Bản án số 46/2024/DS-ST ngày 30/08/2024 của TAND huyện Ea Kar , tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 46/2024/DS-ST

Tên Bản án: Bản án số 46/2024/DS-ST ngày 30/08/2024 của TAND huyện Ea Kar , tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Ea Kar (TAND tỉnh Đắk Lắk)
Số hiệu: 46/2024/DS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 30/08/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Bà Phạm Thị H1 có vay tiền của bà Nguyễn Thị H nhưng đến hạn bà H1 không trả đủ tiền vay và tiền lãi nên bà H khởi kiện yêu cầu bà H1 phải trả tiền vay và tiền lãi.
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TOÀ ÁN NHÂN DÂN CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
HUYỆN EA KAR Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
TỈNH ĐẮK LẮK
Bản án số: 46/2024/DS-ST
Ngày: 30/8/2024
V/v Tranh chấp
hợp đồng vay tài sản
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN EA KAR, TỈNH ĐẮK LẮK
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên toà: Ông Phạm Xuân Chiến.
Các Hội thẩm nhân dân:
1. Ông Nguyễn Đình Thanh.
2. Bà Nguyễn Thị Tuyết.
- Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Hà Hương– Thư ký Tòa án.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Ea Kar tham gia phiên tòa: Trần
Thị Minh Nguyệt- Kiểm sát viên.
Ngày 30 tháng 8 năm 2024, tại phòng xử án Tòa án nhân dân huyện Ea Kar
xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 93/2024/TLST-DS ngày 08 tháng 4
năm 2024 về “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản, theo Quyết định đưa vụ án ra xét
xử số 56/2024/QĐXXST-DS ngày 12 tháng 8 năm 2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Nguyễn Thị H, sinh năm 1971. Nơi cư trú: số 232 N, tổ dân
phố 1, thị trấn K, huyện K, tỉnh Đắk Lắk: có mặt.
- Bị đơn: Bà Phạm Thị H1, sinh năm 1953. Nơi cư trú: thôn N 2, xã K, huyện
K, tỉnh Đắk Lắk: có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
-Tại đơn khởi kiện đề ngày 26/3/2024 các lời khai trong quá trình giải
quyết vụ án cũng như tại phiên tòa nguyên đơn bà Nguyễn Thị H trình bày:
Ngày 29/01/2021 (dương lịch) Phạm Thị H1 vay của tôi số tiền
45.000.000
đ
(bốn mươi lăm triệu đồng), thỏa thuận lãi suất 2.000
đ
/ ngày, thời hạn trả
nợ ngày 29/02/2021, hai bên viết giấy vay tiền H1 thế chấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất s R 295016 đối với thửa đất số 5a, tờ bản đồ số 7, diện tích
345m2 cấp ngày 18/12/2003 mang tên hộ Phạm Thị H1 để làm tin nên việc thế
chấp chỉ ghi trong giấy vay tiền, không lập hợp đồng riêng, không công chứng
không đăng ký giao dịch bảo đảm theo quy định pháp luật.
Tính đến ngày 04/3/2023, bà H1 đã trả cho tôi tổng số tiền lãi là 34.800.000
đ
2
(ba mươi triệu tám trăm nghìn đồng) 10.000.000
đ
(mười triệu đồng) tiền vay,
còn nợ lại 35.000.000
đ
(ba mươi lăm triệu đồng) tiền vay và tiền lãi 30.000.000
đ
(ba
mươi triệu đồng). Do đó, hai bên viết giấy vay tiền ghi ngày 04/3/2023 (dương lịch)
với nội dung: Phạm Thị H1 vay của tôi số tiền 65.000.000
đ
(sáu mươi lăm triệu
đồng), tiền lãi 3.500.000
đ
(ba triệu năm trăm nghìn đồng)/ tháng, thời hạn trả nợ
ngày 04/4/2023, tiếp tục thế chấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số R 295016
đối với thửa đất số 5a, tờ bản đồ số 7, diện tích 345m2. Việc thế chấp quyền sử dụng
đất chỉ ghi trong giấy vay để làm tin. Sau khi viết giấy vay tiền trên thì bà H1 đã trả
thêm cho tôi số tiền lãi 2.700.000
đ
(hai triệu bảy trăm nghìn đồng). Từ đó đến nay,
bà H1 chưa trả thêm cho tôi được số tiền nào. Do đó, tôi khởi kiện yêu cầu bà Phạm
Thị H1 phải trả cho tôi số tiền 65.000.000
đ
(sáu mươi lăm triệu đồng) và tiền lãi kể
từ thời điểm ghi giấy vay (04/3/2023) đến nay với mức lãi suất theo quy định pháp
luật, trừ đi số tiền mà bà H1 đã trả lãi là 2.700.000
đ
(hai triệu bảy trăm nghìn đồng).
Sau khi H1 trả đủ nợ thì tôi sẽ trả lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số R
295016 cho bà H1.
- Tại biên bản ghi lời khai ngày 20/6/2024 các lời khai trong quá trình
giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, bị đơn bà Phạm Thị H1 trình bày:
Tôi thừa nhận ngày 29/01/2021 (dương lịch), tôi có vay của bà Nguyễn Thị H
số tiền 45.000.000
đ
(bốn mươi lăm triệu đồng), thỏa thuận lãi suất 2.000
đ
/ ngày,
thời hạn trả nợ ngày 29/02/2021. Hai bên viết giấy vay tiền tôi thế chấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất sR 295016 đối với thửa đất số 5a, tbản đồ số 7,
diện tích 345m2 cấp ngày 18/12/2003 mang tên hPhạm Thị H1 để làm tin nên
việc thế chấp chỉ ghi trong giấy vay tiền, không lập hợp đồng riêng, không công
chứng và không đăng ký giao dịch bảo đảm theo quy định pháp luật.
Tính đến ngày 04/3/2023, tôi đã trả cho H tổng số tiền lãi 34.800.000
đ
(ba mươi triệu tám trăm nghìn đồng) 10.000.000
đ
(mười triệu đồng) tiền vay.
H tính tôi còn nợ lại 35.000.000
đ
(ba mươi lăm triệu đồng) tiền vay tiền i
30.000.000
đ
(ba ơi triệu đồng) nên đã yêu cầu tôi giấy vay tiền ghi ngày
04/3/2023 (dương lịch) với nội dung: Tôi vay của Nguyễn Thị H số tiền
65.000.000
đ
(sáu mươi lăm triệu đồng), tiền lãi 3.500.000
đ
(ba triệu năm trăm
nghìn đồng)/ tháng, thời hạn trả nợ ngày 04/4/2023 tiếp tục thế chấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất sR 295016 đối với thửa đất số 5a, tờ bản đồ số 7, diện tích
345m2 để làm tin.
Sau khi viết giấy vay tiền, i đã trả thêm cho H số tiền lãi 2.700.000
đ
(hai triệu bảy trăm nghìn đồng).
Nguyện vọng: Tôi xác định còn nợ bà H số tiền vay 35.000.000
đ
(ba mươi
lăm triệu đồng), về phần tiền lãi do bà H tính lãi với mức lãi suất quá cao so với quy
định pháp luật ktừ thời điểm vay ngày 29/01/2021 (dương lịch) nên đề nghị Tòa án
xem xét lại phần tiền lãi theo mức lãi suất mà pháp luật quy định.
Đối với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số R 295016 thì sau khi tôi trả đ
nợ thì bà H phải trả lại cho tôi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nêu trên.
3
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Ea Kar phát biểu ý kiến:
Về tố tụng: Kiểm sát viên khẳng định quá trình thu thập chứng cứ tại phiên tòa,
Tòa án thực hiện đầy đủ đúng các quy định của pháp luật về tố tụng; Về nội dung:
đề nghị Hội đồng xét xáp dụng: Điều 463, Điều 466, khoản 1 Điều 468 Bộ luật dân
sự, chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc Phạm Thị H1
phải trả cho bà Nguyễn Thị H số tiền là 38.291.875
đ
, gồm tiền vay còn nợ
28.426.205
đ
và tiền lãi 9.865.670
đ
. Buộc bà Nguyễn Thị H phải trả cho bà Phạm Thị
H1 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số R 295016 đối với thửa đất số 5a, tờ bn
đồ số 7, diện tích 345m2 cấp ngày 18/12/2003 mang tên hộ Phạm Thị H1 ngay
sau khi bà H1 đã trả đủ nợ.
Về án phí: Các đương sự phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định pháp
luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên
toà, căn cứ kết quả tranh luận tại phiên toà, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, Hội
đồng xét xử nhận định:
Về quan hệ tranh chấp thủ tục tố tụng:
- Xét giao dịch giữa bà Nguyễn Thị H Phạm Thị H1 về việc vay tiền có
thỏa thuận lãi suất thời hạn trả nợ, các bên xác lập trên sở tự nguyện hợp
đồng vay tài sản hiệu lực nên làm phát sinh quyền và nghĩa vcác bên. Do đến
thời hạn trả nợ đến nay, Phạm Thị H1 không thực hiện nghĩa vụ như cam kết
nên Nguyễn Thị H khởi kiện Toà án thụ giải quyết, phù hợp khoản 3 Điều
26 Bộ luật Tố tụng Dân sự.
- Kiểm sát viên tham gia phiên tòa khẳng định quá trình thu thập chứng cứ và
tại phiên tòa, Tòa án thực hiện đầy đủ và đúng các quy định của pháp luật về tố tụng
dân sự.
Về nội dung: Xét yêu cầu của Nguyễn Thị H buộc Phạm Thị H1 phải
trả số tiền vay 65.000.000
đ
(sáu mươi lăm triệu đồng) tiền lãi kể từ ngày
04/3/2023 đến nay, Hội đồng xét xử nhận thấy:
[1]. Quá trình thu thập chứng cứ và tại phiên tòa, nguyên đơn bà Nguyễn Thị
H bị đơn bà Phạm Thị H1, đều xác định: Ngày 29/01/2021 (dương lịch), Phạm
Thị H1 vay của Nguyễn Thị H số tiền là 45.000.000
đ
(bốn mươi lăm triệu
đồng), thỏa thuận lãi suất 2.000
đ
/ ngày, thời hạn trả nợ ngày 29/02/2021. Xét lời khai
của các đương sphợp với giấy vay tiền ghi ngày 29/01/2021 do bị đơn cung cấp
lưu hồ sơ vụ án.
Các bên thừa nhận tính đến ngày 04/3/2023, bà Phạm Thị H1 đã trả cho bà H
tổng số tiền lãi 34.800.000
đ
(ba mươi triệu tám trăm nghìn đồng) 10.000.000
đ
(mười triệu đồng) tiền vay. Do bà H tính H1 còn nợ lại 35.000.000
đ
(ba mươi lăm
triệu) tiền vay 30.000.000
đ
(ba mươi triệu đồng) tiền lãi nên hai bên đã viết giấy
vay tiền ghi ngày 04/3/2023 (dương lịch) với nội dung: bà Phạm Thị H1 có vay của
4
Nguyễn Thị H số tiền 65.000.000
đ
(sáu mươi lăm triệu đồng), tiền lãi 3.500.000
đ
(ba triệu năm trăm nghìn đồng)/ tháng, thời hạn trả nợ ngày 04/4/2023. Sau khi
viết giấy vay tiền,H1 đã trả thêm cho bà H số tiền lãi là 2.700.000
đ
(hai triệu bảy
trăm nghìn đồng). Đây các vấn đề không phải chứng minh bởi các bên đều thừa
nhận và phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án.
Tuy nhiên, thỏa thuận của các bên về phần lãi suất vượt quá mức quy định của
pháp luật cho phép. Do đó, bị đơn bà Phạm Thị H1 yêu cầu Hội đồng xét xử tính lại
phần tiền lãi theo mức lãi suất mà pháp luật quy định là có căn cứ, cần chấp nhận.
[2]. Căn cứ vào khoản 5 Điều 466 khoản 1 Điều 468 Bộ luật dân sự, tiền lãi
được tính như sau:
- Từ ngày 29/01/2021 (ngày vay tiền) đến ngày 28/02/2021 (ngày trả nợ
không có ngày 29/02) là 30 ngày, được tính lãi với lãi suất trong hạn: {45.000.000
đ
x 1,666% (20%: 12 tháng) x 30 ngày}: 30 ngày= 749.700
đ
.
- Tngày 01/3/2021 đến ngày 04/3/2023 (ngày viết lại giấy vay tiền) 733
ngày, được tính lãi với lãi suất quá hạn: {45.000.000
đ
x 2,499% (1,666% x 150%) x
733 ngày}: 30 ngày= 27.476.505
đ
.
Tổng tiền lãi của giai đoạn này là 28.226.205
đ
(hai mươi tám triệu hai trăm hai
mươi sáu nghìn hai trăm lẻ lăm đồng). Trong đó, bị đơn bà H1 đã trả cho bà H tổng
tiền lãi là 34.800.000
đ
(ba mươi tư triệu tám trăm nghìn đồng) và 10.000.000
đ
(mười
triệu đồng) tiền vay.
Theo quy định tại Điều 9 Nghị quyết 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của
Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định
của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm thì “…Số tiền lãi đã trả vượt quá mức lãi
suất, lãi trên nợ gốc quá hạn, lãi trên nợ lãi quá hạn quy định được trừ vào số tiền
nợ gốc tại thời điểm trả lãi..”.
Như vậy, tại thời điểm viết lại giấy vay tiền ghi ngày 04/3/2023 bị đơn
Phạm Thị H1 đã trả tiền lãi theo quy định cho bà H với số tiền là 6.573.795
đ
(34.800.000
đ
- 28.226.205
đ
), căn cứ vào quy định trên thì số tiền này được trừ vào s
tiền nợ gốc.
Do đó, tại thời điểm viết giấy vay này, bà Phạm Thị H1 còn nợ Nguyễn Thị
H số tiền vay là 28.426.205
đ
( hai mươi tám triệu bốn trăm hai mươi sáu nghìn hai
trăm lẻ lăm đồng).
[3]. Trong giấy vay tiền ghi ngày 04/3/2023, các bên thỏa thuận tiền lãi là
3.500.000
đ
(ba triệu năm trăm nghìn đồng)/ tháng, thời hạn trả nợ là ngày 04/4/2023.
Sau khi viết giấy vay tiền, H1 đã trả thêm cho bà H số tiền lãi là 2.700.000
đ
(hai
triệu bảy trăm nghìn đồng). Việc các bên thỏa thuận với mức lãi suất vượt quá quy
định pháp luật. Do đó, Căn cứ vào khoản 5 Điều 466 khoản 1 Điều 468 Bộ luật
dân sự, tiền lãi được tính như sau:
- Tngày 04/3/2023 (ngày viết lại giấy vay tiền ) đến ngày 04/4/2023 (ngày
trả nợ theo thỏa thuận) là 31 ngày, được tính lãi với lãi suất trong hạn: {28.426.205
đ
5
x 1,666% (20%: 12 tháng) x 30 ngày}: 30 ngày= 489.366
đ
.
- Từ ngày 05/4/2023 đến ngày 30/8/2024 (ngày xét xử thẩm) 510 ngày,
được tính lãi với lãi suất quá hạn: {28.426.205
đ
x 2,499% (1,666% x 150%) x 510
ngày}: 30 ngày= 12.076.304
đ
.
Tổng tiền lãi 12.565.670
đ
, bị đơn H1 đã trả cho H1 tiền lãi
2.700.000
đ
, do đó tiền lãi bà H1 còn nợ bà H là 9.865.670
đ
(chín triệu tám trăm sáu
mươi lăm nghìn sáu trăm bay mươi đồng).
[4] Như vậy, bị đơn Phạm Thị H1 còn nợ Nguyễn Thị H số tiền
38.291.875
đ
(ba mươi tám triệu hai trăm chín mươi mốt nghìn tám trăm bảy mươi
lăm đồng). Trong đó, tiền vay gốc còn nợ 28.426.205
đ
tiền lãi còn lại
9.865.670
đ
.
Do đó, chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị H, buộc bà
Phạm Thị H1 phải trả cho bà H tổng số tiền 38.291.875
đ
(ba mươi tám triệu hai trăm
chín mươi mốt nghìn tám trăm bảy mươi lăm đồng) nêu trên.
Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Nguyễn Thị
H đối với số tiền vay là 36.573.795
đ
(65.000.000
đ
- 28.426.205
đ
).
[5] Xtài sản thế chấp: khi vay tiền bà Phạm Thị H1 thế chấp cho bà
Nguyễn Thị H 01 (một) giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số R 295016 đối với
thửa đất số 5a, tờ bản đồ số 7, diện tích 345m2 do Ủy ban nhân dân huyện K cấp
ngày 18/12/2003 mang tên hPhạm Thị H1 để làm tin. Tuy nhiên, các bên đều
xác định việc thế chấp chỉ ghi trong giấy vay tiền hai bên không lập hợp đồng
riêng, không công chứng không đăng giao dịch bảo đảm theo quy định pháp
luật.
Do đó, quá trình thu thập chứng cứ tại phiên tòa các bên thống nhất:
Nguyễn Thị H trách nhiệm trả cho Phạm Thị H1 giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số R 295016 nói trên ngay sau khi bà H1 đã trả đủ nợ cho bà H là phù hợp
với quy định pháp luật, cần chấp nhận.
[6] Ván phí: Bđơn Phạm Thị H1 phải chịu 1.915.000
đ
(một triệu chín
trăm mười lăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm. Tuy nhiên, xét thấy bà Phạm
Thị H1, sinh ngày 06/3/1953 đã trên 60 tuổi thuộc người cao tuổi có đơn xin miễn
nộp tiền án phí. Do đó, căn cứ vào điểm đ khoản 1 Điều 12, Điều 14, khoản 4 Điều
15 Nghị quyết 326 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về
mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án plphí a án, chấp nhận
miễn toàn bộ tiền án pcho bị đơn, Phạm Thị H1 không phải nộp 1.915.000
đ
(một triệu chín trăm mười lăm nghìn đồng) tiền án phí.
Nguyên đơn Nguyễn Thị H phải chịu 1.828.690
đ
(một triệu tám trăm hai
mươi tám nghìn sáu trăm chín mươi đồng) tiền án phí dân sự thẩm đối với phần
yêu cầu không được chấp nhận theo khoản 4 Điều 26, điểm c tiểu mục 1.3 mục 1
phần II (Danh mục án phí) Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của
Ủy ban thường vụ Quốc hội, được khấu trừ vào số tiền 2.047.500
đ
tạm ứng án phí đã
6
nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án sAA/2023/0000294 ngày
05/4/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện K, còn lại 218.810
đ
(hai trăm mười
tám nghìn tám trăm mười đồng) tiền tạm ứng án phí trả cho Nguyễn Thị H theo
số biên lai trên.
Vì những lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Áp dụng khoản 3 Điều 26, khoản 1 Điều 147, Điều 266 Bộ luật Tố tụng Dân
sự; các Điều 463, Điều 466, Điều 468 Bluật Dân sự; điểm đ khoản 1 Điều 12, Điều
14, khoản 4 Điều 15, khoản 1 và khoản 4 Điều 26, điểm c tiểu mục 1.3 mục 1 phần
II (Danh mục án phí) Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy
ban thường vụ Quốc hội;
Tuyên xử: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
1. Buộc bà Phạm Thị H1 phải trả cho bà Nguyễn Thị H tổng số tiền
38.291.875
đ
(ba mươi tám triệu hai trăm chín mươi mốt nghìn tám trăm bảy mươi
lăm đồng). Trong đó, tiền vay gốc còn nợ 28.426.205
đ
(hai mươi tám triệu bốn
trăm hai mươi sáu nghìn hai trăm lẻ lăm đồng) và tiền lãi còn lại là 9.865.670
đ
(chín
triệu tám trăm sáu mươi lăm nghìn sáu trăm bảy mươi đồng).
Kể từ ngày tiếp theo ngày 31/8/2024 đến khi thi hành án xong, bị đơn bà Phạm
Thị H1 còn phải trả cho nguyên đơn bà Nguyễn Thị H khoản tiền lãi đối với số tiền
còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân
sự.
2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị H đối
với số tiền vay 36.573.795
đ
(ba mươi sáu triệu năm trăm bảy mươi ba nghìn bảy
trăm chín mươi lăm đồng).
3. Xử tài sản thế chấp: Buộc Nguyễn Thị H trách nhiệm trả cho
Phạm Thị H1 01 (một) giấy chứng nhận quyền sdụng đất số R 295016 đối với thửa
đất số 5a, tbản đồ số 7, diện tích 345m2 do Ủy ban nhân dân huyện K cấp ngày
18/12/2003 mang tên hộ bà Phạm Thị H1, ngay sau khi bà H1 đã trả đủ nợ cho H.
4. Về án phí: Bị đơn bà Phạm Thị H1 được miễn nộp số tiền 1.915.000
đ
(một
triệu chín trăm mười lăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm.
Nguyên đơn Nguyễn Thị H phải chịu 1.828.690
đ
(một triệu tám trăm hai
mươi tám nghìn sáu trăm chín mươi đồng) tiền án phí dân ssơ thẩm, được khấu trừ
vào số tiền 2.047.500
đ
tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí,
lệ phí Tòa án số AA/2023/0000294 ngày 05/4/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự
huyện K, còn lại 218.810
đ
(hai trăm mười tám nghìn tám trăm mười đồng) tiền tạm
ứng án phí trả cho bà Nguyễn Thị H theo số biên lai trên.
Căn cứ Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì các bên quyền thoả thuận việc
thi hành án, yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành
án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành
án là 5 năm kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật;
7
Quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn quyền kháng cáo án thẩm trong
hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
T/M HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Nơi nhận: THẨM PHÁN-CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
-Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk. (đã ký)
-Viện kiểm sát nhân dân huyện Ea Kar.
-Chi cục THADS huyện K.
-Các đương sự;
-Lưu HS, VP.
Phạm Xuân Chiến
Tải về
Bản án số 46/2024/DS-ST Bản án số 46/2024/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 46/2024/DS-ST Bản án số 46/2024/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất