Bản án số 162/2024/DS-PT ngày 28/11/2024 của TAND tỉnh Thái Nguyên về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 162/2024/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 162/2024/DS-PT ngày 28/11/2024 của TAND tỉnh Thái Nguyên về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Thái Nguyên
Số hiệu: 162/2024/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 28/11/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 13/2024/DS-ST ngày 24/6/2024 của Tòa án nhân dân huyện Đại Từ
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỈNH THÁI NGUYÊN Độc lp - T do - Hnh phúc
Bản án số: 162/2024/DS-PT
Ngày 28/11/2024
V/v tranh chp hợp đng chuyn
nhượng quyền s dụng đất
NHÂN DANH
C CNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH THÁI NGUYÊN
- Thành phn Hội đồng xét x phúc thm gm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Đặng Minh Tuân
Các thẩm phán: Nguyễn Thị Thủy
Ông Hoàng Quý Sửu
- Thư Tòa án ghi biên bản phiên tòa: Lương Thị Thúy Linh, Thư ký
Toà án nhân dân tỉnh Thái nguyên.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Nguyên tham gia phiên tòa:
Vũ Thị Năm, Kiểm sát viên trung cấp.
Ngày 28 tháng 11 năm 2024, tại Toà án nhân dân tỉnh Thái Nguyên xét xử
phúc thẩm công khai vụ án dân s thụ số 116/2024/TLPT-DS ngày
03/10/2024 vviệc “Tranh chp hợp đồng chuyển nhượng quyn s dụng đt”,
do kháng cáo của b đơn anh Trịnh Văn T đối vi Bản án dân sự thẩm số
13/2024/DS-ST ngày 24/6/2024 của Tòa án nhân dân huyện Đại T.
Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 204/2024/QĐ-PT ngày 12 tháng
11 năm 2024 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Đỗ Th H, sinh năm 1984; địa chỉ: Xóm Đ, Y,
huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên; có mặt.
2. Bị đơn:
- Ông Tạ Văn H1, sinh năm 1965 Đàm Thị T1, sinh năm 1965; đu
cùng địa ch: Xóm D, xã P, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên; vắng mặt.
- Anh Trịnh Văn T, sinh năm 1984; địa chỉ: Xóm T, P, huyện Đ, tỉnh
Thái Nguyên; có mặt.
3. Người có quyn li, nghĩa vụ liên quan:
- Anh Hoàng Công Đ, sinh năm 1979; vắng mặt. Người đại diện theo ủy
quyền của anh Đ: Chị Đỗ Th H, sinh năm 1984; địa chỉ: xóm Đ, xã Y, huyện Đ,
tỉnh Thái Nguyên; có mặt.
- Ông Trịnh Văn Q, sinh năm 1961 bà Dương Thị H2, sinh năm 1965;
đều vắng mặt. Người đại diện theo uỷ quyền của ông Q và H2: Anh Trịnh
Văn T, sinh năm 1984; địa chỉ: Xóm T, P, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên;
mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khi kin, quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn ch Đ Th H
trình bày:
Năm 2018 do nhu cầu mua đất để làm nhà nên v chng ch đã đi tìm
mua đất, qua tìm hiểu chị đưc biết anh Trnh Văn T người xóm T, P,
huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên thửa đt cạnh Dốc Mon thuộc xóm D, P,
huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên cách UBND xã P khoảng 30m muốn bán. Vợ chồng
chị đã đã gặp tha thun vi anh T mua phần đất đó với giá 200.000.000đ,
nhưng do diện tích đất đó có chiu rng hp nên v chng chị đã thỏa thuận với
ông Tạ Văn H1 h hàng của chị để li cho v chng chị 1,5m chiu rng,
chiu dài hết đất nhà anh T đưc v chng ông H1 đồng ý bán cho chị. Tại quán
bán hàng nhà ông H1, sau khi thống nhất giá cả, do anh T không giy t
chng minh ch s dụng đất nên v chng chị vợ chồng ông H1 làm giấy
tờ viết tay với nhau, anh T người chng kiến. Thc tế giao tin thì anh T nhận
190.000.000đ, vợ chồng chị nợ lại anh T 10.000.000đ, v chng ông H1 nhn
110.000.000đ, vợ chồng chị n li v chng ông H1 10.000.000đ. S tin còn
nợ lại vợ chồng chị thỏa thuận với ông H1 anh T hẹn khi nào vchồng chị
đưc cp giy chng nhn quyn s dụng đất thì chị s tr hết. Lúc đầu ch
giy t viết tay, quá trình làm thủ tục để xin cp giy chng nhn quyn s dng
đất thì chị ông H1 đã lập lại giấy tờ chuyển nhượng theo mu xác nhn
của trưởng xóm. Chị và ông H1 thỏa thuận ông H1 người đi làm th tc cho
chị nhưng ông H1 không làm được, nên chị trc tiếp đi làm th tục, quan
qun lý đất đai xác định đất ông H1 anh T bán cho chị chưa được cp giấy
chứng nhận quyền sử dụng nên không làm đưc th tc chuyển nhượng cho chị.
Sau đó chị đã đến đòi lại tiền nhưng ông H1 anh T không nht trí tr nên chị
mới làm đơn khởi kin yêu cầu Tòa án tuyên hợp đồng chuyển nhượng quyn s
dụng đất lập ngày 18/12/2018 giữa vợ chồng chị lập vi v chng ông H1,
T1 hiu. Buộc vợ chồng ông H1, T1 tr cho chị s tiền 110.000.000đ
buộc anh T trả cho vợ chồng chị 190.000.000đ. Trong quá trình giải quyết vụ án
vợ chồng ông H1, T1 đã trả cho vợ chồng chị 110.000.000đ nên chị rút một
phần yêu cầu khởi kiện đối với vchồng ông H1, còn chị giữ nguyên các yêu
cầu khởi kiện khác.
B đơn ông T Văn H1 trình bày: Năm 2005 ông bán cho ông Trịnh Văn Q
bố đanh Trịnh Văn T một phần diện tích đất cụ thể 3,5m chiều rộng, chiều
dài hết thửa đất ruộng một mặt giáp với đường quốc lộ 37 một mặt giáp với
đất T2, khi mua bán hai bên chỉ làm giấy viết tay, không xác nhận của địa
phương; gia đình ông đã giao đđất như thỏa thuận cho ông Q, sau đó ông Q
cho con trai anh Trịnh Văn T sử dụng. Năm 2018 ông không nhớ thời gian cụ
thể, anh Đ liên hệ với ông nói là chú để thêm cho cháu 1,5m chiều rộng giáp
với phần đất anh Đ đã thỏa thuận mua của anh T. Sau khi thỏa thuận, tại quán
bán hàng nhà ông, hai vợ chồng anh Đ, anh T ông thoả thuận anh Đ mua chỗ
đất đó của ông với giá 120.000.000đ đã giao cho ông 110.000.000đ; ông
vợ chồng anh Đ chlàm giấy tờ viết tay không xác nhận của địa phương. Do
anh T mua của gia đình ông chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
nên ông làm giấy tviết tay với vợ chồng anh Đ, còn anh T người chứng
kiến. Hợp đồng ghi giá 320.000.000đ nhưng thực tế ông chỉ nhận 110.000.000đ,
còn anh T nhận 190.000.000 đồng. Vợ chồng anh Đ nlại 20.000.000đ, trong
đó nợ anh T 10.000.000đ, nợ vợ chồng ông 10.000.000đ. Việc mua bán diễn ra
thuận lợi không ai ý kiến gì. Ông cho rằng việc mua bán đã hoàn thành, ông
đã bàn giao đất cho vợ chồng anh Đ. Sau khi mua bán, vợ chồng anh Đ là người
đi làm thủ tục sang tên chứ không phải như chị H xác định ông làm thủ tục sang
tên; gia đình ông chỉ phối hợp và giúp đỡ khi vợ chồng anh Đ cần giấy tờ, gia
đình ông đã cung cấp đầy đủ theo yêu cầu của vợ chồng anh Đ, ông không
trách nhiệm phải đi m giấy tờ cho vợ chồng anh Đ ông chỉ bán 1,5m chiều
rộng. Ông không biết được lý do vì sao vợ chồng anh Đ không làm được thủ tục
sang tên. Nay vợ chồng anh Đ đề nghị Tòa án tuyên hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất lập ngày 18/12/2018 vô hiệu, ông nhất trí trả lại cho vợ chồng
anh Đ số tiền 110.000.000đ nhất trí hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất đưc lập giữa vợ chồng ông với vợ chồng anh Đ, chị H.
B đơn anh Trịnh Văn T trình bày: Năm 2005 bố anh ông Trịnh Văn Q
mua của ông Tạ Văn H1 một diện tích đất ruộng giáp đường quốc lộ 37 chiều
rộng 3,5m, chiều dài 24m một mặt giáp với đường quốc lộ 37 một mặt giáp
với đất T2 với giá 10.000.000đ, khi mua bán hai bên chỉ làm giấy viết tay,
không xác nhận của địa phương. Sau đó bố anh bàn giao lại đất cho anh, do
chưa nhu cầu sử dụng nên vẫn đnguyên, chưa cải tạo gì. Năm 2018 không
nhớ thời gian cụ thể, anh Đ liên hệ qua điện thoại với anh đặt vấn đề mua lại
diện tích đất đó với giá 200.000.000đ, Do phần đất hẹp về chiều ngang nên anh
Đ đã đặt vấn đề với ông H1 mua thêm 1,5m chiều rộng giáp với phần đất của
anh để cho đủ 5m. Tại quán bán hàng nhà ông H1 có anh, hai vợ chồng anh Đ
ông H1 thoả thuận thống nhất kiểm tra đất, vợ chồng anh Đ đã giao cho anh
190.000.000đ, nợ lại 10.000.000đ, v chồng anh Đ giao cho ông H1
110.000.000đ, nợ lại 10.000.000đ. Việc lập Hợp đồng chuyển nhượng do ông
H1 vợ chồng anh Đ tự lập với nhau, anh chchứng kiến thực tế đất vẫn
nằm trong bìa đcủa gia đình ông H1. Anh xác định việc mua bán đã xong nên
anh không đồng ý trả lại tiền cho vợ chồng chị H.
Biên bản xem xét thẩm định tại chỗ xác định: Diện tích đất vợ chồng ông
H1, T1 anh T chuyển nhượng cho vợ chồng anh Đ, chị H nằm trong thửa
đất số 51, tờ bản đồ số 69 thuộc xóm D, P, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên vị
trí chiều rộng theo trục đường quốc lộ 37 là 5m tính từ bờ tường nhà ông H1 kéo
ra 11,5m, chiều dài 22m, theo bản đthể hiện đất 1 lúa, hiện trạng đất đ
không trên đất không tài sản gì. Hội đồng định giá xác định giá đất
64.000đ/m
2
.
Ti bn án dân s thm s 13/2024/DS-ST ngày 24/6/2024 của Tòa án
nhân dân huyện Đại T đã quyết định: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn chị Đỗ Th H.
1. Tuyên bố: Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập ngày
18/12/2018 giữa vợ chồng ông Tạ Văn H1, Đàm Thị T1 với vợ chồng chĐỗ
Th H và anh Hoàng Công Đ vô hiệu.
2. Buộc anh Trịnh Văn T nghĩa vụ trả cho chị Đỗ Th H và anh Hoàng
Công Đ số tiền 190.000.000 đồng.
3. Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của chị Đỗ Th H về việc buộc ông
Tạ Văn H1 Đàm Thị T1 trả cho chị Đỗ Th H anh Hoàng Công Đ số
tiền 110.000.000 đồng.
4. Về chi phí tố tụng: Ông Tạ Văn H1, Đàm Thị T1 nghĩa vụ trả chị
Đỗ Th H 2.333.000 đồng. Anh Trịnh Văn T nghĩa vụ trả cho chị Đỗ Th H
2.333.000 đồng tiền chi phí thẩm định và định giá tài sản.
5. Về án phí dân sự thẩm: Ông Tạ Văn H1, Đàm Thị T1 phải nộp án
phí dân s thẩm 300.000đ, anh Trịnh Văn T phải nộp 300.000 án phí dân
sự vào ngân sách nhà nước.
Ngoài ra bản án thẩm còn tuyên về nghĩa vụ chậm thi hành án quyn
kháng cáo của các bên đương sự.
Ngày 24/6/2024 anh Trịnh Văn T kháng cáo đề ngh cp phúc thm sa bn
án dân s sơ thẩm theo hướng bác yêu cu khi kin của nguyên đơn.
Tại phiên toà phúc thẩm:
- Nguyên đơn gi nguyên yêu cu khi kin, b đơn giữ nguyên yêu cầu
kháng cáo; các bên đương s không tha thuận được với nhau về việc giải quyết
vụ án.
- Đại din Vin kim sát nhân dân tnh Thái Nguyên phát biu ý kiến
quan điểm như sau:
Về tố tụng: Đơn kháng cáo của anh Trịnh Văn T hp l đưc xem xét,
gii quyết theo th tc phúc thm. Hội đng xét x phúc thm, Thư ký và những
ngưi tham gia t tụng đã tuân thủ đúng các quy định ca pháp lut t tng dân
s.
Về nội dung: Sau khi tóm tt ni dung v án, phân tích đánh giá các tài
liệu, chứng cứ trong h vụ án; kết quả tranh luận. Đại diện Viện kiểm sát
cho rằng việc Toà án cấp thẩm tuyên chấp nhận yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn chị Đỗ Th H là có căn cứ. Đngh Hội đồng xét x căn cứ khon 1
Điu 308 ca B lut T tng dân s; không chp nhn kháng cáo ca b đơn
anh Trịnh Văn T; giữ nguyên Bn án dân s sơ thẩm số 13/2024/DS-ST ngày
24/6/2024 của Tòa án nhân dân huyện Đại T.
NHẬN ĐỊNH CA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cu tài liu ti h vụ án được thm tra ti phiên tòa, căn
c vào kết qu tranh lun ti phiên tòa nghe đại din Vin kim sát phát biu
ý kiến, Hội đồng xét x nhận định:
[1]. V th tc t tng: Đơn kháng cáo của b đơn anh Trịnh Văn T đảm
bo v hình thức và làm trong hạn luật định nên đưc xem xét theo trình tự phúc
thẩm.
[2]. Xét kháng cáo ca anh Trịnh Văn T thì thấy:
Diện tích đất vợ chồng ông T Văn H1, Đàm Thị T1 lp hợp đồng
chuyển nhượng cho vợ chồng chị Đỗ Th H, anh Hoàng Công Đ một phần của
thửa đất số 51 tờ bản đồ số 69 diện tích 594,6m2 (bản đđịa chính P)
nguồn gốc ca c T Văn H3 ã chết) là b đẻ ông T Văn H1. C H1 đưc Ủy
ban nhân dân huyện Đ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số C 575583
ngày 20/9/1993. Cụ Hội chết không để lại di chúc, giấy chứng nhận thửa đất này
vn mang tên c T Văn H3.
Ngày 17/3/2005 vợ chồng ông H1 chuyển nhượng mt phn diện ch đất
ca tha 51 cho ông Trịnh Văn Q Dương Thị H2 bố mẹ anh Trịnh n
T, nhưng hai bên chỉ lập giấy tờ viết tay, sau đó ông Q cho con trai là anh T din
tích đt này. Năm 2018 anh T thoả thuận chuyển nhượng diện tích đất này cho
vợ chồng chị H, anh Đ với giá 200.000.000 đồng, chị H anh Đ đã giao cho
anh T 190.000.000 đồng, nợ lại 10.000.000 đồng, đồng thi chị H tiếp tục thỏa
thuận với vợ chồng ông H1 mua thêm 1,5m đất liền kề với đất của anh T với giá
110.000.000 đồng. Sau đó ông H1, anh T và vợ chồng chị H thỏa thuận để vợ
chồng ông H1 đng tên hợp đồng chuyển nhượng với vợ chồng chị H giá
320.000.000đ, ông H1 nhận 110.000.000 đồng, anh T nhận 190.000.000 đồng,
vợ chồng chị H nợ lại ông H1 anh T mỗi người 10.000.000 đồng với thoả
thuận làm xong thủ tục chuyển nhượng sẽ trả hết tiền.
Tuy nhiên, do diện tích đất vn mang tên cụ T Văn H3, nên vợ chồng ông
H1, T1 không quyền chuyển nhượng cho người khác. Việc vợ chồng ông
H1, T1 ngày 18/12/2018 lập hợp đồng chuyển nhượng một phần thửa đất cho
người khác là vi phạm Điều 188 Luật đất đai năm 2013; vi phạm điu kin
hiu lc ca hợp đồng theo quy định Điều 117, Điều 124 B lut Dân sự. Do đó,
Toà án cấp thm đã chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị H, tuyên bố hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập ngày 18/12/2018 giữa ông Tạ Văn
H1, Đàm Thị T1 với anh Hoàng Công Đ, chị Đỗ Th H hiệu căn c,
đúng pháp luật.
Về giải quyết hậu quả của hợp đồng hiệu: Toà án cấp thm buc anh
T phi hoàn trả lại vợ chồng chH số tiền đã nhận 190.000.000 đồng là đúng với
quy định 131 Bộ luật Dân sự. Đối với stiền ông H1 nhận của vchồng chị H,
quá trình giải quyết ông H1 đã trả lại cho vợ chồng chị H chị H đã rút yêu
cầu khởi kiện đối vi vợ chồng ông H1, Toà án cấp thẩm đã đình chỉ giải
quyết vụ án đối vi ông H1 là có cơ sở.
[3] Với phân tích trên, không căn c chấp nhận kháng cáo của b đơn
anh Trịnh Văn T, gi nguyên bản án sơ thẩm.
[4] Quan điểm đề ngh của đi din Vin kim sát nhân dân tnh Thái
Nguyên tnh Thái Nguyên ti phiên toà là phù hp, cn chp nhn.
[5] Về án phí: Do kháng cáo của b đơn anh Trịnh Văn T không được
chp nhn nên phi chu án phí dân s phúc thm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 308 B lut T tng dân s, Ngh quyết s
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 ca U ban Thường v Quc hi;
tuyên x:
1. Không chấp nhận kháng cáo của b đơn anh Trịnh Văn T, gi nguyên
bn án dân s thẩm số 13/2024/DS-ST ngày 24/6/2024 của Tòa án nhân dân
huyện Đại T.
2. Về án phí: Anh Trịnh Văn T phi chịu 300.000 đồng án phí dân s phúc
thẩm. Được trừ số tiền 300.000 đồng anh T đã nộp tạm ứng án phí dân sự phúc
thẩm theo biên lai thu số 0005469 ngày 01/7/2024 ti Chi cc Thi hành án dân
s huyện Đại T.
3. Các quyết định khác ca bn án dân s thẩm không b kháng cáo,
kháng ngh có hiu lc pháp lut k t ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Thái Nguyên;
- TAND huyện Đại Từ;
- Chi cục THADS huyện Đại Từ;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT X PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
Đặng Minh Tuân
Tải về
Bản án số 162/2024/DS-PT Bản án số 162/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 162/2024/DS-PT Bản án số 162/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất