Bản án số 457/2024/DS-PT ngày 27/08/2024 của TAND tỉnh Tiền Giang về tranh chấp hợp đồng đặt cọc

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 457/2024/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 457/2024/DS-PT ngày 27/08/2024 của TAND tỉnh Tiền Giang về tranh chấp hợp đồng đặt cọc
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng đặt cọc
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Tiền Giang
Số hiệu: 457/2024/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 27/08/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Y án sơ thẩm
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH TIỀN GIANG
Bản án số: 457/2024/DS-PT
Ngày: 27 - 8 - 2024
V/v tranh chấp “hợp đồng đặt
cọc chuyển nhượng quyền sử
dụng đất”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH TIỀN GIANG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Lâm Ngọc Tuyền
Các Thẩm phán: Hoàng Thị Thơ
Lưu Thị Thu Thủy
- Thư phiên tòa: Ông Minh Thắm - Thư Tòa án nhân dân tỉnh
Tiền Giang.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Tiền Giang tham gia phiên tòa:
Bùi Thị Thanh Bạch - Kiểm sát viên.
Ngày 27 tháng 8 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét
xử phúc thẩm công khai vụ án thụ số: 323/2024/TLPT-DS ngày 01 tháng 8
năm 2024 về tranh chấp “Hợp đồng đặt cọc chuyển nhượng quyền sử dụng
đất”.
Do bản án dân sự thẩm số 85/2024/DS-ST ngày 05 tháng 6 năm 2024
của Toà án nhân dân huyện C, tỉnh Tiền Giang bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 376/2024/QĐ-PT
ngày 14 tháng 8 năm 2024 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1974; có mặt
Địa chỉ: Ấp B, xã T, huyện C, tỉnh Tiền Giang
2. Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Tuyết V, sinh năm 1964; có mặt
Địa chỉ: Ấp Thạnh Hưng, xã T, huyện C, tỉnh Tiền Giang
3. Người làm chứng:
3.1 Bà Nguyễn Thị V1, sinh năm 1966; vắng mặt
Địa chỉ: Ấp C, xã T, huyện C, tỉnh Tiền Giang
3.2 Chị Lê Thị Kim L, sinh năm 1982; có mặt
2
Địa chỉ: Ấp T, xã T, huyện C, tỉnh Tiền Giang
3.3 Chị Nguyễn Thị Tuyết M, sinh 1979; vắng mặt
Địa chỉ: Ấp B, xã T, thành phố M, tỉnh Tiền Giang.
4. Người kháng cáo: Bị đơn Nguyễn Thị Tuyết V.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo án sơ thẩm:
* Nguyên đơn Nguyễn Văn T trình bày:
Qua tìm hiểu anh biết Nguyễn Thị Tuyết V nhu cầu chuyển
nhượng quyền sử dụng đất diện tích chiều ngang mặt trước 9m30 chiều
ngang mặt sau 10m80, chiều dài hết đất, trên đất hai căn nhà, toạ lạc tại ấp
T, T, huyện C, tỉnh Tiền Giang thuộc một phần của diện tích 1.830m
2
thửa
1222 do Nguyễn Thị Tuyết V đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Trước khi đặt cọc anh có yêu cầu bà V cho xem giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất bản chính nhưng V chỉ cho xem bản phô tô, nên anh mới hỏi V thế
chấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ai không? thì V cho biết không
thế chấp Ngân hàng nhưng thế chấp cho nhỏ cháu, không i cụ thể
ai và số tiền bao nhiêu. V vẫn cam kết đất này bà vẫn còn đứng tên và không
chuyển nhượng cho ai. Vì vậy vào ngày 14/5/2021, anh đến nhà bà V, tại đây
chị Thị Kim L con gái V viết biên bản bán đất, cụ thể V đồng ý
chuyển nhượng cho anh với diện tích đất nêu trên với giá thoả thuận
6.000.000.000 đồng, anh đặt cọc cho V 500.000.000 đồng. Số tiền còn lại
5.500.000.000 đồng sẽ giao làm hai lần. Cụ thể lần giao thứ hai
3.500.000.000 đồng khi V cho anh thấy sổ đỏ của đất mà V đứng tên
làm hợp đồng đặt cọc tại phòng công chứng. Lần thứ 3 sẽ giao số tiền còn lại
2.000.000.000 đồng khi hai bên ra phòng công chứng thủ tục chuyển nhượng
đất. Nhưng thực tế lần giao tiền thứ hai 3.500.000.000 đồng hai bên sẽ ra
phòng công chứng làm hợp đồng chuyển nhượng, số tiền 2.000.000.000 đồng
khi nào làm thủ tục sang tên xong thì anh sẽ giao hết cho bà V.
Tuy nhiên đến giao tiền lần thứ hai ngày 24/05/2021 anh đem theo đủ
số tiền 3.500.000.000 đồng đến Phòng C để giao tiếp cho bà V. Tại đây anh biết
được V đã làm hợp đồng chuyển nhượng cho chị Nguyễn Thị Tuyết M vào
ngày 28/01/2021 tại Văn phòng công chứng Lâm Thị Minh N gồm các thửa đất
1220, 1221, 1222 1628 tổng diện tích 4.340m
2
ấp T + P, P, huyện C,
tỉnh Tiền Giang trong đó cả diện tích đất anh muốn chuyển nhượng. Do đó
hai bên phát sinh cự cãi và anh ra về không giao tiền nữa. Khoảng vài ngày sau,
anh đến nhà V đòi lại tiền cọc nhưng bà V cứ hứa hẹn rồi không trả, nên anh
nộp đơn thưa bà V tại Công an huyện C công an có thông báo không khởi tố
vụ án, nên anh có khiếu nại đến Cơ quan cảnh sát điều tra công an tỉnh T thì đến
ngày 13/06/2022 bà V đã trả lại cho anh tiền đặt cọc là 500.000.000 đồng số tiền
này anh đã nhận xong. Sau đó anh nộp đơn khởi kiện tại Tòa án. Tại đơn khởi
kiện anh yêu cầu V trả cho anh tiền lãi phát sinh theo lãi suất quá hạn do
3
ngân hàng N1 qui định của số tiền 500.000.000 đồng đã chiếm giữa từ ngày
14/5/2021 tạm tính đến ngày nộp đơn là 200.000.000 đồng và bồi thường số tiền
1.000.000.000 đồng do V vi phạm hợp đồng được bổ sung trong biên bản
mua bán đất ngày 14/5/2021 cụ thể “Nếu V thực hiện không đúng thoả thuận
trên sbồi thường cho ông T 1 tỷ (một tỷ) đồng. Nếu ông T không thực hiện
đúng thoả thuận đặc cọc lần 2, lần 3 thì ông T mất cọc”. Tổng cộng hai khoản bà
V phải trả là 1.200.000.000 đồng khi án có hiệu lực pháp luật.
Biên bản mua bán đất bản chính anh đã nộp cho quan điều tra công an
huyện C, nên không có cung cấp được cho Tòa.
Nay anh khởi kiện bổ sung yêu cầu hủy hợp đồng đặt cọc và yêu cầu V
bồi thường số tiền 1.000.000.000 đồng do bà V đã vi phạm theo biên bản mua
bán đất ngày 14/5/2021 xác định đây tiền phạt cọc. Xin rút một phần yêu
cầu khởi kiện, cụ thể không yêu cầu bà V trả stiền lãi là 200.000.000 đồng
của số tiền 500.000.000 đồng V đã chiếm giữ từ ngày 14/5/2021. Không
yêu cầu bồi thường thiệt hại khi hợp đồng vô hiệu. Thời gian thực hiện trả khi án
có hiệu lực pháp luật.
* Bị đơn là bà Nguyễn Thị Tuyết V và trong quá trình giải quyết vụ án trình
bày: thừa nhận, anh T biên bản mua bán đất với nhau vào ngày
14/05/2021 với diện tích đất nêu trên, giá chuyển nhượng là 6.000.000.000 đồng
anh T đặt cọc 500.000.000 đồng, số tiền còn lại anh T sẽ giao làm hai lần.
Lần 2 giao 3.500.000.000 đồng khi đưa sổ đỏ bản chính cho anh T xem và ra
phòng công chứng nhận tiền đặc cọc. Lần 3 anh T sẽ giao tiếp 2.000.000.000
đồng khi ra công chứng làm hợp đồng chuyển nhượng.
Đến ngày 24/5/2021, hai bên đến Phòng C để làm công chứng hợp đồng
đặc cọc và đưa bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho anh T xem t
anh T không đồng ý mua và bỏ về. Sau đó anh T qua nđòi lại tiền cọc,
nói đồng ý trả nhưng do đang thiếu nợ chờ khi nào bán được đất thì sẽ
trả lại. Sau đó anh T thưa đến quan cảnh sát điều tra công an huyện C
công an C đã ra thông báo không khởi tố vụ án hình sự. Sau đó lại tiếp tục
thưa đến quan cảnh sát điều tra ng an tỉnh T. Đến ngày 13/6/2022, thì
đã trả lại cho anh T tiền đặt cọc 500.000.000 đồng, viết giấy nhận tiền.
Hiện nay giấy nhận tiền này bà đã nộp bản chính cho công an tỉnh T, nên không
có cung cấp được cho Tòa.
Vào ngày 28/01/2021, đến Phòng công chứng Lâm Thị Minh N đ
làm thủ tục chuyển nhượng toàn bộ phần đất còn lại của các thửa đất 1220,
1221, 1222 1628 do đứng tên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày
20/5/1997 cho chị Nguyễn Thị Tuyết M với giá chuyển nhượng
6.000.000.000 đồng. Nhưng thực tế giữa bà và chị M chỉ thực hiện giao dịch vay
số tiền 6.150.000.000 đồng, thế chấp cho chị M giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất đối với các thửa đất nêu trên, hai bên làm hợp đồng thế chấp quyền
sử dụng đất ngày 28/01/2021 giấy tay. Trước khi thực hiện mua bán đất với anh
4
T bà có cho anh T biết đất này đang thế chấp cho nhỏ cháu nhưng anh T vẫn
đồng ý mua và đặc cọc.
Tại phiên tòa thẩm, V thừa nhận việc với anh T không thực hiện
được giao dịch với nhau do lỗi của bà, không thông báo cho anh T
biết giữa bà và chị Nguyễn Thị Tuyết M có làm hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất nêu trên vào ngày 28/01/2021 và tại thời điểm giao tiền lần thứ hai
giữa với anh T thì ng chưa trả hết số tiền 6.150.000.000 đồng cho chị
Tuyết M, nên chị Tuyết M không đồng ý đưa giấy tờ đất để cho làm thủ tục
chuyển nhượng lại đất trên cho anh T tại Phòng C, nên anh T mới bỏ về.
Nay anh T yêu cầu hủy hợp đồng đặt cọc cụ thể là hủy giấy mua bán đất
ngày 14/05/2021 bà thống nhất. Anh T rút yêu cầu khởi kiện buộc trả tiền lãi
200.000.000 đồng của số tiền đặc cọc 500.000.000 đồng thống nhất. Đối với
số tiền 1.000.000.000 đồng anh T yêu cầu bồi thường thống nhất tiền phạt
cọc, tuy nhiên không đồng ý trả cho anh T số tiền trên vì hiện nay hoàn cảnh
kinh tế gia đình bà rất khó khăn nên không khả năng trả được.
* Người làm chứng chị Thị Kim L trình bày: Chị thống nhất có việc
thỏa thuận chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà V với anh T. Chị là người
viết dùm biên bản mua bán đất ngày 14/5/2021 cho hai bên. Anh T đặt cọc số
tiền 500.000.000 đồng cho mẹ chị là Nguyễn Thị Tuyết V. Đến ngày
24/05/2021 chị không có đi chung ra Phòng C nên không biết sự việc diễn ra thế
nào. Đến mấy ngày sau anh T tới nhà nói không mua đất nữa đòi lại tiền
cọc. Sau đó anh T thưa mchđến quan cảnh sát điều tra công an huyện C
Công an tỉnh T. Đến ngày 13/06/2022 chị chứng kiến việc mẹ chị V
trả lại tiền cọc cho anh T 500.000.000 đồng. Chị không trình bày thêm
đơn xin vắng mặt.
* Người làm chứng Nguyễn Thị V1 trình bày: chị dâu của anh
Nguyễn Văn T, vào năm 2021 bà có nghe thông tin Nguyễn Thị Tuyết V bán
hai căn nhà gắn liền với đất tại ấp T, T, huyện C, tỉnh Tiền Giang nên nói
cho anh T biết và đồng ý mua. Vào ngày 14/5/2021 cùng với anh T đến
nhà V để làm biên bản mua bán đất nêu trên anh T đặc cọc số tiền
500.000.000 đồng cho V. Đến ngày giao tiền lần 2 3.500.000.000 đồng tại
phòng C t phát hiện phần đất bà Tuyết V bán cho anh T đã bán cho chị
Nguyễn Thị Tuyết M trước đó nên hai bên không thể tiếp tục hợp đồng chuyển
nhượng đất nữa. chỉ chứng kiến sự việc như trên, không chứng kiến
việc anh T nhận lại tiền cọc từ bà V.
* Người làm chứng Nguyễn Thị Tuyết M trình bày: Do con rể V
thiếu nợ nên vào khoảng tháng 1 năm 2021 bà V đến gặp chị để vay số tiền
6.150.000.000 đồng. vậy vào ngày 28/01/2021 chị yêu cầu V làm hợp
đồng chuyển nhượng toàn bộ phần đất còn lại của các thửa đất 1220, 1221, 1222
1628 ghi theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tổng diện tích
4.340m
2
tọa lạc tại ấp T + P, P, huyện C, tỉnh Tiền Giang do V đứng tên
cấp ngày 20/05/1997 với giá chuyển nhượng 6.000.000.000 đồng. Sau khi
5
kết hợp đồng V giao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bản chính cho chị.
Thực tế giữa chị V hợp đồng vay tiền nên cùng ngày 28/01/2021 hai
bên lập hợp đồng thế chấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nêu trên để
cho V tin. Chị cho V được nhận lại đất trong thời hạn 2 tháng nếu trả
hết số nợ trên cho chị. Sau đó chị đến gặp bà V để đòi lại tiền thì bà V xin
hoãn lại để tìm người bán đất. Đến ngày 24/05/2021 bà V nhờ chị đến Phòng
C mang theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bản chính cho anh T xem. Khi
đến đây chị có thông báo cho anh T biết bà V n nợ lại chị số tiền và đã ký hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất trên cho chị. Đồng thời chị yêu cầu
V phải trả hết nợ xong thì chị mới xoá hợp đồng. Trước đó chị cũng không biết
giữa anh T V đã đặc cọc tiền bạc nthế nào. Nay anh T tranh chấp hợp
đồng đặc cọc với bà V chị không có ý kiến, yêu cầu giải quyết theo pháp luật
xin được vắng mặt phiên tòa.
* Tại bản án dân sự thẩm số 85/2024/DS-ST ngày 05 tháng 6 năm 2024
của Toà án nhân dân huyện C, tỉnh Tiền Giang đã căn cứ các khoản 2 Điều 328,
Điều 468 của Bộ luật Dân sự; khoản 3 Điều 26, Điều 92, Điều 5, khoản 2 Điều
244 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm đ khoản 1 Điều 12, khoản 2 Điều 26 Nghị
quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 qui định về mức thu, miễn,
giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Xử:
1/ Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là anh Nguyễn
Văn T.
2/ Hủy giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 14/05/2021 giữa
anh Nguyễn Văn T với Nguyễn Thị Tuyết V đối với phần đất diện tích
chiều ngang mặt trước 9m30 chiều ngang mặt sau là10m80, chiều dài hết
đất, trên đất hai căn nhà, toạ lạc tại ấp T, T, huyện C, tỉnh Tiền Giang do
bà Nguyễn Thị Tuyết V đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
- Buộc bà Nguyễn Thị Tuyết V có nghĩa vụ trả cho anh T số tiền phạt cọc là
1.000.000.000 đồng (một tỷ). Thời gian trả thực hiện khi án hiệu lực pháp
luật.
Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp
quan thi hành án quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể t
ngày đơn yêu cầu thi nh án của người được thi hành án (đối với các khoản
tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành xong tất cả các
khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu tiền lãi của số tiền còn
phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân
sự.
3/ Đình chỉ xét xử yêu cầu buộc Nguyễn Thị V1 trả số tiền lãi
200.000.000 đồng theo lãi suất quá hạn do Ngân hàng N1 qui định đối với số
tiền đặc cọc là 500.000.000 đồng bị chiếm giữa từ ngày 14/5/2021.
6
Ngoài ra, bản án còn tuyên về phần án phí quyền kháng cáo của các
đương sự theo qui định của pháp luật.
- Ngày 06 tháng 6 năm 2024, bị đơn Nguyễn Thị Tuyết V có đơn kháng cáo
Bản án sơ thẩm. Yêu cầu cấp phúc thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn.
Tại phiên tòa phúc thẩm nguyên đơn vẫn giữa nguyên yêu cầu khởi kiện, bị
đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, hai bên đương sự không thỏa thuận
được với nhau về việc giải quyết vụ án.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tiền Giang phát biểu quan điểm:
Thẩm phán chủ tọa phiên tòa Hội đồng xét xử phúc thẩm tuân thủ đúng các
qui định của Bộ luật tố tụng dân sự; các đương sự chấp hành đúng pháp luật từ
khi thụ vụ án đến trước khi Hội đồng xét xử nghị án. Về nội dung vụ án: lỗi
dẫn đến giao dịch giữa anh T V không thực hiện được do V, thời
điểm bà V ký kết đặt cọc với ông T thì bà V đã ký kết hợp đồng chuyển nhượng
phần đất trên cho Nguyễn Thị Tuyết M. Đề nghị không chấp nhận yêu cầu
kháng cáo của bà V, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh
tụng tại phiên tòa; nghe quan điểm của kiểm sát viên. Hội đồng xét xử nhận
định:
[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Tại đơn khởi
kiện anh Nguyễn Văn T yêu cầu Nguyễn Thị Tuyết V trả số tiền lãi
200.000.000 đồng theo lãi suất quá hạn do Ngân hàng N1 qui định đối với số
tiền đặc cọc 500.000.000 đồng bị chiếm giữ từ ngày 14/5/2021 tính đến ngày
làm đơn. Và bồi thường 1.000.000.000 đồng do bà V vi phạm hợp đồng được ký
kết tại biên bản mua bán đất ngày 14/5/2021. vậy Hội đồng xét xử xác định,
đây là “Tranh chấp hợp đồng đặc cọc chuyển nhượng quyền sử dụng đất” được
qui định tại khoản khoản 2 Điều 328 Bộ luật n sự năm 2015 thuộc thẩm
quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện C, tỉnh Tiền Giang quy định tại
khoản 3 Điều 26, Điều 35, Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.
[2] Đơn kháng cáo của Nguyễn Thị Tuyết V đúng quy định tại Điều 272
và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[3] Về nội dung: Ngày 06 tháng 6 năm 2024, bị đơn Nguyễn Thị Tuyết V
có đơn kháng cáo Bản án sơ thẩm. Yêu cầu cấp phúc thẩm không chấp nhận yêu
cầu khởi kiện của nguyên đơn vì bà không có tiền để trả cho nguyên đơn.
[4] Xét yêu cầu kháng cáo của bị đơn bà Nguyễn Thị Tuyết V:
Tại phiên tòa thẩm, anh Nguyễn Văn T Nguyễn Thị Tuyết V cùng
thống nhất hủy giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 14/05/2021
giữa các bên đối với phần đất diện tích chiều ngang mặt trước 9m30
chiều ngang mặt sau là10m80, chiều dài hết đất, trên đất hai căn nhà, toạ lạc
7
tại ấp T, xã T, huyện C, tỉnh Tiền Giang do Nguyễn Thị Tuyết V đứng tên
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Sự thỏa thuận của các bên tự nguyện,
không bị ép buộc, không trái pháp luật, không vi phạm đạo đức hội nên Hội
đồng xét xử ghi nhận.
V thừa nhận lỗi trong hợp đồng chuyển nhượng đất của bà, nhưng
không đồng ý bồi thường số tiền 1.000.000.000 đồng do vi phạm thoả thuận
trong biên bản bán đất. Nhận thấy, tại thời điểm V kết đặt cọc chuyển
nhượng quyền sử dụng đất với anh T vào ngày 14/05/2021, biết rất diện
tích đất này đã chuyển nhượng cho chị Nguyễn Thị Tuyết M vào ngày
28/01/2021, hợp đồng đã công chứng chứng thực tại n Phòng C1, nhưng
lại tiếp tục thực hiện giao dịch với anh T. Đồng thời tại thời điểm giao tiền lần
thứ hai ngày 24/5/2021, anh T đã đem đủ số tiền 3.500.000.000 đồng để giao
tiếp cho bà V, tuy nhiên do V chưa trả hết số tiền nợ cho chị M
6.150.000.000 đồng nên chị M không đồng ý giao lại giấy tờ đất hủy hợp
đồng cho V để V làm thtục chuyển nhượng cho anh T. vậy, anh T
không giao tiếp số tiền 3.500.000.000 đồng cho V. Dẫn đến giao dịch giữa
anh T và bà V không thực hiện được, đây là lỗi cố ý của bà V.
Như vậy lỗi dẫn đến hai bên không ký kết, thực hiện được hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất như đã thỏa thuận hoàn toàn thuộc về bên bị đơn
Nguyễn Thị Tuyết V được qui định tại khoản 2 Điều 328 Bộ luật Dân sự “…
Nếu bên nhận đặt cọc từ chối việc giao kết thực hiện hợp đồng dân sự thì phải
trả cho bên đặt cọc tài sản đặt cọc một khoản tiền tương đương giá trị tài sản
đặt cọc, trừ trường hợp thỏa thuận khác”. Đồng thời tại phần bổ sung của
biên bản mua bán đất ngày 14/5/2021 ghi “Nếu V thực hiện không đúng
thoả thuận trên sẽ bồi thường cho ông T 1 tỷ đồng (một tỷ). Nếu ông T không
thực hiện đúng thoả thuận đặc cọc lần 2 , lần 3 thì ông T mất cọc…”. vậy,
Hội đồng xét xử sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Nguyễn Văn T
căn cứ. Do V đã trả cho ông T số tiền đặt cọc là 500.000.000 đồng nên
buộc Nguyễn Thị Tuyết V phải trả cho anh T số tiền phạt cọc là
1.000.000.000 đồng như hai bên đã thỏa thuận tại biên bản mua bán đất ngày
14/5/2021.
Do đó yêu cầu kháng cáo của bị đơn bà V không có căn cứ không được Hội
đồng xét xử chấp nhận.
[5] Các phần khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị nên phát
sinh hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[6] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát phù hợp với nhận định của Hội
đồng xét xử nên được chấp nhận.
[7] Về án phí: V được miễn án phí phúc thẩm do người cao tuổi theo
quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14
ngày 30/12/2016 qui định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản sdụng
án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
8
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự.
Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn bà Nguyễn Thị Tuyết V.
Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm s85/2024/DS-ST ngày 05 tháng 6 năm
2024 của Toà án nhân dân huyện C, tỉnh Tiền Giang.
Căn cứ khoản 2 Điều 328, Điều 468 của Bộ luật Dânsự.
Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, Điều 92, Điều 5, khoản 2 Điều 244 của B
luật Tốtụng dân sự.
Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12, khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 qui định về mức thu, miễn, giảm, thu,
nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Xử:
1/ Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn anh Nguyễn
Văn T.
2/ Hủy giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 14/05/2021 giữa
anh Nguyễn Văn T với Nguyễn Thị Tuyết V đối với phần đất diện tích
chiều ngang mặt trước 9m30 chiều ngang mặt sau là10m80, chiều dài hết
đất, trên đất hai căn nhà, toạ lạc tại ấp T, T, huyện C, tỉnh Tiền Giang do
bà Nguyễn Thị Tuyết V đứng tên giấychứng nhận quyền sử dụng đất.
- Buộc bà Nguyễn Thị Tuyết V có nghĩa vụ trả cho anh T số tiền phạt cọc là
1.000.000.000 đồng (một tỷ). Thời gian trả thực hiện khi án hiệu lực pháp
luật.
Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp
quan thi hành án quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể t
ngày đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản
tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành xong tất cả các
khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu tiền lãi của số tiền còn
phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dânsự.
3/ Đình chỉ xét xử yêu cầu buộc Nguyễn Thị V1 trả số tiền lãi
200.000.000 đồng theo lãi suất quá hạn do NgânNhànước qui định đối với số
tiền đặc cọc là 500.000.000 đồng bị chiếm giữa từ ngày 14/5/2021.
4/ Về án phí:
- Nguyễn Thị Tuyết V được miễn án phí dân sự thẩm và dân sự phúc
thẩm được qui định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị Quyết
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 qui định về mức thu, miễn, giảm, thu,
nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
- H lại cho anh Nguyễn Văn T số tiền 24.000.000 đồng, theo biên lai số
0010641 ngày 01/12/2023 của Chi cục thi hành án dân sự huyện C, tỉnh Tiền
Giang.
9
Trường hợp bản án được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án
dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự
quyền thỏa thuận thi hành án dân sự, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi
hành án hoặc bcưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7 9 Luật
thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại điều 30
Luật thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- TAND cấp cao tại TP HCM;
- VKSND tỉnh Tiền Giang;
- TAND H. C;
- CCTHADS H. C;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ, án văn (Thắm)
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Lâm Ngọc Tuyền
Tải về
Bản án số 457/2024/DS-PT Bản án số 457/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 457/2024/DS-PT Bản án số 457/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất