Bản án số 14/2024/LĐ-PT ngày 19/12/2024 của TAND tỉnh Long An về tranh chấp về xử lý kỷ luật, sa thải, đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 14/2024/LĐ-PT

Tên Bản án: Bản án số 14/2024/LĐ-PT ngày 19/12/2024 của TAND tỉnh Long An về tranh chấp về xử lý kỷ luật, sa thải, đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp về xử lý kỷ luật, sa thải, đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Long An
Số hiệu: 14/2024/LĐ-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 19/12/2024
Lĩnh vực: Lao động
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Tranh chấp về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động và bồi thường thiệt hại
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH LONG AN
Bn án số: 14/2024/LĐ-PT
Ngày 19-12-2024
V/v Tranh chấp về đơn phương chấm
dứt hợp đồng lao động và bồi thường
thiệt hại
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LONG AN
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Trần Tấn Quốc
Các Thẩm phán Bà Huỳnh Thị Phượng
Bà Phùng Thị Cẩm Hồng
- Thư phiên tòa: Ông Khổng Văn Đa Thư Tòa án nhân dân tỉnh
Long An.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An tham gia phiên tòa: Ông
Lê Văn Sáu - Kiểm sát viên.Trong các ngày 10, 17 và 19 tháng 12 năm 2024, tại
trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Long An tiến hành xét xử phúc thẩm công khai vụ
án thụ lý số 11/2024/TLPT-LĐ ngày 11 tháng 11 năm 2024 về việc “Tranh chấp
về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động và bồi thường thiệt hại”.
Do Bản án dân sự thẩm số 91/2024/LĐ-ST ngày 23 tháng 7 năm 2024
của Toà án nhân dân huyện Đức Hòa bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 13/2024/QĐ-PT ngày
02 tháng 12 năm 2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Trương Chí C, sinh năm 1983. Địa chỉ cư trú: Ấp D, xã
M, huyện T, tỉnh Long An.
- Bị đơn: Công ty trách nhiệm hữu hạn G. Địa chỉ trụ sở chính: D,
đường số A, khu công nghiệp A, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Long An.
Người đại diện theo ủy quyền: Nguyễn Thị X, sinh năm 1982. Địa chỉ
Công ty: Lô D, đường số A, khu công nghiệp A, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Long An.
- Người kháng cáo: Ông Trương Chí C là nguyên đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện ngày 30/01/2024 trong quá trình giải quyết vụ án
cũng như tại phiên tòa nguyên đơn ông Trương Chí C trình bày:
2
Ngày 25/9/2023, Công ty trách nhiệm hữu hạn G (gọi tắt Công ty G)
gửi email mời ông vào làm với mức lương 20.000.000 đồng các chế độ khác
theo quy định Luật lao động và nội quy, tài chính Công ty. Đến ngày 02/12/2023
hai bên kết Hợp đồng lao động số 7/23 GT, có thời hạn 12 tháng từ ngày
02/12/2023 đến ngày 01/12/2024; địa điểm làm việc tại D đường số A, khu
công nghiệp A, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Long An.
Vị trí công việc IT, theo Hợp đồng lao động thì tiền lương 7.000.000
đồng/tháng; phụ cấp công việc 3.000.000 đồng/tháng; htrợ xăng xe 350.000
đồng/tháng; hỗ trợ n ở 350.000 đồng/tháng; hỗ trợ chuyên cần 500.000
đồng/tháng; thưởng hiệu suất được xác nhận bằng cách thông qua sự đánh giá
của Công ty về thành tích hiệu suất làm việc của mỗi cá nhân. Theo thư mời làm
việc ngày 25/9/2023 thì lương tháng 20.000.000 đồng phụ cấp. Tuy nhiên,
theo thư mời nhận việc ngày 02/10/2023 thì tổng lương của ông là 20.000.000
đồng/tháng + Phụ cấp các chế độ khác.
Ông làm việc đến chiều ngày 17/01/2024 lãnh đạo mời lên làm việc với nội
dung vào ngày 18/01/2024 bàn giao công việc cho IT mới. Đến ngày 18/01/2024
ông bàn giao công việc cho Công ty.
Theo Quyết định thôi việc thì ông nhận được 20.000.000 đồng tiền trợ cấp
thôi việc khoảng 13.000.000 đồng tiền lương từ ngày 01/01/2024 đến ngày
01/17/2024.
Trong quá trình làm việc ông không sai phạm nào để Công ty N. Hiện nay,
ông yêu cầu Công ty bồi thường các khoản sau gồm:
Bồi thường cho người lao động 03 tháng tiền lương 60.000.000 đồng theo
khoản 1 Điều 41 Bộ luật Lao động.
Bồi thường cho người lao động 01 tháng tiền lương 20.000.000 đồng theo
khoản 1 Điều 41 Bộ luật Lao động vi phạm thời hạn báo trước;
Trả cho người lao động 1 tháng tiền lương 20.000.000 đồng trợ cấp nghỉ
việc theo khoản 3 Điều 41 Bộ luật Lao động.
Trả cho người lao động 3 tháng tiền lương 60.000.000 đồng để chấm dứt
hợp đồng lao động vi phạm pháp luật theo khoản 3 Điều 41 Bộ luật Lao động.
Đề nghị đền số tiền lương những ngày không đi làm với mức lương
20.000.000 đồng/tháng kể từ ngày 20/01/2024 cho đến ngày Công ty thực hiện
nghĩa vụ đền bù cho người lao động theo khoản 1 Điều 41 Bộ luật Lao động.
Thanh toán tiền đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp
còn thiếu của người lao động quy định tại khoản 1 Điều 41 Bộ luật Lao động
4.300.000 đồng. Tuy nhiên, tại phiên tòa hôm nay ông xin rút lại yêu cầu khởi
kiện này do Công ty đã chốt sổ và trả sổ bảo hiểm lại cho ông.
Tại bản tự khai ngày 04/6/2024, trong quá trình giải quyết vụ án cũng như
tại phiên tòa người đại diện hợp pháp theo ủy quyền của bị đơn Công ty G do
Nguyễn Thị X trình bày:
3
Ngày 02/12/2023, Công ty G Hợp đồng lao động số 7/23 GT với ông
Trương Chí C có thời hạn 12 tháng từ ngày 02/12/2023 đến ngày 01/12/2024 địa
điểm làm việc tại D đường số A, khu công nghiệp A, Đ, huyện Đ, tỉnh
Long An. Vị trí công việc IT, theo Hợp đồng lao động thì tiền lương là
7.000.000 đồng/tháng; phụ cấp công việc 3.000.000 đồng/tháng; hỗ trợ xăng xe
350.000 đồng/tháng; hỗ trợ nhà 350.000 đồng/tháng; hỗ trợ chuyên cần
500.000 đồng/tháng; thưởng hiệu suất được xác nhận bằng cách thông qua sự
đánh giá của Công ty về thành tích hiệu suất làm việc của mỗi cá nhân.
Trong quá trình làm việc thì ông Trương Chí C rất nhiều lần không hoàn
thành công việc được giao Công ty cũng đã lập biên bản về việc ông C vi
phạm. Đỉnh điểm một lần ông C lợi dụng vị trí công việc của mình nhân
viên IT đã hack toàn bộ hệ thống mạng m cho việc sản xuất kinh doanh của
Công ty bị đình trễ. Khi đó, công ty mời chính quyền địa phương xuống
nhưng lãnh đạo Công ty xem xét làm vậy sẽ ảnh hưởng đến tương lai của ông C.
Do đó, Công ty không yêu cầu Công an xử lý trách nhiệm của ông C.
Sau đó, Công ty mời ông C lên làm việc ông C cũng thừa nhận những
sai phạm của mình, lãnh đạo công ty thấy ông C mới vào làm trong Công ty một
thời gian ngắn mà mắc rất nhiều sai phạm, nên đã cho ông C thôi việc, trong
thời gian này ng ty chưa đủ số lượng công nhân nên chưa thành lập được
Công đoàn sở. Khi đó, ông C cũng đồng ý, tôn trọng với ý kiến của Công ty,
nên các bên đã tiến hành bàn giao công việc Công ty cũng đã giải quyết chế
độ cho ông nghĩ việc theo đúng quy định pháp luật. Nay ông C lại khởi kiện
công ty bà đại diện Công ty không đồng ý.
Tại bản án dân sự thẩm số: 91/2024/LĐ-ST ngày 23 tháng 7 năm 2024
của Toà án nhân dân huyện Đức Hòa đã tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Trương Chí C “Tranh
chấp về việc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động bồi thường thiệt hại”
đối với Công ty trách nhiệm hữu hạn G1.
2. Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của ông Trương Chí C về việc yêu cầu Công
ty trách nhiệm hữu hạn G1 thanh toán tiền đóng bảo hiểm hội, bảo hiểm y tế,
bảo hiểm thất nghiệp trong những ngày ông Trương Chí C không được làm việc
theo quy định tại khoản 1 Điều 41 Bộ luật lao động.
3. Buộc Công ty trách nhiệm hữu hạn G1 nghĩa vụ thanh toán cho ông
Trương Chí C số tiền là 57.466.000 đồng.
Khi án hiệu lực pháp luật, kể từ khi đơn yêu cầu thi hành án của
người được thi hành án cho đến khi thi hành xong các khoản tiền, bên nghĩa
vụ thi hành án còn phải chịu thêm khoản tiền lãi trên số tiền chậm trả theo mức
lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự số 91/2015/QH13, tương
ứng với thời gian chưa thi hành.
Ngoài ra, Tòa án cấp thẩm còn tuyên về nghĩa vụ chịu án phí; quyền
kháng cáo; quyền yêu cầu, nghĩa vụ và thời hiệu thi hành án.
4
Ngày 01/8/2024, Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa nhận được đơn kháng
cáo của ông Trương Chí C kháng cáo toàn bộ Bản án thẩm, yêu cầu Tòa án
cấp phúc thẩm sửa bản án thẩm theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi
kiện của nguyên đơn.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Nguyên đơn không rút đơn khởi kiện vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng
cáo. Các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.
Nguyên đơn ông Trương Chí C trình bày:
Tổng số tiền ông C yêu cầu Công ty G trả 311.092.000 đồng theo mức
lương 20.000.000 đồng/tháng quy định tại Điều 41 Bộ luật Lao động, trong đó
bao gồm: Tiền lương 207.692.000 đồng (tính từ ngày 21/01/2024 đến ngày
02/12/2024); trả thêm 03 tháng tiền lương 60.000.000 đồng; 01 tháng tiền lương
20.000.000 đồng do vi phạm thời hạn báo trước; trợ cấp thôi việc (Công ty đã trả
20.000.000 đồng vào ngày 17/01/2024); đền bù thiệt hại do danh sự, nhân phẩm,
uy tín bị xâm phạm stiền 23.400.000 đồng; về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế,
bảo hiểm thất nghiệp thì tính trên mức lương 20.000.000 đồng/tháng nhưng bản
án sơ thẩm chỉ tính mức lương 10.000.000 đồng/tháng.
Bị đơn Công ty trách nhiệm hữu hạn G1 do Nguyễn Thị X đại diện trình
bày:
Công ty G thừa nhận quy trình chấm dứt hợp đồng lao động với ông C
chưa đúng do không báo trước, Công ty cũng đã trả lương cho ông C đến ngày
20/01/2024 để chấm dứt hợp đồng. Tuy nhiên, ông C khởi kiện yêu cầu Công ty
trả tiền lương 20.000.000 đồng/tháng trong những ngày không được làm việc thì
Công ty không đồng ý. Đối với tiền thưởng hiệu suất thì không thỏa thuận số
tiền trong hợp đồng được xác nhận bằng cách thông qua sđánh giá của
Công ty về thành tích, hiệu suất làm việc của mỗi cá nhân. Do ông C không làm
việc tại Công ty nên Công ty không đánh giá về thành tích, hiệu suất làm việc
của ông C. Đề nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An phát biểu ý kiến:
Về tính hợp lệ của kháng cáo: Đơn kháng cáo nằm trong hạn luật định nên
được xem xét theo trình tự phúc thẩm.
Về chấp hành pháp luật: Kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội
đồng xét xử nghị án Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư phiên tòa đã tuân thủ
đúng những quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, những người tham gia tố tụng
đã chấp hành đúng pháp luật.
Về giải quyết yêu cầu kháng cáo: Theo thỏa thuận tại hợp đồng lao động
giữa Công ty G với ông C thì tiền lương bao gồm mức lương
7.000.000đồng/tháng; phụ cấp ng việc 3.000.000 đồng/tháng; hỗ trợ xăng xe
350.000 đồng/tháng; hỗ trợ nhà 350.000 đồng/tháng; hỗ trợ chuyên cần
500.000 đồng/tháng; tổng cộng là 11.200.000đồng/tháng nên có cơ sở chấp nhận
5
một phần kháng cáo để tính tiền lương; đối với tiền thưởng hiệu suất làm việc
thì không căn cứ chấp nhận để tính tiền lương. Tại phiên tòa phúc thẩm, ông
Công trình B từ tháng 3/2024 đến nay thì ông C đã làm việc hưởng lương tại
Công ty TNHH O nên Công ty G chỉ phải trả lương cho ông C đến ngày ông C
có việc làm. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giải quyết theo quy định của pháp
luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Về thủ tục tố tụng:
[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, những người được Tòa án triệu tập mặt,
Tòa án tiến hành xét xtheo trình tự phúc thẩm phù hợp quy định tại Điều
296 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Tòa án cấp thẩm xác định thẩm quyền Tòa án giải quyết, quan hệ
pháp luật tranh chấp, người tham gia tố tụng xét xử theo trình tự thẩm
phù hợp với quy định tại Điều 32, 35, 39, 227, 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, bản
án sơ thẩm đảm bảo thủ tục tố tụng.
Về việc giải quyết yêu cầu kháng cáo:
[3] Xét kháng cáo của nguyên đơn ông Trương Chí C, Hội đồng xét xử
thấy rằng:
[4] Theo Hợp đồng lao động số 7/23 GT ngày 02/12/2023 kết giữa
Công ty G và ông C thời hạn 12 tháng từ ngày 02/12/2023 đến ngày
01/12/2024. Các bên trình bày vào ngày 17/01/2024 Công ty thông báo yêu cầu
cho ông C bàn giao lại công việc cho ng ty, ngày 18/01/2024 ông C đã bàn
giao công việc lại cho Công ty, ngày 20/01/2024 Công ty B1 Quyết định thôi
việc (về việc chấm dứt hợp đồng lao động) với ông C. Như vậy, việc Công ty
đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động với ông C không thuộc các trường hợp
người sử dụng lao động được quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động
theo quy định tại khoản 1 Điều 36 Bộ luật Lao động. Do đó, căn cứ xác định
hành vi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của Công ty G là trái pháp luật
theo quy định tại Điều 39 Bộ luật Lao động.
[5] Về nghĩa vụ của người sử dụng lao động khi đơn phương chấm dứt hợp
đồng lao động trái pháp luật được thực hiện theo quy định tại Điều 41 Bộ luật
lao động. Theo hợp đồng lao động thì tiền lương hai bên thỏa thuận bao gồm:
mức lương 7.000.000 đồng/tháng; phụ cấp công việc 3.000.000 đồng/tháng; hỗ
trợ xăng xe 350.000 đồng/tháng; hỗ trợ nhà ở 350.000 đồng/tháng; hỗ trợ
chuyên cần 500.000 đồng/tháng; tiền thưởng hiệu suất được xác nhận bằng cách
thông qua sự đánh giá của Công ty vthành tích, hiệu suất làm việc của mỗi
nhân. Tuy nhiên, việc thưởng hiệu suất không quy định cụ thể số tiền bao nhiêu
trong hợp đồng và cũng cần sự đánh giá của Công ty về thành tích, hiệu suất làm
việc nên không làm căn cứ để tính tiền lương khi chấm dứt hợp đồng lao động
trái pháp luật. Do tính tiền lương trong thời gian ông C không làm việc tại Công
6
ty nên chỉ lấy mức lương 7.000.000 đồng/tháng các khoản bao gồm phụ cấp
công việc 3.000.000 đồng/tháng, hỗ trợ xăng xe 350.000 đồng/tháng, hỗ trợ nhà
350.000 đồng/tháng, hỗ trợ chuyên cần 500.000 đồng/tháng, tổng cộng
11.200.000 đồng/tháng để làm căn cứ nh tiền lương theo quy định tại Điều 90
Bộ luật Lao động. Bản án thẩm lấy mức lương 7.000.000 đồng/tháng để tính
tiền lương là chưa phù hợp.
[6] Tại phiên tòa phúc thẩm, ông Công trình B sau khi Công ty G chấm dứt
hợp đồng lao động thì ngày 26/02/2024 Công ty TNHH O thư mời ông C làm
việc ông C bắt đầu làm việc tại Công ty TNHH O 02 tháng thử việc từ tháng
3 đến tháng 4 với mức lương 20.000.000 đồng. Sau đó, ông Công ty TNHH
O hợp đồng chính thức thời hạn 01 năm bắt đầu làm việc từ tháng 5 đến nay
với mức lương 22.000.000 đồng (ông C nộp hợp đồng, phiếu lương
chuyển khoản lương kèm theo). Tại khoản 1 Điều 41 Bộ luật Lao động quy định
nghĩa vụ của người sử dụng lao động khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao
động trái pháp luật “…phải trả tiền lương, đóng bảo hiểm hội, bảo hiểm y
tế, bảo hiểm thất nghiệp trong những ngày người lao động không được làm
việc…”. Do ông C đã làm việc tại Công ty TNHH O từ tháng 3/2024 đến nay với
mức lương cũng tương đương khi làm việc tại Công ty G nên thời gian này được
xem là ông C được làm việc. Về đóng bảo hiểm hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm
thất nghiệp trong những ngày ông C không được làm việc thì ng ty đã chốt sổ
bảo hiểm xong nên tại cấp sơ thẩm ông C đã rút lại yêu cầu khởi kiện này.
[7] Việc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động vi phạm thời hạn báo
trước 30 ngày đối với hợp đồng lao động từ 12 tháng đến 36 tháng theo quy định
tại khoản 2 Điều 36 Bộ luật Lao động. Công ty G không muốn nhận ông C quay
lại làm việc ông C cũng không muốn tiếp tục làm việc tại Công ty G nên ông
C yêu cầu tính trợ cấp thôi việc. Tuy nhiên, ông C vào làm việc với Công ty từ
ngày 02/12/2023 đến ngày 20/01/2024 chưa đủ 12 tháng nên không đủ điều
kiện để Công ty trả trợ cấp thôi việc theo quy định tại Điều 46 Bộ luật Lao động.
[8] Như vậy, Công ty G có nghĩa vụ trả cho ông C các khoản bao gồm: Trả
tiền lương trong những ngày ông C không được làm việc tính từ ngày
21/01/2024 đến ngày 29/02/2024 (hết tháng 02/2024): 01 tháng 09 ngày x
11.200.000 đồng = 14.560.000 đồng, trả thêm hai tháng tiền lương theo hợp
đồng lao động 22.400.000 đồng, trả một khoản tiền tương ứng với số tiền
lương theo hợp đồng lao động do vi phạm thời hạn báo trước 30 ngày
11.200.000 đồng, bồi thường hai tháng tiền lương để chấm dứt hợp đồng lao
động 22.400.000 đồng; tổng cộng Công ty G nghĩa vụ trả cho ông C
70.560.000 đồng. Ông C đồng ý khấu trừ số tiền 20.000.000 đồng ng ty
đã trả cho ông khi chấm dứt hợp đồng. Do đó, số tiền mà Công ty G còn phải trả
cho ông C là 50.560.000 đồng.
[9] Xét thấy, số tiền Công ty G phải trả cho ông C 50.560.000 đồng
thấp hơn số tiền mà bản án sơ thẩm đã tuyên buộc Công ty G phải trả cho ông C
7
57.466.000 đồng. Tuy nhiên, Công ty G không kháng cáo bản án thẩm nên
Hội đồng xét xử chỉ xét xử trong phạm vi kháng cáo của ông C.
[10] Đối với kháng cáo bổ sung của ông C yêu cầu xem xét về bảo hiểm xã
hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp tính trên mức lương 20.000.000
đồng/tháng đền thiệt hại do danh sự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm số
tiền 23.400.000 đồng thì Hội đồng xét xử phúc thẩm không xem xét giải quyết
do cấp phúc thẩm chỉ xét xử trong phạm vi kháng cáo của ông C đã được Tòa án
cấp sơ thẩm xét xử.
[11] Ngoài ra, cấp thẩm chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông
C nhưng không tuyên không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện còn lại
thiếu sót. Tuy nhiên, cấp sơ thẩm chưa làm rõ tổng số tiền mà ông C khởi kiện là
bao nhiêu để xem xét tuyên không chấp nhận cho phù hợp. Cho nên, cấp phúc
thẩm không tuyên bổ sung đối với yêu cầu khởi kiện không được chấp nhận.
[12] Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo
của ông C, giữ nguyên bản án sơ thẩm ný kiến phát biểu của đại diện Viện
kiểm sát nhân dân tỉnh Long An.
[13] Về án phí dân sự phúc thẩm: Ông Trương Chí C được miễn do
người lao động khởi kiện về chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật.
[14] Những phần khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị
có hiệu lực thi hành kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Trương Chí C.
Giữ nguyên Bản án sơ thẩm số: 91/2024/LĐ-ST ngày 23 tháng 7 năm 2024
của Toà án nhân dân huyện Đức Hòa.
Căn cứ vào các Điều 32, 35, 39, 147, 148, 180, 217, 218 và 483 Bộ luật Tố
tụng dân sự; các Điều 21, 36, 39, 41, 46, 90 Bộ luật Lao động; các Điều 3, 6, 12,
14, 27, 29 48 Nghị quyết s326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy
ban thường vụ Quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản sử
dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Trương Chí C “Tranh
chấp về việc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động bồi thường thiệt hại”
với Công ty trách nhiệm hữu hạn G1.
Buộc Công ty trách nhiệm hữu hạn G1 nghĩa vụ thanh toán cho ông
Trương Chí C số tiền 57.466.000đ (Năm mươi bảy triệu bốn trăm sáu mươi
sáu ngàn đồng).
8
Khi án hiệu lực pháp luật, kể từ khi đơn yêu cầu thi hành án của
người được thi hành án cho đến khi thi hành xong các khoản tiền, bên nghĩa
vụ thi hành án còn phải chịu thêm khoản tiền lãi trên số tiền chậm trả theo mức
lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự số 91/2015/QH13, tương
ứng với thời gian chưa thi hành.
2. Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của ông Trương Chí C về việc yêu cầu Công
ty trách nhiệm hữu hạn G1 thanh toán tiền đóng bảo hiểm hội, bảo hiểm y tế,
bảo hiểm thất nghiệp trong những ngày ông Trương Chí C không được làm việc
theo quy định tại khoản 1 Điều 41 Bộ luật Lao động.
3. Về án phí lao động thẩm: Ông Trương Chí C được miễn. Công ty
trách nhiệm hữu hạn G phải chịu 1.723.980 đồng.
4. Về án phí phúc thẩm: Ông Trương Chí C được miễn. Hoàn trả cho ông
Trương Chí C 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu số
0005307 ngày 01/8/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đức Hòa, tỉnh
Long An.
5. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2
Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi nh
án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện
thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a
9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định
tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
6. Bản án phúc thẩm có hiệu lực thi hành kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- TANDCC tại Tp. Hồ Chí Minh;
- VKSND tỉnh Long An;
- TAND huyện Đức Hòa;
- Chi cục THADS huyện Đức Hòa;
- Đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Trần Tấn Quốc
Tải về
Bản án số 14/2024/LĐ-PT Bản án số 14/2024/LĐ-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 14/2024/LĐ-PT Bản án số 14/2024/LĐ-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất