Bản án số 306/2024/DS-PT ngày 27/12/2024 của TAND tỉnh Kiên Giang về tranh chấp đất đai
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 306/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 306/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 306/2024/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 306/2024/DS-PT ngày 27/12/2024 của TAND tỉnh Kiên Giang về tranh chấp đất đai |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp đất đai |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Kiên Giang |
Số hiệu: | 306/2024/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 27/12/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | - Chấp nhận một phần nội dung kháng cáo của bị đơn ông Phan Thành L, bà Văn Thị H; người có quyền lợi, nghĩa vụ liện quan Đỗ Long A1 và bà Phạm Thị Thanh B. - Sửa bản án dân sự sơ thẩm số 115/2024/DS-ST ngày 31 tháng 7 năm 2024 của Tòa án nhân dân thành phố Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang. |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH KIÊN GIANG
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 306/2024/DS-PT
Ngày: 27 - 12 - 2024
V/v: “Tranh chấp hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng
đất, hợp đồng dịch vụ và đòi
lại tài sản”.
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH KIÊN GIANG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Trần Bá Kha
Các Thẩm phán: Ông Lê Quang Tấn
Bà Nguyễn Thị Nhiên
- Thư ký phiên tòa: Bà Trương Vũ Tường Ninh - Thư ký Tòa án nhân
dân tỉnh Kiên Giang.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Kiên Giang tham gia phiên tòa:
Ông Trịnh Văn Đương - Kiểm sát viên.
Trong các ngày 23 và ngày 27 tháng 12 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân
tỉnh Kiên Giang xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 213/2024/TLPT-DS
ngày 04 tháng 10 năm 2024, về việc “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất, hợp đồng dịch vụ và đòi lại tài sản”.
Do bản án dân sự sơ thẩm số 115/2024/DS-ST ngày 31/7/2024 của Tòa án
nhân dân thành phố Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 245/2024/QĐ-PT ngày
14 tháng 10 năm 2024; Quyết định hoãn phiên toà phúc thẩm số 227/2024/QĐ-
PT ngày 10 tháng 12 năm 2024; giữa các đương sự:
* Nguyên đơn: Ông Doãn Minh K, sinh năm 1966.
Địa chỉ: Tổ A, khu phố D, phường D, thành phố P, tỉnh Kiên Giang.
Người đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn: Ông Trần Văn A, sinh năm
1982.
Địa chỉ cũ: Ấp S, xã D, thành phố P, tỉnh Kiên Giang.
Địa chỉ liên hệ: số G, đường B, phường A, thành phố V, tỉnh Bà Rịa -
Vũng Tàu. (Theo văn bản uỷ quyền ngày 25/5/2020).
* Bị đơn:
1. Ông Phan Thành L, sinh năm 1951.
2. Bà Văn Thị H, sinh năm 1953 (Vợ ông L).
Cùng địa chỉ: Tổ A, khu phố I, phường D, thành phố P, tỉnh Kiên Giang
Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn: Ông Lê Hồng T, sinh năm
1968.
Địa chỉ: Hẻm C, đường H, khu phố E, phường D, thành phố P, tỉnh Kiên
Giang (Theo văn bản ủy quyền ngày 04/8/2022),
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn: Luật sư Lê Thị H1 -
2
Thuộc Trung Tâm T7, Thành phố Hồ Chí Minh. Địa chỉ: Số F đường N, phường
A, quận D, Thành phố Hồ Chí Minh.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Võ Thị H2, sinh năm 1965 (Vợ ông K).
Địa chỉ: Tổ A, khu phố D, phường D, thành phố P, tỉnh Kiên Giang.
2. Bà Võ Thị Cẩm N, sinh năm 1982.
3. Ông Nguyễn Minh T1, sinh năm 1985 (Chồng bà N)
Cùng địa chỉ: Tổ B, khu phố E, phường D, thành phố P, tỉnh Kiên Giang.
4. Bà Phạm Thị Thanh B, sinh năm 1985.
5. Ông Đỗ Long A1, sinh năm 1986 (Chồng bà B).
Cùng địa chỉ: Tổ A, khu phố I, phường D, thành phố P, tỉnh Kiên Giang.
6. Bà Nguyễn Thị T2, sinh năm 1979.
7. Ông Chu Hoài M, sinh năm 1972 (Chồng bà T2).
Cùng địa chỉ: Khu phố F, phường D, thành phố P, tỉnh Kiên Giang.
8. Ông Nguyễn Thanh T3, sinh năm 1972.
Địa chỉ: Số B, đường N, phường N, quận H, Thành phố Hà Nội.
Người đại diện theo uỷ quyền của ông T3: Ông Phạm Hồng S, sinh năm
1975.
Địa chỉ: Ấp S, xã D, thành phố P, tỉnh Kiên Giang (Theo văn bản uỷ
quyền ngày 28/8/2023).
9. Cháu Đỗ Ngọc Trúc M1, sinh năm 2011 (Con bà B, ông A1).
10. Cháu Đỗ Ngọc Thanh T4, sinh năm 2014 (Con bà B, ông A1).
Người đại diện hợp pháp của cháu M1 và T4: Bà Phạm Thị Thanh B,
sinh năm 1985 và ông Đỗ Long A1, sinh năm 1986.
Địa chỉ: Tổ A, khu phố I, Đường T, phường D, thành phố P, tỉnh Kiên
Giang.
11. Ủy ban nhân dân thành phố P, tỉnh Kiên Giang.
Trụ sở: Khu phố 2, phường Dương Đông, thành phố Phú Quốc, tỉnh Kiên
Giang.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Huỳnh Quang H3 – Chức vụ: Chủ
tịch.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Huỳnh Văn S1 – Phó Trưởng phòng
Tài nguyên và Môi trường thành phố P, tỉnh Kiên Giang.
- Người kháng cáo: Bị đơn ông Phan Thành L, bà Văn Thị H; Người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Phạm Thị Thanh B và ông Đỗ Long A1.
(Tại phiên toà ông Doãn Minh K, ông Trần Văn A, ông Phan Thành L,
ông Lê Hồng T, luật sư Lê Thị H1, ông Đỗ Long A1 có mặt; còn lại các đương
sự khác vắng mặt có đơn xin xét xử vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
- Theo đơn khởi kiện, quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn ông Doãn
Minh K trình bày:
Ngày 23/5/2003, vợ chồng ông Phan Thành L, bà Văn Thị H có thoả
thuận ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất (Hợp đồng CNQSD đất)
cho ông diện tích 5.000m
2
, trong diện tích 8.270m
2
, thuộc thửa 29, tờ bản đồ số
3
02, toạ lạc tại khu phố I, thị trấn D, huyện P, (Nay là phường D, thành phố P),
tỉnh Kiên Giang, theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (Giấy CNQSD đất) số
DĐ 0000081, cấp ngày 30/6/2003 cho ông Phan Thành L với giá chuyển
nhượng là 45.000.000 đồng/1000m
2
, thành tiền là 225.000.000 đồng. Việc
chuyển nhượng đất hai bên có lập hợp đồng CNQSD đất do một mình ông L ký
được Uỷ ban nhân dân (UBND) thị trấn D, huyện P (Nay là UBND phường D,
thành phố P), tỉnh Kiên Giang ký xác nhận. Ông đã giao đủ tiền, ông L đã giao
đất cho ông sử dụng và giao giấy CNQSD đất của ông L cho ông đi làm thủ tục
tách thửa, nhưng do bị quy hoạch khu vực sinh thái khu nghỉ dưỡng chăm sóc
sức khỏe Gành Gió nên không tách thửa được.
Năm 2007, ông L và bà H tiếp tục chuyển nhượng thêm cho ông diện tích
1.000m
2
(Liền kề với diện tích 5.000m
2
mà ông L đã chuyển nhượng cho ông
trước đó), đất nằm trong diện tích 8.270m
2
ông L được cấp giấy CNQSD đất,
với giá chuyển nhượng là 50.000.000 đồng. Như vậy, ông L và bà H đã chuyển
nhượng cho ông hai lần tổng cộng diện tích đất 6.000m
2
. Ông đã làm thủ tục và
được cấp giấy diện tích 4.463m
2
(Trong đó phần diện tích 2.270,9m
2
là được
tách từ diện tích 8.270m
2
mà ông L được cấp giấy và diện tích 2.192,9m
2
là
phần diện tích ông L chuyển nhượng cho ông K chưa được cấp giấy). Diện tích
đất còn lại 1.536,2m
2
ông L tự động lấy chuyển nhượng cho người khác. Ông
không có thoả thuận việc đổi đất cũng như chuyển nhượng đất cho ông L. Việc
ông L nói giấy nhận tiền ngày 08/02/2018, ông chuyển nhượng lại cho ông L
diện tích 1.200m
2
với giá 250.000.000 đồng là không đúng. Số tiền 250.000.000
đồng này là ông L và bà H vay tiền của ông để sửa nhà, hai bên có lập giấy vay
mượn nợ vào ngày 17/10/2017. Ngày 08/02/2018, ông L trả cho ông được
60.000.000 đồng còn nợ lại ông 190.000.000 đồng, ông Lâm trừ 50.000.000
đồng tiền mua đất của bà H2 (Vợ ông) còn thiếu ông L. Như vậy, ông L còn nợ
lại ông 140.000.000 đồng đến nay chưa trả.
Tháng 11/2017, ông L làm thủ tục cấp bổ sung diện tích đất còn lại, ông L
có đến nhà ông nhờ ký giáp ranh, nhưng ông nhìn sơ đồ không hiểu, thì ông L
nói diện tích đất sơ đồ này nằm ngoài diện tích đất bán cho ông nên ông mới ký
vào bản mô tả, mốc giới ngày 07/11/2017. Sau này ông phát hiện, ông L lấy đất
của ông bán cho người khác nên ông có trình báo Chi nhánh Văn phòng đăng ký
đất đai ngưng việc xem xét cấp giấy cho ông L. Ông có ký hợp đồng dịch vụ
viết tay với ông L và có ứng trước của ông L 20.000.000 đồng để làm giấy tờ
cho ông L. Khi đi làm thủ tục thì mới phát hiện ông L lấy đất của ông bán cho
người khác nên xảy ra tranh chấp. Nay ông đồng ý trả 20.000.000 đồng này cho
ông L. Ông không có môi giới cho ông L bán đất cho bà H2 và bà N và cũng
không có hoán đổi 1.200m
2
đất cho ông L để phân nền ra bán cho bà H2, bà N,
bà B và bà T2.
Nay ông yêu cầu Toà án giải quyết: Buộc bị đơn ông L, bà H phải giao trả
diện tích đất 6.000m
2
, thuộc thửa số 29, tờ bản đồ số 02, tọa lạc tại khu phố I,
phường D, thành phố P, tỉnh Kiên Giang, theo hợp đồng CNQSD đất xác lập
ngày 16/4/2003 và giấy tay chuyển nhượng đất ngày 28/5/2007.
Buộc ông L, bà H phải lập thủ tục tách thửa sang tên cho ông theo quy
định của pháp luật đối với phần diện tích đất nêu trên.
4
Hủy giấy đặt cọc sang nhượng đất xác lập ngày 09/6/2007, giữa ông L,
bà H với bà Võ Thị Cẩm N đối với diện tích 270m
2
, thuộc thửa số 29, tờ bản đồ
số 02, toạ lạc khu phố I, phường D, thành phố P, tỉnh Kiên Giang.
Hủy giấy sang nhượng đất xác lập ngày 20/8/2007, giữa ông L, bà H với
bà Võ Thị H2 đối với diện tích 350m
2
, thuộc thửa số 29, tờ bản đồ số 02, toạ lạc
tại khu phố I, phường D, thành phố P, tỉnh Kiên Giang.
Hủy giấy viết tay sang nhượng đất giữa ông L, bà H với bà Phạm Thị
Thanh B đối với diện tích 513,1m
2
, thuộc thửa số 29, tờ bản đồ số 02, toạ lạc tại
khu phố I, phường D, thành phố P, tỉnh Kiên Giang.
Ngày 03/4/2023, ông K có đơn xin rút một phần yêu cầu khởi kiện và sửa
đổi, bổ sung đơn khởi kiện như sau:
Không yêu cầu Toà án giải quyết đối với phần diện tích đất đã được cấp
giấy CNQSD đất diện tích 4.463,8m
2
, thuộc thửa số 16 và thửa số 204, tờ bản đồ
số 110, toạ lạc tại khu phố I, phường D, thành phố P, tỉnh Kiên Giang.
Sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện đối với bị đơn như sau:
Công nhận hợp đồng CNQSD đất xác lập ngày 16/4/2003, giữa ông với bị
đơn ông L, bà H và giấy tay chuyển nhượng đất xác lập ngày 28/5/2007, giữa
ông với ông L, bà H có giá trị pháp lý.
Buộc ông L, bà H giao đủ diện tích đất 1.536,2m
2
, thuộc thửa số 29, tờ
bản đồ số 02 (Nay là một phần thửa số 16, tờ bản đồ 110), toạ lạc tại khu phố I,
phường D, thành phố P, tỉnh Kiên Giang, theo hợp đồng CNQSD đất xác lập
ngày 16/4/2003 và ngày 28/5/2007, đồng thời lập thủ tục sang tên cho ông theo
quy định của pháp luật.
Tuyên hợp đồng đặt cọc sang nhượng đất xác lập ngày 07/8/2005 và hợp
đồng chuyển nhượng ngày 20/8/2018, giữa bà Võ Thị H2 với ông L, bà H; hợp
đồng đặt cọc ngày 09/6/2007, giữa bà N với ông L, bà H vô hiệu.
Tuyên giấy đặt cọc sang nhượng đất xác lập ngày 15/11/2017, giữa bà
Phạm Thị Thanh B với ông L, bà H vô hiệu.
Ngày 24/11/2023, ông K có đơn khởi kiện bổ sung:
Yêu cầu ông Phan Thành L, bà Văn Thị H giao trả diện tích đất theo đo
đạc thực tế là 1.345,2m
2
, đối với diện tích đất còn thiếu theo hợp đồng chuyển
nhượng là 191,5m
2
, yêu cầu vợ chồng ông L, bà H phải trả giá trị định giá và bồi
thường thiệt hại cho ông theo quy định pháp luật.
Buộc vợ chồng ông Đỗ Long A1, bà Phạm Thị Thanh B phải giao trả diện
tích đất 528,36m
2
mà vợ chồng ông A1, bà B đang quản lý, sử dụng. Đối với căn
nhà ông A1, bà B xây dựng trên đất thì ông đồng ý trả giá trị cho ông A1, bà B
theo định giá.
- Theo đơn yêu cầu phản tố và quá trình giải quyết vụ án bị đơn ông
Phan Thành L và bà Văn Thị H trình bày:
Vợ chồng ông bà được cấp giấy CNQSD đất diện tích đất 8.270m
2
, thuộc
thửa số 29, tờ bản đồ số 2, tọa lạc tại khu phố I, thị trấn D, huyện P (N là
phường D, thành phố P), tỉnh Kiên Giang, theo giấy CNQSD đất số M 889302
cấp ngày 30/6/2003 đứng tên ông, bà Phan Thành L. Ngày 23/5/2003, ông ký
hợp đồng CNQSD đất cho ông Doãn Minh K diện tích 5.000m
2
. Năm 2007, ông
tiếp tục viết giấy tay bán thêm cho ông K diện tích 1.000m
2
liền kề với diện tích
5
5.000m
2
. Như vậy, ông đã chuyển nhượng cho ông K tổng cộng diện tích
6.000m
2
, trong diện tích 8.270m
2
nêu trên, diện tích còn lại là 2.270m
2
.
Năm 2016, ông chuyển nhượng cho bà Võ Thị H2 (Vợ ông K) diện tích
350m
2
giáp biển, khi chủ trương cho phép chuyển nhượng, tách thửa thì ông K
thỏa thuận chuyển nhượng lại cho ông diện tích 1.200m
2
trong diện tích 6.000m
2
mà ông đã chuyển nhượng cho ông K theo 03 điều kiện của ông K đưa ra là:
1. Ông phải trả cho ông K diện tích 250m
2
(Có giấy nhận tiền ngày
08/02/2018 của ông K).
2. Ông phải đổi phần đất 350m
2
phía sau nhà mà ông đã bán cho bà H2 ra
phần đất 1.200m
2
với diện tích tương ứng là 350m
2
.
3. Khi địa chính xuống đo đạc ranh giới, xác định mốc giới thửa đất của
ông cả phần đất ông K và diện tích đất còn lại của ông, thì ông K chứng kiến, ký
tên vào văn bản mô tả ranh giới, mốc giới thửa đất, ông trả công ký ranh đất cho
ông K số tiền là 250.000.000 đồng. Sau đó, ông K đóng cọc bê tông cắm mốc,
ranh giới thửa đất giữa hai bên theo mốc giới mới, khi hoàn tất công việc trên
ông có nhu cầu chuyển nhượng diện tích đất 1.200m
2
cho ông K đã môi giới và
ông K soạn thảo hợp đồng và ký tên người làm chứng cho ông K để ông K
chuyển nhượng hoán đổi cho bà H2 (Vợ ông K) diện tích 350m
2
; chuyển
nhượng cho bà N (Cháu ông K) diện tích 270m
2
, ông K trực tiếp ký hợp đồng
CNQSD đất cho bà Phạm Thị Thanh B diện tích 550m
2
và bà Nguyễn Thị T2
diện tích 142m
2
, do đất tranh chấp bà T2 không đồng ý mua nên ông trả tiền lại
cho bà T2.
Ngày 16/12/2018, ông K ký hợp đồng dịch vụ tách thửa cho ông 07 nền.
Trong đó, 04 nền diện tích 1.200m
2
và 03 nền diện tích 2.270m
2
, phí dịch vụ là
100.000.000 đồng, ông K đã ứng trước của ông 20.000.000 đồng, nhưng ông
chờ mãi ông K không thực hiện việc tách thửa theo hợp đồng. Do đó, ông đã gặp
ông K hỏi thì ông K ngang ngược nói rằng phần đất mà ông chuyển nhượng cho
04 người có tên trên là đất của ông K, nên ông K đã hủy bỏ hết giấy tờ không
làm thủ tục tách thửa cho ông và xúi giục bà H2 (Vợ ông K) và bà N (Cháu vợ
ông K) làm đơn kiện ông đến UBND phường và Tòa án cho rằng ông lấy đất của
ông K bán. Như vậy, ông K là người vi phạm hợp đồng nói trên.
Nay ông bà phản tố yêu cầu Toà án giải quyết: Huỷ một phần hợp đồng
CNQSD đất diện tích 1.200m
2
(Trong diện tích 6.000m
2
, ông đã chuyển nhượng
cho ông K) xác lập ngày 16/4/2003.
Công nhận diện tích đất 1.200m
2
, thuộc thửa số 29, tờ bản đồ số 02, đất
toạ lạc tại khu phố I, thị trấn D, huyện P (N là thành phố P), tỉnh Kiên Giang cấp
ngày 30/6/2003 cho ông bà.
Huỷ hợp đồng dịch vụ hành chính giữa ông bà với ông K xác lập ngày
12/12/2018 và buộc ông K phải trả số tiền 20.000.000 đồng cho ông bà.
Ngày 29/11/2021, ông L, bà H thay đổi yêu cầu phản tố:
Hủy một phần hợp đồng CNQSD đất giữa ông bà và ông K xác lập năm
2003 và năm 2007 với diện tích đất 2.208,5m
2
là vô hiệu (Do diện tích đất này
chưa có giấy CNQSD đất nên chưa được quyền chuyển nhượng nên ông bà
không đồng ý chuyển nhượng cho ông K).
Hủy một phần hợp đồng CNQSD đất giữa ông bà với ông K xác lập năm
6
2003 và năm 2007 với diện tích đất 1.521,6m
2
(Trong diện tích 8.270m
2
đất
được cấp giấy, vì ông K đã chuyển trả lại cho ông bà), đồng thời ông bà đồng ý
chuyển nhượng cho ông K diện tích 2.270,9m
2
đất đã được cấp giấy. Ông bà
được quyền liên hệ cơ quan có thẩm quyền để được tách thửa diện tích
5.999,1m
2
(Trong diện tích 8.270m
2
- 2.270,9m
2
= 5.999,1m
2
) thuộc thửa số 29,
tờ bản đồ số 02, theo giấy CNQSD đất số DĐ 0000081 ngày 30/6/2003 tại khu
phố I, phường D, thành phố P, tỉnh Kiên Giang.
Hủy hợp đồng dịch vụ hành chính giữa ông bà với ông K xác lập ngày
16/12/2018, đồng thời buộc ông K hoàn trả cho ông bà số tiền đã nhận
20.000.000 đồng.
- Theo đơn yêu cầu độc lập và quá trình giải quyết vụ án người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Võ Thị H2 trình bày:
Trước đây bà có nhu cầu mua đất cho người em trai nên vào ngày
20/8/2016, vợ chồng ông L, bà H có bán cho bà diện tích đất chiều ngang 15,8m
x chiều dài 22,2m, tổng diện tích đất 350m
2
, toạ lạc tại khu phố I, thị trấn D,
huyện P (N là phường D, thành phố P), tỉnh Kiên Giang, với giá 490.000.000
đồng, bà đặt cọc 100.000.000 đồng, hai bên lập hợp đồng viết tay. Ngày
20/8/2016, hai bên ký hợp đồng sang nhượng đất, ông L bà H đo đất giao cho bà
nên bà giao thêm cho vợ chồng ông L bà H số tiền 340.000.000 đồng. Như vậy,
bà giao cho ông L bà H tổng cộng số tiền là 440.000.000 đồng, còn lại
50.000.000 đồng, khi nào tách thửa sang tên thì bà trả đủ. Khi làm thủ tục thì đất
bị quy hoạch nên không tách thửa sang tên được. Sau đó, khi nghe tin huỷ bỏ
quy hoạch, bà trực tiếp yêu cầu vợ chồng ông L bà H làm thủ tục tách thửa, thì
phát hiện diện tích đất mà ông L bà H bán cho bà nằm trong phần đất của ông K
mà ông L bà H bán trước đó nên xảy ra tranh chấp.
Nay bà H2 yêu cầu Toà án giải quyết: Tuyên bố giấy đặt cọc sang nhượng
đất xác lập ngày 07/8/2005, giữa bà với ông L bà H vô hiệu.
Tuyên bố giấy sang nhượng đất xác lập ngày 20/8/2007, giữa bà với vợ
chồng ông L bà H vô hiệu.
Tuyên bố giấy sang nhượng đất xác lập ngày 20/8/2007, giữa bà với ông
L bà H vô hiệu. Buộc ông L bà H phải trả cho bà số tiền đã nhận là 440.000.000
đồng và bồi thường thiệt hại chênh lệch giá đất theo định giá.
- Theo đơn yêu cầu độc lập và quá trình giải quyết vụ án người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Võ Thị N trình bày:
Ngày 06/3/2018, vợ chồng ông L, bà H có sang nhượng cho bà diện tích
đất chiều ngang 9m, dài 30m, tổng diện tích là 270m
2
, toạ lạc tại khu phố I, thị
trấn D, huyện P (N là phường D, thành phố P), tỉnh Kiên Giang, với giá
550.000.000 đồng, bà đặt cọc trước cho ông L bà H 100.000.000 đồng, hai bên
lập hợp đồng viết tay. Ngày 20/10/2005, ông L bà H viết biên nhận nhận tiền và
đo đất giao cho bà nên bà giao thêm số tiền 400.000.000 đồng. Như vậy, bà giao
cho ông L bà H tổng cộng là 500.000.000 đồng, còn lại 50.000.000 đồng, khi
nào tách thửa sang tên bà thì trả đủ. Khi làm thủ tục thì đất bị quy hoạch nên
không tách thửa sang tên được. Sau đó, khi nghe tin hủy bỏ quy hoạch, bà trực
tiếp yêu cầu vợ chồng ông L bà H làm thủ tục tách thửa, thì phát hiện diện tích
đất mà ông L bà H bán cho bà nằm trong phần đất của ông K mà ông L bà H bán
7
trước đó nên xảy ra tranh chấp.
Nay bà N yêu cầu Toà án giải quyết: Tuyên bố hợp đồng đặt cọc sang
nhượng đất xác lập ngày 09/6/2007, giữa bà với ông L bà H vô hiệu.
Tuyên bố hợp đồng CNQSD đất xác lập ngày 06/5/2018, giữa bà với ông
L bà H vô hiệu. Buộc ông L bà H phải trả cho bà số tiền đã nhận là 500.000.000
đồng và bồi thường thiệt hại chênh lệch giá đất theo định giá.
- Quá trình giải quyết vụ án người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông
Nguyễn Minh T1 (Chồng bà N) trình bày:
Bà Võ Thị N là vợ của ông có nhận CNQSD đất của vợ chồng ông L, bà
H trước khi ông kết hôn với bà N. Do đó, ông yêu cầu Toà án không đưa ông
tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ
án và ông xin vắng mặt trong quá trình tố tụng.
- Quá trình giải quyết vụ án người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà
Phạm Thị Thanh B trình bày:
Năm 2018, vợ chồng bà có nhận CNQSD đất của vợ chồng ông L, bà H
diện tích ngang 23,8m, dài 22,8m tổng diện tích là 528,36m
2
, giá chuyển nhuyển
nhượng là 1.300.000.000 đồng, đất toạ lạc tại khu phố I, phường D, thành phố P,
tỉnh Kiên Giang, đất đã có giấy CNQSD đất do vợ chồng ông L bà H đứng tên,
việc CNQSD đất hai bên có lập hợp đồng viết tay. Vợ chồng bà đã giao đủ tiền,
ông L bà H đã giao đất cho vợ chồng bà xây dựng nhà cấp 4 diện tích 30m
2
, hiện
tại vợ chồng bà chưa làm thủ tục tách thửa sang tên QSD đất. Nay bà không có
yêu cầu độc lập. Trường hợp nếu xử hợp đồng giữa bà với ông L vô hiệu thì bà
không yêu cầu giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu trong vụ án này mà bà
sẽ khởi kiện vợ chồng ông L bằng vụ án khác.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Đỗ Long A1 (Chồng bà
B) trình bày: Ông thống nhất theo ý kiến của vợ ông là bà Phạm Thị Thanh B.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vợ chồng bà Nguyễn Thị T2,
ông Chu Hoài M trình bày: Vợ chồng ông bà có mua đất của vợ chồng ông
Phan Thành L, nhưng thấy đất có tranh chấp nên không mua nữa được vợ chồng
ông L hoàn trả tiền lại cho vợ chồng bà nên vợ chồng bà không có liên quan gì
trong vụ án này.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Thanh T3 uỷ
quyền cho ông Phạm Hồng S trình bày: Ngày 08/3/2022, vợ chồng ông K, bà
H2 có ký hợp đồng CNQSD đất tại Văn phòng C (N) cho ông Nguyễn Thanh T3
diện tích đất 2.270,9m
2
, thuộc thửa số 16, tờ bản đồ số 110, theo giấy CNQSD
đất số DB 271355 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh K cấp ngày 01/9/2021
cho ông Doãn Minh K. Giá chuyển nhượng là 10.900.000.000 đồng (Mười tỷ
chín trăm triệu đồng)/2.270,9m
2
. Ngày 22/6/2022, vợ chồng ông K bà H2 tiếp
tục CNQSD đất tại Văn phòng công chứng (N) cho ông T3 diện tích đất
2.192,9m
2
, thuộc thửa số 204, tờ bản đồ số 110 theo giấy CNQSD đất số DD
022165 do UBND thành phố P cấp ngày 21/6/2022 cho ông Doãn Minh K. Giá
chuyển nhượng là 11.200.000.000 đồng (Mười một tỷ hai trăm triệu đồng)/
2.192,9m
2
. Thực hiện hợp đồng ông T3 giao đủ tiền, ông K, bà H2 giao đất cho
ông T3 sử dụng. Hai bên tiến hành lập thủ tục sang tên được Chi nhánh Văn
Phòng đăng ký đất đai thành phố P ký biến động sang tên ông T3 và sử dụng ổn
8
định từ đó cho đến nay. Nay ông T3 không có yêu cầu độc lập trong vụ án.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Ủy ban nhân dân thành phố
P, tỉnh Kiên Giang trình bày: Không có ý kiến.
* Tại phiên tòa cấp sơ thẩm có các yêu cầu thay đổi như sau:
- Nguyên đơn ông Doãn Minh K giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và yêu
cầu khởi kiện bổ sung. Tuy nhiên, đối với diện tích đất tranh chấp theo đo đạc
thực tế tại Tờ trích đo năm 2024 thì diện tích chỉ còn 1.198,9m
2
nên ông yêu cầu
bị đơn trả diện tích đo đạc thực tế này và bồi thường giá trị đối với diện tích còn
thiếu cho ông theo định giá.
- Đại diện theo uỷ quyền của bị đơn ông Phan Thành L, bà Văn Thị
H: Xin rút một phần yêu cầu phản tố của ông L, bà H về việc huỷ hợp đồng
CNQSD đất giữa ông L, bà H với ông K xác lập năm 2003 và năm 2007 đối với
diện tích đất 2.208,5m
2
đất chưa có giấy. Còn các yêu cầu phản tố còn lại ông L,
bà H giữ nguyên.
* Tại bản án dân sự sơ thẩm số 115/2024/DS-ST ngày 31 tháng 7 năm
2024 của Tòa án nhân dân thành phố Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang đã quyết
định:
1. Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Doãn Minh
K đối với bị đơn ông Phan Thành L, bà Văn Thị H về việc xin rút một phần yêu
cầu khởi kiện đối với diện tích đất 4.463,8m
2
tại khu phố I, phường D, thành phố
P, tỉnh Kiên Giang.
2. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Doãn Minh K đối
với bị đơn ông Phan Thành L, bà Văn Thị H về việc tranh chấp hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất và giao trả diện tích đất chuyển nhượng.
Công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Phan
Thành L với ông Doãn Minh K đối với diện tích đất 5.000m
2
, tọa lạc tại khu phố
I, phường D, thành phố P, tỉnh Kiên Giang lập ngày 16/4/2003, được UBND thị
trấn D chứng thực ngày 26/8/2003.
Công nhận giấy tay chuyển nhượng sang đất giữa ông Phan Thành L, bà
Phan Thị H4 với ông Doãn Minh K đối với diện tích đất 1.000m
2
, tọa lạc tại khu
phố I, phường D, thành phố P, tỉnh Kiên Giang lập ngày 28/5/2007, được Ban
N3 xác nhận ngày 29/5/2007.
Buộc bị đơn ông Phan Thành L, bà Văn Thị H phải giao trả cho nguyên
đơn ông Doãn Minh K diện tích đất 1.536,2m
2
, theo đo đạc thực tế diện tích
1.198,9m
2
, đất thuộc một phần thửa số 16, tờ bản đồ số 110, toạ lạc tại khu phố
I, phường D, thành phố P, tỉnh Kiên Giang. Vị trí đất thể hiện tại Tờ trích đo địa
chính số TĐ – 227/2024 ngày 26/4/2024 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất
đai thành phố P, tỉnh Kiên Giang (Kèm theo).
Buộc bị đơn ông Phan Thành L, bà Văn Thị H phải bồi thường cho ông
Doãn Minh K giá trị diện tích đất còn thiếu 337,3m
2
theo chứng thư thẩm định
giá là 1.728.662.500 đồng (Một tỷ bảy trăm hai mươi tám triệu sáu trăm sáu
mươi hai nghìn năm trăm đồng).
Ông Doãn Minh K có quyền và nghĩa vụ liên hệ với cơ quan Nhà nước
có thẩm quyền để làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy
định của pháp luật.
9
3. Tuyên hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 15/11/2017
giữa ông Phan Thành L với bà Phạm Thị Thanh B vô hiệu.
Buộc vợ chồng ông Đỗ Long A1, bà Phạm Thị Thanh B và hai con của bà
B, ông A1 là cháu Đỗ Ngọc Trúc M1, Đỗ Ngọc Thanh T4 (Do ông A1, bà B làm
đại diện) có nghĩa vụ giao trả cho ông Doãn Minh K diện tích đất 517,6m
2
, trên
đất có nhà ở, mái che, giếng khoan, bể chứa và tường rào (Nằm trong diện tích
đất 1.198,9m
2
đã buộc ông L, bà H giao trả cho ông K ở trên), đất toạ lạc tại khu
phố I, phường D, thành phố P, tỉnh Kiên Giang.
Ghi nhận sự tự nguyện của nguyên đơn ông Doãn Minh K bồi thường cho
vợ chồng ông Đỗ Long A1, bà Phạm Thị Thanh B giá trị căn nhà theo chứng thư
định giá gồm: Nhà ở 73.115.668 đồng, mái che 22.969.134 đồng, giếng khoan
3.826.214 đồng, bể chứa 1.218.643 đồng và tường rào 5.467.430 đồng, tổng
cộng là 106.597.089 đồng (Một trăm lẽ sáu triệu năm trăm chín mươi bảy nghìn
không trăm tám mươi chín đồng). Công trình xây dựng được thể hiện tại Chứng
thư thẩm định giá số 1266/2022/CT-VATC ngày 14/12/2022 của Công ty CP T8
(Kèm theo).
Ông A1, bà B và con ông A1, bà B là cháu M1, T4 (Do ông A1, bà B làm
đại diện) được quyền lưu cư trong thời hạn 03 (Ba) tháng kể từ ngày bản án có
hiệu lực pháp luật. Giành quyền khởi kiện cho ông A1, bà B khởi kiện ông L, bà
H hoàn trả tiền chuyển nhượng quyền sử dụng đất và giải quyết hậu quả của hợp
đồng vô hiệu thành vụ án khác.
4. Đình chỉ một phần yêu cầu phản tố của bị đơn ông Phan Thành L, bà
Văn Thị H về việc yêu cầu vô hiệu một phần hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất giữa ông Phan Thành L, bà Văn Thị H với ông Doãn Minh K xác lập
năm 2003 và 2007 đối với diện tích đất 2.208,5m
2
.
5. Bác một phần yêu cầu phản tố của bị đơn vợ ông Phan Thành L, bà
Văn Thị H về việc yêu cầu huỷ một phần hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất xác lập ngày 16/4/2003 và 28/5/2007 đối với ông Doãn Minh K.
6. Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của bị đơn ông Phan Thành L, bà
Văn Thị H về việc hủy hợp đồng dịch vụ hành chính giữa ông Doãn Minh K với
ông Phan Thành L ngày 16/12/2018.
Ghi nhận sự tự nguyện thỏa thuận giữa ông Doãn Minh K và ông Phan
Thành L về việc hủy bỏ hợp đồng dịch vụ hành chính ngày 16/12/2018.
Buộc ông Doãn Minh K hoàn trả cho ông Phan Thành L số tiền dịch vụ đã
nhận là 20.000.000 đồng (Hai mươi triệu đồng).
7. Chấp nhận yêu cầu độc lập của bà Võ Thị H2 đối với ông Phan Thành
L, bà Văn Thị H.
Tuyên bố hợp đồng đặt cọc (Dưới hình thức giấy đặt cọc sang nhượng
đất) xác lập ngày 07/8/2005 và hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất xác
lập ngày 20/8/2007, giữa ông Phan Thành L với bà Võ Thị H2 vô hiệu.
Buộc ông Phan Thành L, bà Văn Thị H phải có nghĩa vụ hoàn trả cho bà
Võ Thị H2 số tiền chuyển nhượng là 440.000.000 đồng và bồi thường thiệt hại
số tiền 585.393.750 đồng. Tổng cộng là 1.025.393.750 đồng (Một tỷ không trăm
hai mươi lăm triệu ba trăm chín mươi ba nghìn bảy trăm năm mươi đồng).
8. Chấp nhận yêu cầu độc lập của bà Võ Thị N đối với ông Phan Thành L,
10
bà Văn Thị H.
Tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất xác lập ngày
09/6/2007, giữa ông Phan Thành L với bà Võ Thị N vô hiệu.
Buộc ông Phan Thành L, bà Văn Thị H phải có nghĩa vụ hoàn trả cho bà
Võ Thị N số tiền chuyển nhượng là 500.000.000 đồng và bồi thường thiệt hại số
tiền 382.408.000 đồng. Tổng cộng là 882.408.000 đồng (T5 trăm tám mươi hai
triệu bốn trăm lẽ tám nghìn đồng).
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về lãi suất theo nghĩa vụ chậm trả, chi
phí tố tụng, án phí và báo quyền kháng cáo theo luật định.
Sau khi xét xử sơ thẩm:
Ngày 02 tháng 8 năm 2024, bị đơn ông Phan Thành L, bà Văn Thị H
kháng cáo yêu cầu sửa bản án sơ thẩm, bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện, yêu cầu
khởi kiện bổ sung của nguyên đơn ông Doãn Minh K. Bác toàn bộ yêu cầu cầu
độc lập của bà Võ Thị H2 và bà Võ Thị Cẩm N. Chấp nhận yêu cầu phản tố,
phản tố bổ sung của ông L, bà H.
Ngày 07/8/2024, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Phạm Thị
Thanh B và ông Đỗ Long A1 kháng cáo yêu cầu sửa bản án sơ thẩm, bác toàn
bộ yêu cầu khởi kiện, khởi kiện bổ sung của nguyên đơn ông Doãn Minh K.
Chấp nhận toàn bộ yêu cầu phản tố, phản tố bổ sung của ông L, bà H. Bà B, ông
A1 được tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển nhượng đất với ông L, bà H và
được quyền liên hệ với cơ quan có thẩm quyền để được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu và tài sản gắn liền với đất, trên diện tích
500m
2
, tọa lạc tại tổ A, khu phố I, phường D, thành phố P, tỉnh Kiên Giang.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
*Luật sư Lê Thị H1 trình bày quan điểm tranh luận: Cùng với việc kháng
cáo ông Phan Thành L, ông L cho rằng vào lúc 09h ngày 09/02/2017, giữa ông
L và ông Doãn Minh K đã có trao đổi di dời ranh giới đất, cũng như thoả thuận
ông K nhượng lại cho ông L diện tích khoảng 1.300m
2
đất tại vị trí mà ông K đã
mua của ông L trước đây, sau đó ông K đồng ý và có đặt yêu cầu với ba điều
kiện đồng thời bắt buộc ông L phải chấp nhận ba điều kiện của ông.
Điều kiện thứ 1: Là ông L phải trả cho ông K với số tiền là 250.000.000đ thì
ông K sẽ nhượng lại cho ông L diện tích khoảng 1.300 m
2
.
Điều kiện thứ 2: Bắt buộc ông L phải chấp nhận hoán đổi 02 nền đất mà vợ
ông K là bà Võ Thị H2 đã mua trước kia của ông L nằm tại vị trí phía trong
hẻm, để đổi ra phía bên ngoài mặt đường lộ tại vị trí nằm trong diện tích 1.300
m
2
.
Điều kiện thứ 3: Phải để cho ông K tự viết giấy biên nhận tiền với nội dung
hoán đổi 02 nền và nhượng trong phần đất 1.300 m
2
đất.
Sau khi thoả thuận giữa ông L và ông K đã đi đến thống nhất với nhau thì
ông L có mời bên địa chính phường D lên đo vẽ vị trí để di dời từ ranh cũ qua
ranh giới mới, và thửa đất có chiều rộng 22m, chiều dài 55m tổng diện tích là
1300 m
2
đồng thời giữa ông L và ông K cũng có ký xác nhận ranh giới đất với
nhau. Đến ngày 06/12/2017 thì ông L nhận được giấy trích đo của Phòng Tài
Nguyên và Môi Trường huyện P, kèm theo đó là biên lai đóng thuế 1.528.000đ.
Sau đó ông L đã trả cho ông K 60.000.000đ, cộng với 50.000.000đ (Mà ông K
11
còn nợ ông L khi mua 02 nền nhà), cho vợ của ông K, tổng cộng là ông L đã đưa
cho ông K 110.000.000đ, ông L có hứa khoảng 02 tháng nữa sẽ trả dứt điểm số
tiền 140.000.000đ, nhưng ông K không chịu cho ông L nợ và nói với ông L là sẽ
giới thiệu cho người cháu của ông K lên mua đất của ông L để ông L có tiền trả
cho ông K. Sáng hôm sau ông K có dẫn bà Võ Thị Cẩm N đến nhà ông L và trao
đổi về việc mua bán đất, sau đó ông L đồng ý bán 01 nền nhà với giá
550.000.000đ. Ông K đứng ra viết giấy hợp đồng mua bán, đồng thời cũng là
người ký tên làm chứng cho hai bên mua bán. Sau khi hợp đồng mua bán được
lập thì bà N đã trả trước 500.000.000đ, còn nợ lại ông L 50.000.000đ. Từ đó ông
L lấy số tiền bán đất này trả thêm cho ông K 90.000.000đ, cộng trước và sau ông
L đã trả cho ông K 200.000.000đ, tiếp đến ông K còn lấy tiền hoa hồng môi giới
27.250.000đ. Sau đó ông K còn nhận làm hợp đồng dịch vụ hành chính tách 04
nền nhà nằm trong diện tích 1.300 m
2
bản hợp đồng dịch vụ được lập ngày
16/12/2018, với tổng số tiền dịch vụ là 100.000.000đ và ông K đã lấy trước
20.000.000đ. Sau khi đã hoàn tất hợp đồng ông K là người lên xác định lại ranh
giới và di dời xây tường bê tông giáp đất của ông L và của ông K. Mãi cho đến
ngày 26/09/2019 ông Doãn Minh K làm đơn thưa ông L, ông K cho rằng đã mua
đất của ông L từ năm 2003 đã bị nhà nước quy hoạch giải tỏa nên ông K không
làm được giấy QSDĐ. Mãi cho đến năm 2018 nhà nước trả dự án để cho dân
làm giấy QSDĐ, thì ông K kêu địa chính lên đo đất thì phát hiện ông Phan
Thành L lấy đất của ông K bán cho ngưới khác mà ông K không hề hay biết.
Diện tích mà ông K nói ông L lấy bán là nằm trong phần diện tích 1.300 m
2
(Cụ
thể là bán cho Phạm Thị Thanh B, bà Võ Thị H2 và bà Võ Thị Cẩm N). Đồng
thời ông K còn kêu bà H2, bà N làm đơn thưa ông L với nội dung là lấy đất của
ông K bán lại cho bà N và H2.
Ông L đã lưu giữ những văn bản có liên quan đến mua bán do ông K tự lập
ra, trong đó thay vì là viết giấy nợ nhận tiền để hoán đổi 01 thửa đất và nhượng
lại 1.300m
2
đất lại cho ông L, nhưng ngược lại ông K viết giấy cho ông L mượn
nợ ông K (Phải chăng ông K đã có sự mưu tính từ trước).
Đề nghị HĐXX phúc thẩm, áp dụng khoản 2, Điều 308, Điều 309 Bộ luật Tố
Tụng dân sự 2015. Chấp nhận nội dung kháng cáo của bị đơn ông Phan Thành
L, bà Văn Thị H và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Đỗ Long A1, bà
Phạm Thị Thanh B. Sửa Bản án số 115/2024/DSST ngày 31/7/2024 của Tòa án
nhân dân thành phố Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang theo hướng: Không chấp nhận
yêu cầu khởi kiện, khởi kiện bổ sung của nguyên đơn ông K; Chấp nhận yêu cầu
độc lập của bà H2, bà N. Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố, phản tố bổ sung
của ông L, bà H.
* Ông Trần Văn A trình bày quan điểm tranh luận: Nguyên đơn và bị đơn
đều thừa nhận là vào năm 2003 ông L ký hợp đồng chuyển nhượng cho ông K
diện tích 5.000m
2
, đến năm 2007 gia đình ông L tiếp tục chuyển nhượng cho
ông K 1.000m
2
liền kề với diện tích 5000m
2
. Tổng diện tích ông L bán cho ông
K là 6.000m
2
, ông L được cấp giấy năm 2003. Gia đình ông L đã nhận đủ tiền
và đã tiến hành bàn giao đất cho ông K quản lý sử dụng đất. Đây là tình tiết, sự
kiện không phải chứng minh theo khoản 2, Điều 92 của Bộ luật tố tụng dân sự
năm 2015.
12
Cuối năm 2018, ông K đo đạc lại toàn bộ diện tích đất của mình để làm thủ
tục cấp giấy thì mới phát hiện ông L lấy một phần đất 1.536,2m
2
của ông K để
làm đường bê tông và phân lô bán cho bà H2, bà N, bà B, và T2 nên xảy ra tranh
chấp.
Bị đơn cho rằng hoán đổi đất nhưng không có bất kỳ tài liệu, chứng cứ để
chứng minh giữa ông K và ông L có thỏa thuận việc đổi đất. Phía bị đơn có đưa
ra chứng cứ là giấy nhận tiền vào ngày 08/02/2018 để chứng minh việc hoán đổi
đất nhưng nội dung giấy nhận tiền này thể hiện: Ông L trả cho ông K
60.000.000đ và cấn 50.000.000đ vợ ông K mua đất của ông L. Tổng số tiền ông
L trả nợ và cấn trừ nợ là 110.000.000đ. Số tiền ông L còn nợ ông K là
140.000.000đ. Nội dung giấy nhận tiền này không thể hiện việc ông K nhận tiền
để hoán đổi đất hoặc chuyển nhượng lại diện tích 1.200m
2
cho ông L.
Số tiền vay còn lại 140 triệu đồng cho đến nay ông L vẫn chưa trả cho ông
K. Ông K sẽ khởi kiện bằng một vụ án khác để yêu cầu vợ chồng ông L trả số
tiền này.
Ông K ký giáp ranh vào năm 2017 là do ông L nhờ ký, ông L khẳng định
với ông K là diện tích trong sơ đồ này là nằm ngoài diện tích đất đã bán cho ông
K trước đó 6000m
2
, ông K tin tường ông L nên đã ký. Nhưng sau đó ông K phát
hiện nên đã trình báo báo với Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai ngưng việc
cấp giấy cho ông L.
Ông L cũng cam kết với bà N, bà H2 là diện tích đất chuyển nhượng này là
nằm ngoài diện tích mà ông L đã bán 6000m
2
trước đây cho ông K, nên mọi
người tin tưởng ông L nên mua và ông K cũng tin tưởng ông L nên mới làm
chứng việc mua bán.
Còn việc ông K có ký hợp đồng tách thửa cho ông L cũng do ông K tin
tưởng lời nói của ông L là diện tích tách thửa nằm ngoài 6000m
2
của ông L sau
khi bán cho ông K.
Có căn cứ để khẳng định ông L đã lấy đất của ông K để làm đường và phân
lô rồi chuyển nhượng cho bà H2, bà B và bà N nên các hợp đồng chuyển
nhượng giữa vợ chồng ông L với bà H2, bà N, bà B bị vô hiệu.
- Đối với nội dung kháng cáo của bà B, ông A1 là không có cơ sở, bởi lẽ:
HĐCNQSD đất giữa ông L với vợ chồng bà B là bằng giấy tay, không được
công chứng, chứng thực theo quy định của pháp luật; Diện tích ông L chuyển
nhượng cho vợ chồng bà B là nằm trong diện tích 6000m
2
mà ông L đã chuyển
nhượng trước đó cho ông K, ông K đã quản lý và đăng ký kê khai theo quy định
của pháp luật. Đồng thời, ông L không có tài liệu nào chứng minh ông K đã
hoán đổi đất cho L trong đó có diện tích ông L bán cho bà B. Quá trình giải
quyết vụ án, vợ chồng bà B có đơn phản tố nhưng không đóng tiền tạm ứng án
phí, theo quy định của pháp luật thì bà vợ chồng bà B từ bỏ quyền phản tố của
mình. Đồng thời, vợ chồng bà B không yêu cầu giải quyết hậu quả hợp đồng vô
hiệu nên Tòa án cấp sơ thẩm đã giành quyền khởi kiện trong vụ án khác cho vợ
chồng bà B để giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu với ông L là đúng theo
quy định của pháp luật.
Từ những vấn đề tôi trình bày trên, tôi đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận
toàn bộ nội dung khởi kiện của ông Doãn Minh K, giữ nguyên bản án sơ thẩm
13
số: 115/2024 ngày 31/7/2024 của TAND thành phố Phú Quốc. Đồng thời bác
toàn bộ nội dung kháng cáo và nội dung phản tố của ông Phan Thanh L1 và bà
Văn Thị H. Bác toàn bộ nội dung kháng cáo của vợ chồng bà Phạm Thị Thanh
B.
* Nguyên đơn ông Doãn Minh K giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và yêu cầu
khởi kiện bổ sung đề nghị giữ nguyên bản án số 115/2024/DS-ST ngày 31 tháng
7 năm 2024 của Tòa án nhân dân thành phố Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Phạm Thị Thanh B và ông Đỗ
Long A1 giữ nguyên nội dung kháng cáo.
Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khác trong vụ án không có
kháng cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Kiên Giang nêu quan điểm:
- Về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký
phiên tòa và việc chấp hành pháp luật của các bên đương sự, từ khi thụ lý vụ án
đến trước khi Hội đồng xét xử vào nghị án đã thực hiện và chấp hành đúng theo
các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
- Về hướng giải quyết vụ án:
Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 2, Điều 308, Điều 309 Bộ luật Tố
Tụng dân sự 2015. Chấp nhận nội dung kháng cáo của bị đơn ông Phan Thành
L, bà Văn Thị H và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Đỗ Long A1, bà
Phạm Thị Thanh B. Sửa Bản án số 115/2024/DSST ngày 31/7/2024 của Tòa án
nhân dân thành phố Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang theo hướng: Không chấp nhận
yêu cầu khởi kiện, khởi kiện bổ sung của nguyên đơn ông K; Chấp nhận yêu cầu
độc lập của bà H2, bà N. Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố, phản tố bổ sung
của ông L, bà H; Buộc đương sự phải nộp chi phí thẩm định tại chỗ và án phí
theo quy định.
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra và
công bố công khai tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh luận, trên cơ sở xem xét
đầy đủ, toàn diện các chứng cứ của nguyên đơn, bị đơn và những người tham
gia tố tụng khác.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về tố tụng: Xét đơn kháng cáo của của bị đơn ông Phan Thành L, bà
Văn Thị H, của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Phạm Thị Thanh B
và ông Đỗ Long A1 về nội dung, quyền kháng cáo, thủ tục kháng cáo và thời
hạn kháng cáo đã đúng quy định tại các Điều 271, 272, 273 của Bộ luật tố tụng
dân sự. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận xem xét giải quyết kháng cáo theo
trình tự phúc thẩm.
Tại phiên toà phúc thẩm ông Doãn Minh K, ông Trần Văn A, ông Phan
Thành L, ông Lê Hồng T, luật sư Lê Thị H1, ông Đỗ Long A1 có mặt; còn lại
các đương sự khác vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt nên áp dụng khoản 3
Điều 296 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt theo quy
định.
Trong quá trình giải quyết vụ án tại cấp sơ thẩm nguyên đơn ông Doãn
Minh K có đơn xin rút một phần yêu cầu khởi kiện đối với bị đơn ông L, bà H
về việc giao trả diện tích 4.463,8m
2
, thuộc thửa số 16 và 204, tờ bản đồ số 110,
14
tọa lạc tại khu phố I, phường D, P vì đất này ông K đã được cấp giấy. phía ông L
bà H không tranh chấp phần đất này với ông K. Xét thấy, việc rút một phần yêu
cầu của nguyên đơn là tự nguyện nên Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm đã chấp nhận
và đình chỉ xét xử đối với phần yêu cầu đã rút theo khoản 2 Điều 244 của Bộ
luật Tố tụng dân sự và tiếp tục xem xét yêu cầu còn lại là phù hợp.
Tại phiên toà sơ thẩm bị đơn ông Phan Thành L, bà Văn Thị H và đại diện
theo uỷ quyền của ông L, bà H xin rút một phần yêu cầu phản tố về yêu cầu vô
hiệu một phần hợp đồng CNQSD đất giữa ông L, bà H với ông K xác lập năm
2003 và 2007 đối với diện tích đất 2.208,5m
2
. Xét thấy, việc rút một phần yêu
cầu phản tố của bị đơn là tự nguyện nên Hội đồng xét xử sơ thẩm đã chấp nhận
và đình chỉ xét xử đối với phần yêu cầu đã rút theo khoản 2 Điều 244 của Bộ
luật Tố tụng dân sự và tiếp tục xem xét yêu cầu còn lại là phù hợp.
[2] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Cấp sơ
thẩm đã căn cứ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn yêu cầu công nhận hợp đồng
CNQSD đất với bị đơn, yêu cầu bị đơn giao trả diện tích đất chuyển nhượng; bị
đơn phản tố yêu cầu hủy hợp đồng CNQSD đất và hủy hợp đồng dịch vụ hành
chính với nguyên đơn; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan yêu cầu tuyên hợp
đồng CNQSD đất vô hiệu và giải quyết hậu quả hợp đồng nên quan hệ pháp luật
tranh chấp được xác định là “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất; hợp đồng dịch vụ và đòi tài sản” theo khoản 3 Điều 26 Bộ luật Tố
tụng dân sự, là phù hợp với quy định của pháp luật.
[3] Về nội dung kháng cáo của bản án sơ thẩm:
Bị đơn ông Phan Thành L, bà Văn Thị H kháng cáo yêu cầu sửa bản án sơ
thẩm, bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện, yêu cầu khởi kiện bổ sung của nguyên đơn
ông Doãn Minh K. Bác toàn bộ yêu cầu cầu độc lập của bà Võ Thị H2 và bà Võ
Thị Cẩm N. Chấp nhận yêu cầu phản tố, phản tố bổ sung của ông L, bà H.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Phạm Thị Thanh B và ông Đỗ
Long A1 kháng cáo yêu cầu sửa bản án sơ thẩm, bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện,
khởi kiện bổ sung của nguyên đơn ông Doãn Minh K. Chấp nhận toàn bộ yêu
cầu phản tố, phản tố bổ sung của ông L, bà H. Bà B, ông A1 được tiếp tục thực
hiện hợp đồng chuyển nhượng đất với ông L, bà H và được quyền liên hệ với cơ
quan có thẩm quyền để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở
hữu và tài sản gắn liền với đất, trên diện tích 500m
2
, tọa lạc tại tổ A, khu phố I,
phường D, thành phố P, tỉnh Kiên Giang.
Các đương sự kháng cáo có cùng yêu cầu sửa bản án số 115/2024/DS-ST
ngày 31 tháng 7 năm 2024 của Tòa án nhân dân thành phố Phú Quốc, tỉnh Kiên
Giang.
[4] Hội đồng xét xử xét thấy: Phần đất tranh chấp xác định sau khi các bên
rút một phần yêu cầu khởi kiện và rút một phần yêu cầu phản tố thì diện tích đất
tranh chấp còn lại là 1.536,2m
2
(Đo đạc thực tế 1.304,8m
2
) theo trích đo địa
chính số TĐ 227/2024 ngày 26/4/2024 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất
đai thành phố P. Đất tranh chấp như trên theo đo đạc thực tế là 1.304,8m
2
, có
nguồn gốc là của gia đình ông Phan Thành L khai khẩn năm 1987, nằm trong
diện tích chung khoảng 20.000m
2
. Năm 2003, ông L đăng ký kê khai được
UBND huyện P (N là thành phố P), tỉnh Kiên Giang cấp giấy diện tích 8.270m
2
,
15
thửa số 29, tờ bản đồ số 02, tọa lạc tại khu phố I, phường D, thành phố P, theo
giấy CNQSD đất số M 889302, ngày 30/6/2003 cho ông, bà Phan Thành L. Diện
tích đất còn lại chưa được cấp giấy ông L vẫn quản lý, sử dụng và có một số
phần đất ông L đã bán cho những người khác không tranh chấp.
Ngày 16/4/2003, ông L chuyển nhượng cho ông K diện tích đất 5.000m
2
,
nằm trong diện tích 8.270m
2
, thuộc thửa số 20, tờ bản đồ số 02 mà ông L đã
được cấp giấy, hợp đồng chuyển nhượng được UBND thị trấn D chứng thực
ngày 26/8/2003, với giá chuyển nhượng 225.000.000 đồng/5.000m
2
.
Ngày 28/5/2007, ông L tiếp tục viết giấy tay chuyển nhượng thêm cho ông
K diện tích 1.000m
2
, liền kề với diện tích 5000m
2
đã chuyển nhượng trước đó
không ghi rõ phần đất đã có giấy hay chưa có giấy, với giá chuyển nhượng
50.000.000 đồng/1.000m
2
. Tổng cộng hai lần chuyển nhượng là 6.000m
2
. Ông K
trả đủ tiền, ông L giao đất và giấy CNQSD đất cho ông K đăng ký kê khai đo
đạc bản đồ địa chính và ông Doãn Minh K đã được UBND huyện P cấp giấy
CNQSD đất số DD 022165, ngày 21/6/2022, diện tích 2.192,9m
2
, thửa số 204,
tờ bản đồ số 110 và giấy CNQSD đất số DB 271355, ngày 01/9/2021, diện tích
2.270,9m
2
, thửa số 16, tờ bản đồ 110. Tổng cộng diện tích ông K được cấp giấy
là 4.463,8m
2
, hai thửa đất mà ông K đã được cấp giấy thì các bên không tranh
chấp. Diện tích còn lại theo thoả thuận là 1.536,2m
2
(Diện tích đo đạc thực tế
1.304,8m
2
) theo trích đo địa chính số TĐ 227/2024 ngày 26/4/2024 của Chi
nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố P, theo ông Doãn Minh K cho rằng:
ông Doãn Minh K đăng ký kê khai do diện tích nằm ngoài giấy CNQSD đất của
ông L thì phát hiện ông L đã chuyển nhượng cho bà H2, bà N, bà B và bà T2
nên phát sinh tranh chấp.
[5] Hội đồng xét xử xét thấy theo các chứng cứ có trong hồ sơ thì diện tích
đất tranh chấp theo đo đạc thực tế là 1.304,8m
2
; theo trích đo địa chính số TĐ
227/2024 ngày 26/4/2024 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố
P, tỉnh Kiên Giang, thì phần đất này chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất vào thời điểm các bên thoả thuận chuyển nhượng và đến nay cũng chưa
được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ai.
Cụ thể phần đất tranh chấp có tổng diện tích đo đạc thực tế là 1.304,8m
2
được chia theo bản vẽ là các thửa theo ký hiệu là theo 4 thửa là 4;5;8;12.
- Thửa số 4: Diện tích 257,1m
2
, phần đất này ông K và ông L, bà H tranh
chấp, ngày 06/3/2018 ông L ký hợp đồng chuyển nhượng cho bà N (Là cháu của
ông K) diện tích 270m
2
, (Đo đạc thực tế 257,1m
2
) có vị trí tứ cận và số đo theo
hình 25,26,31,30 như sau:
+ Chiều ngang:
- Giáp đất của ông K đã chuyển nhượng cho ông T3 (Thửa 3) cạnh 25-26
là: 8,95m.
- Giáp đất của bà Nguyễn Thị T6 cạnh 31- 30 là: 9,45m.
+ Chiều dài:
- Giáp đất của ông L (Thửa 5) cạnh 26 -32 là: 20,43m, giáp đất bà Nguyễn
Thị T6 cạnh 32 - 31 là: 8,84 m.
- Giáp đất của ông L đang sử dụng (T) cạnh 25- 29 là: 21,38m, cạnh 29-30
là 5,92m.
16
Tổng diện tích là: 257,1m
2
.
- Thửa số 5: Diện tích đo đạc thực tế là 186,2m
2
, phần đất này ông K và
ông L, bà H tranh chấp, do ông L và bà H đang sử dụng.
+ Chiều ngang:
- Giáp đất của ông K đã chuyển nhượng cho ông T3 (Thửa 3) cạnh 25-24
là: 8,81m.
- Giáp đất của bà Nguyễn Thị T6 cạnh 30- 38 là: 8,21m, cạnh 38-37 là
1,79m.
+ Chiều dài:
- Giáp với Thửa 4 cạnh 25-29 là: 21,38m, cạnh 29-30 là: 5,92m.
- Giáp thửa 8 cạnh 24-33 là: 21,28m, cạnh 33-34 là 0,85m, cạnh 34-35 là
2,1m, cạnh 35-36 là 3,46m, cạnh 36-37 là 2,37m.
Tổng diện tích là: 186,2m
2
.
- Thửa số 8: Diện tích đo đạc thực tế là 519m
2
, phần đất này ngày
15/11/2017, ông L chuyển nhượng cho bà B, ông A1 diện tích 528,36m
2
, (Đo
đạc thực tế là 519m
2
, trong đó: 519m
2
– 1,4m
2
đất bà T6 đổi cho ông L =
517,6m
2
)
ông K và ông L, bà H tranh chấp, do vợ chồng bà B và ông A1 đang sử
dụng.
+ Chiều ngang: Giáp đất của ông K đã chuyển nhượng cho ông T3 (Thửa 3
và 8) cạnh 24- 23 là: 14,2m, cạnh 23-22 là 3,87m, cạnh 22-39 là 5,51m. Giáp
(Thửa 5) cạnh 34-35 là 2,1m, cạnh 35-36 là 3,46m, giáp với thửa 7 là lối đi
chung do ông L bà H tự mở cạnh 36-43 là: 12,37m, cạnh 43- 42 là: 1,14m, cạnh
42-41 là: 4,7m.
+ Chiều dài: Giáp với thửa 5 cạnh 24-33 là: 21,28m, cạnh 33-34 là 0,85m.
Giáp thửa 12 cạnh 39-40 là: 15,99m, cạnh 40-41 là 5,9m
Tổng diện tích là: 519m
2
.
- Thửa số 12: Diện tích đo đạc thực tế là 342,5m
2
, phần đất này ngày
07/8/2016 ông L chuyển nhượng cho bà H2 (Vợ ông K) diện tích 350m
2
, (Đo
đạc thực tế 342,5m
2
) ông K và ông L, bà H tranh chấp, do bà H2 đang quản lý.
+ Chiều ngang: Giáp đất của ông K đã chuyển nhượng cho ông T3 (Thửa
9) cạnh 39-59 là: 15,82m. Giáp với (thửa 7) là lối đi chung do ông L bà H tự mở
cạnh 41-44 là: 15,81m.
+ Chiều dài: Giáp (Thửa 8) cạnh 39-40 là: 15,99m, cạnh 40-41 là 5,9m.
Giáp với thửa 11 cạnh 59-60 là 5,53m, cạnh 60-61 là 5,19m, cạnh 61-44 là
10,73m.
Tổng diện tích là: 342,5m
2
.
[6] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông K thấy rằng:
[6.1] Xét hợp đồng CNQSD đất giữa ông Doãn Minh K và ông Phan Thành L
xác lập ngày 16/4/2003 và giấy tay chuyển nhượng sang đất ngày 28/5/2007: Về
hình thức: Đối với hợp đồng CNQSD đất lập ngày 16/4/2003 được ký kết giữa
hai chủ thể là ông Doãn Minh K với ông Phan Thành L theo mẫu đánh máy in
sẵn một số nội dung và viết tay một số nội dung và được UBND thị trấn D
chứng thực ngày 26/8/2003 (Tại bút lục 18). Còn hợp đồng ghi là “Giấy tay
chuyển nhượng, sang đất”; lập ngày “Ngày 28 tháng năm 2018” được ký kết
giữa các chủ thể là ông Doãn Minh K với ông Phan Thành L, bà Văn Thị H (Bà
17
H là vợ của ông L), anh Phan Đồng K1 (Anh K1 là con trai của ông L bà H);
không có công chứng, chứng thực nhưng có xác nhận của Ban nhân dân khu phố
9 ngày 29/5/2007 (Tại bút lục 19). Về nội dung: Hợp đồng ngày 16/4/2003 có
nội dung ông L chuyển nhượng cho ông K diện tích 5.000m
2
loại đất cây công
nghiệp theo giấy CNQSD đất số: 28310-1110 do UBND huyện P cấp ngày
30/6/2003. Với giá chuyển nhượng 50.000.000 đồng /5.000m
2
, số tiền đặt cọc là
10.000.000 đồng, thời điểm thanh toán là ngày 13/8/2003, trả làm hai lần (BL số
18). Hợp đồng ghi ngày 28 tháng năm 2007, có nội dung: Tháng 03/2003, gia
đình tôi có đến nhà vợ chồng ông K vay mượn một số tiền. Số tiền vay mượn
một lần vào tháng 03 là 20.000.000 đồng và tháng 04 là 10.000.000 đồng và
cuối tháng 04 là 20.000.000 đồng, cộng lại ba khoản vợ chồng anh tư L vay
mượn là 50.000.000 đồng để mua đất ở V, ông L cho rằng: Trong thời điểm đó,
vợ chồng tôi thấy khả năng không trả được cho chú K nên có hứa để thêm đất
cho chú K là 1.000m
2
đất giáp ranh với diện tích 5.000m
2
đất mà chú K đã mua
của tôi vào năm 2003. Cộng lại trước và sau là 6.000m
2
đất mà chú K đã mua
của tôi (BL số 19). Theo hai hợp đồng các bên ghi như trên đối chiếu với chứng
cứ là giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số M989302 vào sổ cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số: DĐO000081/số28310- 1110 mang tên ông Phan
Thành L do UBND huyện (Nay là thành phố) P, tỉnh Kiên Giang cấp ngày
30/6/2003 (Tại bút lục số 28-29) diện tích đất tổng là 8.270m
2
, tại tờ bản đồ số
02, số thửa 29 trong đó có: 300m
2
đất ở, thời hạn sử dụng lâu dài, 7.970m
2
đất
cây công nghiệp thời hạn sử dụng 10/1943; đất toạ lạc tại: ấp G, thị trấn (N là P)
Dương Đ, huyện (Nay là thành phố) P, tỉnh Kiên Giang. Như vậy, đối chiếu với
nội dung thoả thuận chuyển nhượng hai diện tích đất nêu trên cho thấy theo Hợp
đồng ngày 16/4/2003 (Tại bút lục 18) là các bên có ký kết chuyển nhượng số đất
được ghi trong hợp đồng gắn liền với quyền sử dụng đất của ông Phan Thành L
như trên. Còn đối với Hợp đồng ghi là “Giấy tay chuyển nhượng, sang đất”; lập
ngày “Ngày 28 tháng năm 2018” (Tại bút lục 19) không ghi cụ thể diện tích đất
theo giấy nào, có giấy chứng nhận quyền sử dụng hay chưa mà chỉ ghi là hứa để
thêm đất cho chú K là 1.000m
2
đất giáp ranh với diện tích 5.000m
2
.
Tại cấp phúc thẩm ông L và bà H cho rằng ông bà là vợ chồng và quyền sử dụng
đất theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất như trên là tài sản chung của vợ
chồng ông bà; như vậy đối chiếu với quy định của pháp luật cho thấy: Đối với
hợp đồng CNQSD đất lập ngày 16/4/2003 được ký kết giữa hai chủ thể là ông
Doãn Minh K với ông Phan Thành L theo mẫu đánh máy in sẵn một số nội
dung và viết tay một số nội dung và được UBND thị trấn D chứng thực ngày
26/8/2003 (Tại bút lục 18) khi ký kết là thiếu chủ thể ký kết là bà Văn Thị H, tuy
nhiên các bên không tranh chấp đối với hợp đồng này và ông L bà H đã đồng ý
chuyển nhượng cho ông K, đồng thời các bên đã thực hiện xong hợp đồng này
cụ thể theo hợp đồng này thì vợ chồng ông L bà H đã sang tên quyền sử dụng
cho ông K xong tổng diện tích là 2.270,9m
2
+ 2.192,9m
2
= 4.463,8m
2
là hoàn
toàn tự nguyện, ông L, bà H đã nhận đủ tiền, đã sang tên cho ông K sử dụng và
giao hai diện tích đất trên cho ông K sử dụng, ông K đã xây dựng hàng rào kẽm
gai bằng cột bê tông và giao giấy CNQSD đất cho ông K đăng ký kê khai, đo
đạc trên bản đồ địa chính và ông K đã được cấp giấy CNQSD đất diện tích
18
4.463,8m
2
(Theo 02 giấy CNQSD đất số DD 022165 diện tích 2.192,9m
2
số DB
271355 diện tích 2.270,9m
2
). (Như vậy theo hợp đồng này thì ông L bà H còn
giao thiếu đất cho ông K là: 5.000m
2
– 4.463,8m
2
= 536,2m
2
). Tuy nhiên vào thì
điểm khi các bên đã ký kết hợp đồng với diện tích 5.000m
2
thì không có đo đạc
cụ thể nên diện tích trên thực địa là tương ứng theo ước lượng khi ký kết hợp
đồng; Mặt khác các bên ông K ông L, bà H và ông T3 đều xác nhận vào ngày
08/3/2022, vợ chồng ông K, bà H2 có ký hợp đồng CNQSD đất tại phòng công
chứng (N) cho ông Nguyễn Thanh T3 diện tích đất 2.270,9m
2
, thuộc thửa số 16,
tờ bản đồ số 110, theo giấy CNQSD đất số DB 271355 do Sở Tài nguyên và
Môi trường tỉnh K cấp ngày 01/9/2021 cho ông Doãn Minh K. Giá chuyển
nhượng là 10.900.000.000 đồng (Mười tỷ chín trăm triệu đồng)/2.270,9m
2
.
Ngày 22/6/2022, vợ chồng ông K bà H2 tiếp tục CNQSD đất tại công chứng (N)
cho ông T3 diện tích đất 2.192,9m
2
, thuộc thửa số 204, tờ bản đồ số 110 theo
giấy CNQSD đất số DD 022165 do UBND thành phố P cấp ngày 21/6/2022 cho
ông Doãn Minh K. Giá chuyển nhượng là 11.200.000.000 đồng (Mười một tỷ
hai trăm triệu đồng)/2.192,9m
2
. Thực hiện hợp đồng ông T3 đã giao đủ tiền, ông
K, bà H2 giao đất cho ông T3 sử dụng. Hai bên tiến hành lập thủ tục sang tên
được Chi nhánh Văn Phòng đăng ký đất đai thành phố P ký biến động sang tên
ông T3 và sử dụng ổn định từ đó cho đến nay. Phần đất ông K chuyển nhượng
cho ông T3 như trên; trong suốt quá trình tố tụng và tại phiên toà phúc thẩm ông
L và bà H cho rằng đã bán cho ông K nên giữ lời hứa cụ thể là khi đang còn
tranh chấp chưa rút yêu cầu phản tố và khởi kiện thì ông L bà H cũng đồng ý
cho ông K bán cho ông T3 như trên, sau đó các bên đã rút các yêu cầu giải quyết
đối với số đất trên và các bên không tranh chấp diện tích đất đã bán cho ông T3,
là phù hợp với pháp luật và đạo đức xã hội.
[6.2] Đối với hợp đồng ghi là “Giấy tay chuyển nhượng, sang đất”; lập
ngày “Ngày 28 tháng năm 2018” được ký kết giữa các chủ thể là ông Doãn
Minh K với ông Phan Thành L, bà Văn Thị H (Bà H là vợ của ông L), anh Phan
Đồng K1 (Anh K1 là con trai của ông L bà H); không có công chứng, chứng
thực nhưng có xác nhận của Ban nhân dân khu phố 9 ngày 29/5/2007 (Tại bút
lục 19). Như đã nói ở trên là không ghi cụ thể diện tích đất theo giấy nào, có
giấy chứng nhận quyền sử dụng hay chưa mà chỉ ghi là hứa để thêm đất cho chú
K là 1.000m
2
đất giáp ranh với diện tích 5.000m
2
. Nhưng trên thực tế ghi rõ là
số tiền ông ông L, bà K vay và mượn không lãi của ông K cụ thể ghi rõ là vay
mượn một lần vào tháng 03 là 20.000.000 đồng và tháng 04 là 10.000.000 đồng
và cuối tháng 04 là 20.000.000 đồng, cộng lại ba khoản vợ chồng anh tư L vay
mượn là 50.000.000 đồng để mua đất ở V. Như vậy xác định tiền ông L, bà H
thiếu nợ của ông K là 50.000.000đ và ghi vào hợp đồng này và yêu cầu ban N3
xác nhận là đã giao cho trước sau cho ông K là 6.000m
2
đất. Như đã nói ở trên
thì 1.000m
2
đất giao sau này chỉ nói là nằm kế bên số đất 5.000m
2
đã giao cho
ông K theo thực tế theo đo đạc là 4.463,8m
2
.
Cấp sơ thẩm đã căn cứ vào lời khai của ông K và cho rằng diện tích đất chuyển
nhượng cho nhau cụ thể: Diện tích đất còn lại theo mua bán là 6.000m
2
-
4.463,8m
2
= 1.536,2m
2
chưa được cấp giấy cho ông K hiện đang tranh chấp. Hội
đồng xét xử xét thấy đối với hợp đồng ghi là “Giấy tay chuyển nhượng, sang
19
đất”; lập ngày “Ngày 28 tháng năm 2018” ghi không rõ là tháng mấy; được ký
kết giữa các chủ thể là ông Doãn Minh K với ông Phan Thành L, bà Văn Thị H
(Bà H là vợ của ông L), anh Phan Đồng K1 (Anh K1 là con trai của ông L bà
H); không có công chứng, chứng thực nhưng có xác nhận của Ban nhân dân khu
phố 9 ngày 29/5/2007 (Tại bút lục 19). Là vô hiệu ngay từ đầu. Bởi lẽ; các bên
không xác định cụ thể số đất hứa chuyển nhượng theo hợp đồng này đã có giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất hay chưa trong khi trên thực tế thì ông L và bà H
có các thửa đất nằm liền kề nhau một phần thì đã có giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất và một phần thì chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và hiện
nay như đã nói ở trên theo các chứng cứ có trong hồ sơ thì diện tích đất tranh
chấp theo đo đạc thực tế là 1.304,8m
2
; theo trích đo địa chính số TĐ 227/2024
ngày 26/4/2024 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố P, tỉnh
Kiên Giang, thì phần đất này chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
vào thời điểm các bên thoả thuận chuyển nhượng cho đến nay cũng chưa được
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ai đối với phần đất tranh chấp theo
đo đạc thực tế là 1.304,8m
2
. Như vậy vào thời điểm chuyển nhượng quyền sử
dụng đất thì các bên đương sự có trong vụ kiện đều biết trước và hiểu rất rõ là
đất của ông L bà H chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, từ đó đối
chiếu với quy định của pháp luật thì các bên ký kết bị vô hiệu ngay từ thời điểm
ký kết.
Xét hợp đồng đối với hợp đồng ghi là “Giấy tay chuyển nhượng, sang đất”;
lập ngày “Ngày 28 tháng năm 2018” không có công chứng, chứng thực theo quy
định. Khi ký kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất các bên đều tự
nguyện, có đủ năng lực hành vi dân sự là phù hợp với quy định tại Điều 117 Bộ
luật dân sự. Tuy nhiên, tại thời điểm các bên ký hợp đồng để chuyển nhượng
thửa đất có diện tích theo đo đạc thực tế là 1.304,8m
2
như trên. Như vậy, khi
nguyên đơn và bị đơn và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến phần
đất tranh chấp này đều biết đất chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì
chưa đủ quyền sử dụng đã thực hiện quyền của người được sử dụng đất theo quy
định của luật đất đai và quy định của Bộ luật dân sự. Do đó, yêu cầu của ông K
về công nhận hợp đồng này là không có cơ sở chấp nhận theo quy định tại Điều
697 Bộ luật Dân sự năm 2005; Điều 49, 50 Luật Đất đai năm 2003; Điều 99, 100
và 101 Luật Đất đai năm 2013. Nên hợp đồng chuyển nhượng giữa các bên bị vô
hiệu theo quy định tại Điều 122, 123 và khoản 1, Điều 408 Bộ luật dân sự năm
2015, Như vậy tại cấp sơ thẩm đã quyết định: Công nhận giấy tay chuyển
nhượng sang đất giữa ông Phan Thành L, bà Phan Thị H4 với ông Doãn Minh K
đối với diện tích đất 1.000m
2
, tọa lạc tại khu phố I, phường D, thành phố P, tỉnh
Kiên Giang lập ngày 28/5/2007, được Ban N3 xác nhận ngày 29/5/2007. Buộc
bị đơn ông Phan Thành L, bà Văn Thị H phải giao trả cho nguyên đơn ông Doãn
Minh K diện tích đất 1.536,2m
2
, theo đo đạc thực tế diện tích 1.198,9m
2
, đất
thuộc một phần thửa số 16, tờ bản đồ số 110, toạ lạc tại khu phố I, phường D,
thành phố P, tỉnh Kiên Giang. Vị trí đất thể hiện tại Tờ trích đo địa chính số TĐ
– 227/2024 ngày 26/4/2024 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố
P, tỉnh Kiên Giang (Kèm theo). Là chưa phù hợp như đã nhận định ở trên, tuyên
hợp đồng chuyển nhượng này bị vô hiệu.
20
[7] Xét về lỗi làm cho hợp đồng vô hiệu và trách nhiệm bồi thường thiệt hại
của các bên: Khi xác lập việc chuyển nhượng hợp đồng ghi là “Giấy tay chuyển
nhượng, sang đất”; lập ngày “Ngày 28 tháng năm 2018 là vi phạm điều cấm của
luật được quy định tại Điều 123 Bộ luật dân sự năm 2015.
Như vậy, có cơ sở xác định các bên ký hợp đồng đều biết rõ tình trạng pháp
lý của tài sản nhưng vẫn chấp nhận dẫn đến việc các bên không ký được hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật là do lỗi
của cả hai bên. Trong trường hợp này vô hiệu ngay từ đầu, lỗi của các bên ngang
nhau nên các bên phải trả lại cho nhau những gì đã nhận và không phải bồi
thường thiệt hại. Như vậy số tiền đã giao nhận và tài sản và đất được xử lý như
sau: Giữa ông L và ông K có thỏa thuận, trao đổi đất và di dời ranh cũ sang ranh
mới, ông L cho rằng ông K và ông đã thỏa thuận ông K chuyển nhương lại cho
ông L diện tích 1.300m
2
, ông K nhận lại số tiền 250.000.000đ theo giấy vay
mượn nợ ngày 17/10/2027 do ông K là người viết giấy này, vị trí đất này trước
đây ông K nhận chuyển nhượng của ông L. Sau khi thống nhất và thỏa thuận
chuyển nhượng lại diện tích đất trên, ông L có mời ông Huỳnh Minh N1 địa
chính phường D và ông Lý Quốc S2 cán bộ đo đạc Văn phòng đăng ký đất đai
thành phố P đo vẽ, vị trí đất để di dời ranh cũ qua ranh đất mới, chiều ngang
22m, chiều dài 55m, tổng diện tích 1.300m
2
, khi đó ông K chứng kiến ký giáp
ranh phần đất trên theo biên bản.
Sau khi ông L nhận được trích đo địa chính của Chi nhánh văn phòng đăng
ký đất đai thành phố P và biên lai nộp thuế số tiền 1.528.000đ, ông L trả cho ông
K 60.000.000đ và trừ 50.000.000đ tiền mà bà H2 (Vợ ông K) mua nền nhà của
ông trước đó còn thiếu, ông L còn nợ lại 140.000.000đ nên ông K viết biên nhận
nhận tiền vào ngày 08/02/2018. Đến ngày 16/12/2018, ông K và ông L ký hợp
đồng dịch vụ hành chính để ông K nhận làm dịch vụ cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất cho ông L 07 nền nhà số tiền 100.000.000đ (Trong đó có đất của bà
B, bà N và bà H2), ông K nhận trước của ông L số tiền 20.000.000đ nhưng đến
nay vẫn chưa thực hiện hợp đồng. Mặt khác; tại biên bản lấy lời khai ngày
23/11/2023 ông K xác định: Ngày 23/5/2003 ông L ký hợp đồng chuyển nhượng
cho ông K diện tích 5.000m
2
được UBND thị trấn D xác nhận; Đến ngày
28/5/2007 vợ chồng ông L tiếp tục chuyển nhượng cho ông K diện tích 1.000m
2
,
diện tích đất này nằm kề với diện tích 5.000m
2
mà ông K nhận chuyển nhượng
trước đó cùng nằm trong thửa 29, tờ bản đồ số 02. Tổng diện tích 02 lần ông K
nhận chuyển nhượng là 6.000m
2
. Chính ông L chỉ ranh đất và bàn giao thực địa
cho ông K nhận, sau đó ông K tiến hành rào đất để quản lý sử dụng (BL 430).
Như vậy Hội đồng xét xử xét thấy các chứng cứ chứng minh có trong hồ sơ thì
về mặt thời gian có mối liên hệ biện chứng chặt chẽ mật thiết với nhau thể hiện
ông L có chuyển nhượng cho ông K tổng cộng số đất 6.000m
2
; sau đó ông K và
ông L đã thỏa thuận ông K bán lại cho ông L diện tích đất chưa có giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất với diện tích như đã nói ở trên đo đạc thực tế là
1.304,8m
2
; theo trích đo địa chính số TĐ 227/2024 ngày 26/4/2024 của Chi
nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố P, tỉnh Kiên Giang. Là sự thật
khách quan trong vụ án.
21
Hội đồng xét xử xét thấy tại phiên toà phúc thẩm ông L cho rằng trong số
tiền còn nợ khi mua lại đất còn lại của ông K là 140.000.000đ (Một trăm bốn
mươi triệu đồng), ông L đã trả cho ông K được 90.000.000 đồng tiền gốc và
27.500.000 đồng là tiền môi giới đất khi ông K bán cho bà N nhưng theo lời
khai này của ông L không có chứng cứ chứng minh, mặt khác không được ông
Kế thừa N2 là đã nhận tiền. Hội đồng xét xử xét thấy cần buộc ông L, bà H phải
trả lại cho ông K số tiền này là 140.000.000đ (Một trăm bốn mươi triệu đồng) và
phải trả lại tiền lãi cho số tiền chưa trả tương ứng với thời gian chậm trả theo
giấy vay mượn nợ ngày 17/10/2027 cho đến ngày tuyên án phúc thẩm là ngày
27/12/2024 là phù hợp với pháp luật và đạo đức xã hội; số lãi được tính như sau:
số tiền lãi được tính từ thời điểm ngày 17/10/2017 đến ngày tuyên án là ngày
27/12/2024, tức là 7 năm 2 tháng và 10 ngày, (Bằng 86 tháng và 10 ngày), với
lãi suất theo luật định là 20%/năm, tức là 1,666%/ tháng. Lãi tính cụ thể như
sau: Lãi một tháng là: (140.000.000 đồng x 1.666%/ tháng) = 2.332.400đ/ tháng.
Lãi một ngày là: 2.332.400đ/tháng: 30 ngày = 77.746,6 đồng/ngày. Tổng tiền lãi
là: (2.332.400đ/ tháng x 86 tháng) + (10 ngày x 77.746,6 đồng/ngày) =
200.586.400 đồng + 777.466 đồng = 201.363.866 làm tròn số là 201.363.000
đồng (Hai trăm không một triệu ba trăm sáu mươi ba nghìn đồng).
Buộc ông Phan Thành L và bà Văn Thị H phải trả cho ông Doãn Minh K số
tiền tổng cộng gốc và lãi là 201.363.000 đồng (Hai trăm không một triệu ba trăm
sáu mươi ba nghìn đồng) là phù hợp với pháp luật và đạo đức xã hội. Đồng thời
ông H được quản lý, đăng ký kê khai sử dụng số đất như đã nhận định ở trên.
[8] Từ những nhận định trên, xét yêu cầu phản tố của bị đơn ông L, bà H,
Hội đồng xét xử thấy rằng: Ông L cho rằng ông K đã chuyển nhượng lại cho
ông Lâm phần diện tích 1.200m
2
trong diện tích đất 6.000m
2
mà ông L chuyển
nhượng cho ông K trước đó nên ông L mới chuyển nhượng phần diện tích đất
này cho 04 người, trong đó có bà H2 (Vợ ông K), bà N là cháu của ông K,
những người nhận chuyển nhượng đất của ông L do ông K giới thiệu, nên ông L
và ông K đã ký hợp đồng dịch vụ hành chính, ông K nhận làm quyền sử dụng
đất và tách nền nhà thành 07 nền cho ông L, trong đó có 04 nền nằm trong diện
tích đất 1.200m
2
và 03 nền nằm trong diện tích 2.270m
2
của ông L, với giá là
100.000.000 đồng, ông K đã nhận trước 20.000.000 đồng. Tuy nhiên, chờ mãi
ông K không thực hiện việc tách thửa theo hợp đồng, do đó ông L gặp ông K hỏi
lý do thì ông K cho rằng phần đất mà ông L chuyển nhượng cho 04 người là đất
của ông K nên hủy bỏ hết giấy tờ không làm thủ tục tách thửa cho ông L. Ông L
cho rằng nếu ông K không chuyển nhượng phần diện tích đất tranh chấp cho ông
L thì sao ông K ký hợp đồng dịch vụ với ông L. Tuy nhiên, nội dung phản tố và
lời trình bày của ông L không được phía nguyên đơn ông K chấp nhận và ông K
cho rằng không biết ông L chuyển nhượng phần đất của ông K, ông Kế thừa N2
có ký hợp đồng dịch vụ hành chính với ông L vì nghĩ rằng ông L chuyển
nhượng QSD đất của ông L vì ông K không chuyển nhượng phần đất nào cho
ông L.
Từ những phận tích như trên cho thấy cần chấp nhận yêu cầu phản tố của
ông L đối với phần đất ông L đã mua lại của ông K diện tích đất chưa có giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất với diện tích như đã nói ở trên đo đạc thực tế là
22
1.304,8m
2
; theo trích đo địa chính số TĐ 227/2024 ngày 26/4/2024 của Chi
nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố P, tỉnh Kiên Giang là không có cơ
sở chấp nhận.
[9] Về hợp đồng dịch vụ hành chính thì ông K đồng ý hủy hợp đồng dịch
vụ hành chính và trả lại số tiền 20.000.000 đồng đã nhận cho ông L. Do đó, cần
ghi nhận sự thỏa thuận của ông L và ông K về hủy hợp đồng dịch vụ hành chính.
Buộc ông Doãn Minh K trả lại số tiền 20.000.000 đồng (Hai mươi triệu
đồng) cho ông Phan Thành L và bà Văn Thị H là phù hợp với pháp luật.
[10] Xét các hợp đồng ông L chuyển nhượng cho những người có quyền
lợi nghĩa vụ liên quan sau:
[10.1] Xét yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà
Võ Thị H2, Hội đồng xét xử xét thấy: Nội dung của hợp đồng đặt cọc ngày
07/8/2005, ông L đồng ý chuyển nhượng cho bà H2 diện tích 350m
2
, với giá
490.000.000 đồng, bà H2 giao trước 100.000.000 đồng. Sau khi tiến hành đo đạc
bà H2 giao thêm 340.000.000 đồng, số tiền còn lại 50.000.000 đồng, ông L làm
xong sổ đỏ giao cho bà H2 tách thửa. Ngày 20/8/2018, ông L tiếp tục lập hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ông L, bà H ký tên giao cho bà H2. Do
đó, bản chất nội dung của hợp đồng là chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Tại
thời điểm giao kết hợp đồng ông L, bà H chưa được cơ quan Nhà nước cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định tại Điều 106 Luật Đất đai năm
2003 là không đúng quy định của pháp luật. Do đó, hợp đồng vô hiệu ngay từ
đầu, các bên biết rõ tình trạng pháp lý của thửa đất là chưa có giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, mặt khác do vi phạm về hình thức và có đối tượng không thể
thực hiện được theo quy định tại Điều 122, 134 và 411 Bộ luật Dân sự 2005;
Điều 122, 123, 129 và 408 Bộ luật Dân sự năm 2015. Nên bà H2 yêu cầu tuyên
bố hợp đồng vô hiệu là có căn cứ chấp nhận.
Khi hợp đồng vô hiệu thì các bên hoàn trả cho nhau những gì đã nhận bên
có lỗi phải bồi thường theo Điều 137 Bộ luật Dân sự năm 2005 và Điều 131 Bộ
luật Dân sự năm 2015. Hiện nay bà H2 chưa nhận đất nên bà H2 không phải
giao trả lại quyền sử dụng đất cho ông L. Đối với số tiền vợ chồng ông L đã
nhận của bà H2 là 440.000.000 đồng, vợ chồng ông L phải có nghĩa vụ giao trả
cho bà H2.
Buộc ông Phan Thành L và bà Văn Thị H phải trả lại số tiền 440.000.000
đồng (Bốn trăm bốn mươi triệu đồng) cho bà võ Thị H2 là phù hợp với pháp
luật.
Xét về lỗi làm cho hợp đồng vô hiệu và trách nhiệm bồi thường thiệt hại
của các bên: Khi xác lập giao dịch dân sự như trên, có cơ sở xác định các bên ký
hợp đồng đều biết rõ tình trạng pháp lý của tài sản nhưng vẫn chấp nhận dẫn đến
việc các bên không ký được hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo
quy định của pháp luật là do lỗi của cả hai bên. Trong trường hợp này vô hiệu
ngay từ đầu, lỗi của các bên ngang nhau nên các bên phải trả lại cho nhau những
gì đã nhận và không phải bồi thường thiệt hại.
[10.2] Xét yêu cầu độc lập của bà Võ Thị N, Hội đồng xét xử xét thấy:
Nội dung của hợp đồng đặt cọc ngày 09/6/2007, ông L đồng ý chuyển nhượng
cho bà N diện tích 270m
2
, với giá 550.000.000 đồng, bà N giao trước
23
100.000.000 đồng. Sau khi ông L đỗ đất làm đường xong, bà N đã giao thêm
400.000.000 đồng. Ông L làm xong sổ đỏ giao cho bà N tách thửa, khi ra công
chứng sang nhượng xong bà N trả cho ông L số tiền còn lại là 50.000.000 đồng.
Do đó, bản chất nội dung của hợp đồng là chuyển nhượng quyền sử dụng đất,
ông L đã nhận 500.000.000 đồng từ bà N. Tại thời điểm giao kết hợp đồng ông
L, bà H chưa được cơ quan Nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
theo quy định tại Điều 106 Luật Đất đai năm 2003. Mặt khác, diện tích đất này
ông L đã chuyển nhượng cho ông K đã được đăng ký kê khai thuộc thửa số 16,
tờ bản đồ số 110 đứng tên ông K. Như vậy, hợp đồng vi phạm về hình thức và
đối tượng không thể thực hiện được nên bị vô hiệu theo quy định tại Điều 122,
134 và 411 Bộ luật Dân sự năm 2005, nên bà N yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô
hiệu là có căn cứ chấp nhận.
Khi hợp đồng vô hiệu thì các bên hoàn trả cho nhau những gì đã nhận,
bên có lỗi phải bồi thường theo Điều 137 Bộ luật Dân sự năm 2005. Hiện nay
quyền sử dụng đất ông L đang quản lý sử dụng nên bà N không phải giao trả lại
quyền sử dụng đất cho ông L. Đối với số tiền ông L đã nhận của bà N tổng cộng
là 500.000.000 đồng, vợ chồng ông L phải có nghĩa vụ giao trả cho bà N.
Về lỗi dẫn đến hợp đồng vô hiệu và bồi thường thiệt hại: như đã phân tích
ở trên. Buộc ông Phan Thành L và bà Văn Thị H phải trả lại số tiền 500.000.000
đồng (Năm trăm triệu đồng) cho bà Võ Thị Cẩm N là phù hợp với pháp luật.
[10.3] Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Đỗ Long A1,
bà Phạm Thị Thanh B có đơn yêu cầu độc lập, Toà án ra Thông báo số
666/2022/TB-TA ngày 07/9/2022 về việc nộp tiền tạm ứng án phí yêu cầu độc
lập nhưng đã hết thời hạn, ông A1, bà B không nộp tiền tạm ứng án phí. Ngày
28/9/2023, Toà án đã thông báo trả đơn khởi kiện cho ông A1, bà B. Tại phiên
tòa ông L, bà H2 và ông A1 cho rằng vợ chồng ông A1 vẫn đồng ý tiếp tục thực
hiện hợp đồng và không yêu cầu tòa án giải quyết, các bên tự thực hiện khi có
đủ điều kiện chuyển nhượng; nên Hội đồng xét xử không xem xét. Ông A1, bà B
được quyền khởi kiện để giải quyết hợp đồng CNQSD đất với vợ chồng ông L
bằng một vụ án khác nếu có yêu cầu.
[11] Từ những phân tích và nhận định nêu trên, trong thảo luận và nghị
án, Hội đồng xét xử xét thấy đã có đủ cơ sở lý luận và thực tiễn, nghị nên thống
nhất chấp nhận đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát, chấp nhận nội dung kháng
cáo của bị đơn ông Phan Thành L, bà Văn Thị H; người có quyền lợi, nghĩa vụ
liện quan Đỗ Long A1 và bà Phạm Thị Thanh B, sửa bản án sơ thẩm số
115/2024/DS-ST ngày 31 tháng 7 năm 2024 của Tòa án nhân dân thành phố phú
Quốc tỉnh Kiên Giang.
[12] Về chi phí tố tụng: Chi phí đo đạc 40.142.292 đồng, chi phí định giá
6.692.000 đồng. Tổng cộng là 46.834.292 đồng do nguyên đơn ông K đã nộp
tạm, yêu cầu của ông K không được chấp nhận. Nên buộc ông K phải nộp và
ông K đã nộp xong.
[13] Về án phí :
[13.1] Về án phí dân sự sơ thẩm:
- Nguyên đơn ông Doãn Minh K phải chịu án phí dân sự sơ thẩm không
có giá ngạch là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng).
24
- Nguyên đơn ông Doãn Minh K phải chịu án phí dân sự sơ thẩm có giá
ngạch của số tiền buộc phải trả là 20.000.000 đồng x 5% = 1.000.000 đồng.
Như vậy buộc ông Doãn Minh K phải nộp án phí tổng cộng là 1.300.000
đồng (Một triệu ba trăm nghìn đồng). Nhưng được khấu trừ vào tiền tạm ứng án
phí ông K đã nộp là 1.200.000 đồng theo biên lại thu tạm ứng án phí số 0002582
ngày 06/3/2020 và 600.000 đồng theo biên lai thu số 0004259, ngày 06/12/2023
của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang. Như vậy,
ông K được nhận lại 500.000 đồng.
- Bị đơn ông Phan Thành L, bà Văn Thị H là người cao tuổi theo quy định
tại điều 2 luật người cao tuổi năm 2009 thuộc trường hợp được miễn án phí theo
quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14
ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn,
giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án nên không phải chịu án
phí.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Võ Thị H2 yêu cầu được Toà
án chấp nhận nên không phải chịu án phí. Trả lại cho bà H2 số tiền tạm ứng án
phí đã nộp 12.000.000 đồng theo biên lai thu số 0002924 ngày 03/8/2020 của
Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Võ Thị N yêu cầu được Toà án
chấp nhận nên không phải chịu án phí. Trả lại cho bà N số tiền tạm ứng án phí
đã nộp 10.800.000 đồng theo biên lai thu số 0002925 ngày 03/8/2020 của Chi
cục Thi hành án dân sự thành phố Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang.
[13.2] Án phí dân sự phúc thẩm:
- Ông Phan Thành L, bà Văn Thị H là người cao tuổi theo quy định tại
điều 2 luật người cao tuổi năm 2009 thuộc trường hợp được miễn án phí theo
quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14
ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn,
giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án nên không phải chịu án
phí.
Do yêu cầu kháng cáo được chấp nhận. Trả lại tiền tạm ứng án phí cho
ông Đỗ Long A1 và bà Phạm Thị Thanh B số tiền 300.000 đ (Ba trăm nghìn
đồng) theo biên lai thu số 0000498 ngày 16/8/2024 của Chị cục Thi hành án dân
sự thành phố Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
- Căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
- Chấp nhận một phần nội dung kháng cáo của bị đơn ông Phan Thành L,
bà Văn Thị H; người có quyền lợi, nghĩa vụ liện quan Đỗ Long A1 và bà Phạm
Thị Thanh B.
- Sửa bản án dân sự sơ thẩm số 115/2024/DS-ST ngày 31 tháng 7 năm
2024 của Tòa án nhân dân thành phố Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang.
Căn cứ Điều 26, 35, 39, 147, 157, 165, 227, 228, 244, 266, 273 và 280
của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 121, 122, 134, 411 Bộ luật Dân sự năm 2005;
Điều 116, 122, 123,129, 131, 408, 500, 502, 688 Bộ luật Dân sự năm 2015;
25
Điều 49, 50 Luật Đất đai 2003; Điều 99, 100, khoản 2 Điều 101, 167, 188 Luật
Đất đai 2013; Điều 12, 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm,
thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Căn cứ vào các Điều 117, 118, 119, 131, 280, 500, 501 và Điều 468 Bộ
luật dân sự năm 2015; Áp dụng khoản 1 Điều 228; Điều 158 Bộ luật tố tụng dân
sự;
Tuyên xử:
1. Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Doãn Minh
K đối với bị đơn ông Phan Thành L, bà Văn Thị H về việc xin rút một phần yêu
cầu khởi kiện đối với diện tích đất 4.463,8m
2
tại khu phố I, phường D, thành phố
P, tỉnh Kiên Giang.
2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Doãn Minh K
đối với bị đơn ông Phan Thành L, bà Văn Thị H về việc tranh chấp hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất và giao trả diện tích đất chuyển nhượng. Yêu
cầu Công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Phan
Thành L với ông Doãn Minh K đối với diện tích đất 5.000m
2
, tọa lạc tại khu phố
I, phường D, thành phố P, tỉnh Kiên Giang lập ngày 16/4/2003, được UBND thị
trấn D chứng thực ngày 26/8/2003. Yêu cầu công nhận giấy tay chuyển nhượng
sang đất giữa ông Phan Thành L, bà Phan Thị H4 với ông Doãn Minh K đối với
diện tích đất 1.000m
2
, tọa lạc tại khu phố I, phường D, thành phố P, tỉnh Kiên
Giang lập ngày 28/5/2007, được Ban N3 xác nhận ngày 29/5/2007.
3. Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của ông Phan Thành L, bà Văn
Thị H.
- Tuyên bố hợp đồng ghi là “Giấy tay chuyển nhượng, sang đất”; lập ngày
“Ngày 28 tháng năm 2018”, được ký kết giữa các chủ thể là ông Doãn Minh K
với ông Phan Thành L, bà Văn Thị H, anh Phan Đồng K1, không có công
chứng, chứng thực nhưng có xác nhận của Ban nhân dân khu phố 9 ngày
29/5/2007 là vô hiệu.
- Buộc ông Phan Thành L và bà Văn Thị H phải trả cho ông Doãn Minh K
số tiền tổng cộng gốc và lãi là 201.363.000 đồng (Hai trăm không một triệu ba
trăm sáu mươi ba nghìn đồng).
4. Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của bị đơn ông Phan Thành L, bà
Văn Thị H về việc hủy hợp đồng dịch vụ hành chính giữa ông Doãn Minh K với
ông Phan Thành L ngày 16/12/2018.
- Ghi nhận sự tự nguyện thỏa thuận giữa ông Doãn Minh K và ông Phan
Thành L về việc hủy bỏ hợp đồng dịch vụ hành chính ngày 16/12/2018.
- Buộc ông Doãn Minh K trả lại số tiền 20.000.000 đồng (Hai mươi triệu
đồng) cho ông Phan Thành L và bà Văn Thị H.
5. Chấp nhận yêu cầu độc lập của bà Võ Thị H2 đối với ông Phan Thành
L, bà Văn Thị H.
- Tuyên bố hợp đồng đặt cọc (Dưới hình thức giấy đặt cọc sang nhượng
đất) xác lập ngày 07/8/2005 và hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất xác
lập ngày 20/8/2007, giữa ông Phan Thành L với bà Võ Thị H2 vô hiệu.
26
- Buộc ông Phan Thành L và bà Văn Thị H phải trả lại số tiền
440.000.000 đồng (Bốn trăm bốn mươi triệu đồng) cho bà võ Thị H2.
6. Chấp nhận yêu cầu độc lập của bà Võ Thị N đối với ông Phan Thành L,
bà Văn Thị H.
-Tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất xác lập ngày
09/6/2007, giữa ông Phan Thành L với bà Võ Thị N vô hiệu.
- Buộc ông Phan Thành L và bà Văn Thị H phải trả lại số tiền
500.000.000 đồng (Năm trăm triệu đồng) cho bà Võ Thị Cẩm N.
Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp
cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án). Kể từ ngày có
đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải
trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản
tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn
phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự
năm 2015.
7. Ông Phan Thành L, bà Văn Thị H được tiếp tục quản lý, sử dụng các
phần đất như sau; theo trích đo địa chính số TĐ 227/2024 ngày 26/4/2024 của
Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố P, tỉnh Kiên Giang
- Thửa số 4: Diện tích đo thực tế 257,1m
2
, có vị trí từ cận và số đo theo
hình 25,26,31,30 như sau:
+ Chiều ngang:
- Giáp đất của ông K đã chuyển nhượng cho ông T3 (Thửa 3) cạnh 25-26
là: 8,95m.
- Giáp đất của bà Nguyễn Thị T6 cạnh 31- 30 là: 9,45m.
+ Chiều dài:
- Giáp đất của ông L (Thửa 5) cạnh 26 -32 là: 20,43m, giáp đất bà Nguyễn
Thị T6 cạnh 32 - 31 là: 8,84 m.
- Giáp đất của ông L đang sử dụng (T) cạnh 25- 29 là: 21,38m, cạnh 29-30
là 5,92m.
Tổng diện tích là: 257,1m
2
.
- Thửa số 5: Diện tích đo đạc thực tế là 186,2m
2
,
+ Chiều ngang:
- Giáp đất của ông K đã chuyển nhượng cho ông T3 (Thửa 3) cạnh 25-24
là: 8,81m.
- Giáp đất của bà Nguyễn Thị T6 cạnh 30- 38 là: 8,21m, cạnh 38-37 là
1,79m.
+ Chiều dài:
- Giáp với Thửa 4 cạnh 25-29 là: 21,38m, cạnh 29-30 là: 5,92m.
- Giáp thửa 8 cạnh 24-33 là: 21,28m, cạnh 33-34 là 0,85m, cạnh 34-35 là
2,1m, cạnh 35-36 là 3,46m, cạnh 36-37 là 2,37m.
Tổng diện tích là: 186,2m
2
.
27
- Thửa số 12: Diện tích đo đạc thực tế là 342,5m
2
, phần đất này ngày
07/8/2016 ông L chuyển nhượng cho bà H2 (Vợ ông K) diện tích 350m
2
, (Đo
đạc thực tế 342,5m
2
) ông K và ông L, bà H tranh chấp, do bà H2 đang quản lý.
+ Chiều ngang:
- Giáp đất của ông K đã chuyển nhượng cho ông T3 (Thửa 9) cạnh 39-59
là: 15,82m.
- Giáp với (Thửa 7) là lối đi chung do ông L bà H tự mở cạnh 41-44 là:
15,81m.
+ Chiều dài:
- G (Thửa 8) cạnh 39-40 là: 15,99m, cạnh 40-41 là 5,9m
- Giáp với thửa 11 cạnh 59-60 là 5,53m, cạnh 60-61 là 5,19m, cạnh 61-44
là 10,73m
Tổng diện tích là: 342,5m
2
.
8. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Doãn Minh K về việc yêu
cầu hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 15/11/2017 giữa ông
Phan Thành L với bà Phạm Thị Thanh B vô hiệu.
- Ông Đỗ Long A1, bà Phạm Thị Thanh B tiếp tục được quản lý sử dung
theo thỏa thuận của ông Phan Thành L, bà Văn Thị H được tiếp tục quản lý, sử
dụng các phần đất, và công trình trên đất; theo trích đo địa chính số TĐ
227/2024 ngày 26/4/2024 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố
P, tỉnh Kiên Giang. Cụ thể theo thửa đất:
- Thửa số 8: Diện tích đo đạc thực tế là 519m
2
, phần đất này ngày
15/11/2017, ông L chuyển nhượng cho bà B, ông A1 diện tích 528,36m
2
, (đo
đạc thực tế là 519m
2
, trong đó: 519m
2
– 1,4m
2
đất bà T6 đổi cho ông L =
517,6m
2
) do vợ chồng bà B và ông A1 đang quản lý, sử dụng.
+ Chiều ngang:
- Giáp đất của ông K đã chuyển nhượng cho ông T3 (Thửa 3 và 8) cạnh
24- 23 là: 14,2m, cạnh 23-22 là 3,87m, cạnh 22-39 là 5,51m.
- Giáp (Thửa 5) cạnh 34-35 là 2,1m, cạnh 35-36 là 3,46m, giáp với thửa 7
là lối đi chung do ông L bà H tự mở cạnh 36-43 là: 12,37m, cạnh 43- 42 là:
1,14m, cạnh 42-41 là: 4,7m.
+ Chiều dài:
- Giáp với thửa 5 cạnh 24-33 là: 21,28m, cạnh 33-34 là 0,85m.
- Giáp thửa 12 cạnh 39-40 là: 15,99m, cạnh 40-41 là 5,9m
Tổng diện tích là: 519m
2
.
Toàn bộ các thửa đất trên theo trích đo địa chính số TĐ 227/2024 ngày
26/4/2024 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố P, tỉnh Kiên
Giang. (Kèm theo bản án này).
Khi án có hiệu lực pháp luật ông Phan Thành L, bà Văn Thị H, Ông Đỗ
Long A1, bà Phạm Thị Thanh B có quyền và nghĩa vụ liên hệ với cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền để làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo
quy định của pháp luật.
9. Về chi phí tố tụng: Buộc ông K phải chịu 46.834.292 đồng (Bốn mươi
sáu triệu tám trăm ba mươi bốn nghìn hai trăm chín mươi hai đồng) và ông K đã
nộp thanh toán xong.
28
[10] Về án phí :
[10.1] Về án phí dân sự sơ thẩm:
- Buộc ông Doãn Minh K phải nộp phải nộp án phí là 1.300.000 đồng
(Một triệu ba trăm nghìn đồng). Nhưng được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí
ông K đã nộp là 1.200.000 đồng theo biên lại thu tạm ứng án phí số 0002582
ngày 06/3/2020 và 600.000 đồng theo biên lai thu số 0004259, ngày 06/12/2023
của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang. Như vậy,
ông K được nhận lại 500.000 đồng.
- Ông Phan Thành L, bà Văn Thị H là người cao tuổi theo quy định tại điều
2 luật người cao tuổi năm 2009 thuộc trường hợp được miễn án phí theo quy
định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm,
thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án nên không phải chịu án phí.
- Trả lại cho bà Võ Thị H2 số tiền tạm ứng án phí đã nộp 12.000.000 đồng
theo biên lai thu số 0002924 ngày 03/8/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự
thành phố Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang.
- Trả lại cho bà Võ Thị N số tiền tạm ứng án phí đã nộp 10.800.000 đồng
theo biên lai thu số 0002925 ngày 03/8/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự
thành phố Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang.
[10.2] Án phí dân sự phúc thẩm:
- Ông Phan Thành L, bà Văn Thị H là người cao tuổi theo quy định tại
điều 2 luật người cao tuổi năm 2009 thuộc trường hợp được miễn án phí theo
quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14
ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn,
giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án nên không phải chịu án
phí.
- Hoàn trả lại tiền tạm ứng án phí cho ông Đỗ Long A1 và bà Phạm Thị
Thanh B số tiền 300.000 đ (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số 0000498
ngày 16/8/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Phú Quốc, tỉnh Kiên
Giang.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án
dân sự sửa đổi, bổ sung thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án
dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi
hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9
Luật thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung; thời hiệu thi hành án được thực hiện
theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung.
11. Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Kiên Giang;
- TAND thành phố Phú Quốc;
- THA thành phố Phú Quốc;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án./.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN-CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
29
Trần Bá Kha
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 13/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 10/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 07/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 06/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 05/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 03/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 28/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 28/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 27/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 26/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 25/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 25/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Bản án số 08/2025/DS-ST ngày 24/02/2025 của TAND huyện Hòa Bình, tỉnh Bạc Liêu về tranh chấp đất đai
Ban hành: 24/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 24/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 24/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 24/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 24/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 21/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 21/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 20/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm