6,7, và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy
định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- VKSND tnh Bc Kn;
- TAND huyn Ch Đồn;
- THADS huyn Ch Đồn;
- VKSND huyn Ch Đồn;
- Các đương sự;
- Lưu HSVA;
- Lưu HCTP.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT X PHÚC THM
THM PHÁN CH TA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
Vi Th Tuyết Mai
Tải về
Bản án số 01/2025/DS-PT Bản án số 01/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 01/2025/DS-PT Bản án số 01/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất