Bản án số 221/2025/DS-PT ngày 09/04/2025 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp đất đai
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 221/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 221/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 221/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 221/2025/DS-PT ngày 09/04/2025 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp đất đai |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp đất đai |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Bình Dương |
Số hiệu: | 221/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 09/04/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Chấp nhận phần yêu cầu kháng cáo của các nguyên đơn bà Trần Thị Hồng T1, bà Ngô Thị Mỹ D, bà Trần Thị N, bà Trần Thị M, bà Trịnh Hồng H1, bà Châu Ú, ông Châu Hồng Đ, bà Nguyễn Thị T; chấp nhận một phần kháng cáo của bị đơn bà Trần Thị P; không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn bà Châu Ngọc H |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH BÌNH DƯƠNG
Bản án số: 221/2025/DS-PT
Ngày 09 - 4 - 2025
V/v tranh chấp quyền sử dụng đất,
yêu cầu công nhận quyền sử dụng đất
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH DƯƠNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Lê Sỹ Trứ
Các Thẩm phán: Bà Huỳnh Thị Thanh Tuyền
Ông Nguyễn Trung Dũng
- Thư ký phiên tòa: Ông Phạm Hồng Thái – Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh Bình
Dương.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương tham gia phiên tòa: Ông
Lê Trung Kiên – Kim sát viên.
Ngày 09 tháng 4 năm 2025, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Bình Dương xét xử
phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 445/2024/TLPT-DS ngày 15 tháng 10 năm
2024 về việc “tranh chấp quyền sử dụng đất”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 106/2024/DS-ST ngày 14 tháng 8 năm 2024 của
Tòa án nhân dân thành phố Tân Uyên, tỉnh Bình Dương bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 460/2024/QĐ-PT ngày
14/11/2024 và Thông báo mở lại phiên tòa số 21/2025/TB-TA ngày 26/3/2025, giữa các
đương sự:
- Nguyên đơn:
1. Ông Châu Hồng Đ, sinh năm 1978; địa chỉ: số B tổ D, khu phố E, phường H,
thành phố B, tỉnh Đồng Nai.
2. Bà Châu Ngọc H, sinh năm 1976; địa chỉ: số B tổ D, khu phố E, phường H,
thành phố B, tỉnh Đồng Nai.
3. Bà Châu Ú, sinh năm 1983; địa chỉ: số B tổ D, khu phố E, phường H, thành
phố B, tỉnh Đồng Nai.
4. Bà Trần Thị N, sinh năm 1958; địa chỉ: tổ A, khu phố B, phường K, thành phố
T, tỉnh Bình Dương.
5. Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1961; địa chỉ: tổ A, khu phố B, phường K, thành
phố T, tỉnh Bình Dương.
6. Bà Ngô Thị Mỹ D, sinh năm 1974; địa chỉ: tổ A, khu phố B, phường K, thành
phố T, tỉnh Bình Dương.
2
7. Bà Trịnh Hồng H1, sinh năm 1981; địa chỉ: tổ A, khu phố B, phường K, thành
phố T, tỉnh Bình Dương.
8. Bà Trần Thị Hồng T1, sinh năm 1985; địa chỉ: tổ A, khu phố B, phường K,
thành phố T, tỉnh Bình Dương.
9. Bà Trần Thị M, sinh năm 1975; địa chỉ: tổ A, khu phố B, phường K, thành phố
T, tỉnh Bình Dương.
Người đại diện hợp pháp của các nguyên đơn:
Bà Dương Thị Kim O, sinh năm 2000; địa chỉ: số B khu phố B, phường B, thành
phố T, tỉnh Bình Dương, có mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích của các nguyên đơn:
Ông Phùng Văn H2, là Luật sư Công ty L3 thuộc Đoàn Luật sư tỉnh B, có mặt.
- Bị đơn: Bà Trần Thị P, sinh năm 1967; địa chỉ: tổ A, khu phố B, phường K,
thành phố T, tỉnh Bình Dương.
Người đại diện hợp pháp của bị đơn: Ông Nguyễn Đình T2, sinh năm 1992; địa
chỉ: ấp A, xã B, huyện X, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu; địa chỉ liên hệ: số F đường N, phường
T, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh, có mặt
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Trần Thanh M1, sinh năm 1955; địa chỉ: tổ A, khu phố B, phường K,
thành phố T, tỉnh Bình Dương, vắng mặt.
2. Ông Trần Văn N1, sinh năm 1983, có đơn xin vắng mặt.
3. Ông Đỗ Thanh T3, sinh năm 1985, vắng mặt.
4. Ông Đỗ Minh Q, sinh năm 2004, có đơn xin vắng mặt.
5. Ông Dương Văn T4, sinh năm 1978, có đơn xin vắng mặt.
6. Bà Dương Ngô Thanh T5, sinh năm 2002, có đơn xin vắng mặt.
7. Bà Dương Ngô Thùy T6, sinh năm 2006, có đơn xin vắng mặt.
8. Ông Trịnh Hồng D1, sinh năm 1988, có đơn xin vắng mặt.
9. Bà Trịnh Hồng T7, sinh năm 1990, có đơn xin vắng mặt.
10. Bà Trịnh Hồng L, sinh năm 1995, có đơn xin vắng mặt.
11. Ông Nguyễn Thanh S, sinh năm 1984, có đơn xin vắng mặt.
12. Ông Nguyễn Văn H3, sinh năm 1989, có đơn xin vắng mặt.
13. Ông Huỳnh Văn T8, sinh năm 1993, có đơn xin vắng mặt.
14. Bà Huỳnh Thị Hương G, sinh năm 1995, có đơn xin vắng mặt.
15. Bà Huỳnh Thị Quế T9, sinh năm 2000, có đơn xin vắng mặt.
16. Ông Nguyễn Chí T10, sinh năm 1970, vắng mặt.
17. Bà Nguyễn Thanh T11, sinh năm 2002, vắng mặt.
18. Ông Nguyễn Văn H3, sinh năm 1971, vắng mặt.
19. Bà Trịnh Hồng Y, sinh năm 2002, có đơn xin vắng mặt.
3
20. Bà Trịnh Hồng H4, sinh năm 2004, có đơn xin vắng mặt.
21. Ông Nguyễn Ngọc K, sinh năm 1996, có đơn xin vắng mặt.
22. Bà Nguyễn Thị Thanh T12, sinh năm 1983, có đơn xin vắng mặt.
23. Ông Phạm Văn L1, sinh năm 2002, có đơn xin vắng mặt.
Cùng địa chỉ: tổ A, khu phố B, phường K, thành phố T, tỉnh Bình Dương.
24. Bà Trần Thị T13, sinh năm 1951; địa chỉ: số B, đường C, khu phố E, phường
H, thành phố B, tỉnh Đồng Nai, có đơn xin vắng mặt.
25. Ủy ban nhân dân phường K, thành phố T, tỉnh Bình Dương. Người đại diện
hợp pháp: Ông Huỳnh Hữu P1, Chủ tịch Ủy ban nhân phường, có đơn xin vắng mặt.
26. Ủy ban nhân dân thành phố T, tỉnh Bình Dương.
Người đại diện hợp pháp: Ông Nguyễn Tấn L2 – Trưởng Phòng Tài nguyên và
Môi trường thành phố T, là người đại diện theo ủy quyền, có đơn xin vắng mặt.
- Người kháng cáo: Nguyên đơn ông Châu Hồng Đ, bà Châu Ngọc H, bà Châu
Ú, bà Trần Thị N, bà Nguyễn Thị T, bà Ngô Thị Mỹ D, bà Trịnh Hồng H1, bà Trần Thị
Hồng T1, bà Trần Thị M; bị đơn bà Trần Thị P.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo nội dung bản án sơ thẩm:
- Theo đơn khởi kiện ngày 07/3/2023, đơn khởi kiện bổ sung ngày 03/4/2023, và
lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn và người đại diện hợp pháp của
nguyên đơn trình bày:
Cha mẹ của bà P là ông Trần Văn M2 (sinh năm 1918, chết năm 1976 không có
giấy chứng tử) và bà Lê Thị K1 (sinh năm 1929, chết năm 2008). Sinh thời, ông M2, bà
K1 có 06 người con, gồm: bà Trần Thị P (bị đơn), bà Trần Thị N (nguyên đơn), bà Trần
Thị T13 (là mẹ của các nguyên đơn C, Châu Ngọc H, Châu Hồng Đ), ông Trần Thanh
M1 (là cha của nguyên đơn Trần Thị Hồng T1). Ngoài ra còn hai người con khác chết
lúc nhỏ và chết trong chiến tranh (không xác định được họ tên, năm sinh, năm mất).
Thửa 246, tờ bản đồ số 40 tọa lạc tại phường K, thành phố T do ông M2 và bà
K1 khai phá. Khoảng năm 1990, bà K1, bà N, bà T13 và ông M1 thống nhất giao thửa
246 cho bà P quản lý sử dụng. Ông M1 được một phần đất khác đối diện phần đất đang
tranh chấp. Việc giao đất cho các thành viên trong gia đình không có lập văn bản, không
có ai tranh chấp gì. Bà T13 lấy chồng sinh sống tại thành phố B, tỉnh Đồng Nai không
được chia đất, nhưng thời gian sau này thấy các con của bà T13 là Châu Ú, Châu Ngọc
H, Châu Hồng Đ không có đất sinh sống nên mới gọi về cho đất, bà Châu Ngọc H được
chia 156,7m
2
(Phần 1 - Mảnh trích lục địa chính số 658-2023), Châu Út diện tích
138,5m
2
(Phần 9 - Mảnh trích lục địa chính số 658-2023), Châu Hồng Đ diện tích
161,7m
2
(Phần 10 - Mảnh trích lục địa chính số 658-2023). Bà N được bà P cho phần
đất diện tích 113,4m
2
(Phần 5 - Mảnh trích lục địa chính số 658-2023). Bà Trần Thị
Hồng T1 là con của ông Trần Thanh M1 được bà P cho diện tích 243,4m
2
thuộc thửa
246 (Phần 3 tại Mảnh trích lục địa chính có đo đạc chỉnh lý số 658-2023) đ xây dựng
nhà cửa. Bà Trần Thị P quản lý sử dụng phần diện tích 58m
2
và 140,3m
2
(Phần 2 và
Phần 6 - Mảnh trích lục địa chính có đo đạc chỉnh lý số 658-2023) từ năm 1990 cho đến
nay. Ngô Thị Mỹ D được cho diện tích 102,8m
2
(Phần 4 - Mảnh trích lục địa chính có
4
đo đạc chỉnh lý số 658-2023). Bà Trần Thị M được cho diện tích 174,4m
2
(Phần 1 -
Mảnh trích lục địa chính có đo đạc chỉnh lý số 658-2023). Bà Trịnh Hồng H1 được cho
diện tích 152,5m
2
(Phần 8 - Mảnh trích lục địa chính có đo đạc chỉnh lý số 658-2023).
Bà Nguyễn Thị T được cho diện tích 348,2m
2
(Phần 11 - Mảnh trích lục địa chính có đo
đạc chỉnh lý số 658-2023).
Khi bà K1 còn sống, bà K1 sống cùng với ông M1, có khi sống cùng với bà P vì
nhà hai người này gần nhau.
Ông M2 và bà K1 không có đăng ký kê khai đối với thửa 246. Mặc dù trong sổ
mục kê th hiện ông Trần Thanh M1 là người sử dụng thửa 260 nhưng bà P quản lý sử
dụng từ những năm 1990 đến khi phân chia lại cho chị và các cháu trong gia đình.
Các đương sự trong vụ án không có tranh chấp về thừa kế tài sản bởi vì phần đất
này đã được cho bà P rất lâu.
Các nguyên đơn khởi kiện như sau:
- Công nhận cho bà Châu Ngọc H được quyền quản lý, sử dụng diện tích 156,7m
2
thuộc thửa 246 và tài sản gắn liền trên đất (Phần 1 - Mảnh trích lục địa chính có đo đạc
chỉnh lý số 658-2023).
- Công nhận cho bà Trần Thị Hồng T1 được quyền quản lý, sử dụng diện tích
243,4m
2
thuộc thửa 246 và tài sản gắn liền trên đất (Phần 3 - Mảnh trích lục địa chính
có đo đạc chỉnh lý số 658-2023).
- Công nhận cho bà Ngô Thị Mỹ D được quyền quản lý, sử dụng diện tích
102,8m
2
thuộc thửa 246 và tài sản gắn liền trên đất (Phần 4 - Mảnh trích lục địa chính
có đo đạc chỉnh lý số 658-2023).
- Công nhận cho bà Trần Thị N được quyền quản lý, sử dụng diện tích 113,4m
2
thuộc thửa 246 và tài sản gắn liền trên đất (Phần 5 - Mảnh trích lục địa chính có đo đạc
chỉnh lý số 658-2023).
- Công nhận cho bà Trần Thị M được quyền quản lý, sử dụng diện tích 174,4m
2
thuộc thửa 246 và tài sản gắn liền trên đất (Phần 7 - Mảnh trích lục địa chính có đo đạc
chỉnh lý số 658-2023).
- Công nhận cho bà Trịnh Hồng H1 được quyền quản lý, sử dụng diện tích
152,5m
2
thuộc thửa 246 và tài sản gắn liền trên đất (Phần 8 - Mảnh trích lục địa chính
có đo đạc chỉnh lý số 658-2023).
- Công nhận cho bà Châu Ú được quyền quản lý, sử dụng diện tích 138,5m
2
thuộc
thửa 246 và tài sản gắn liền trên đất (Phần 9 - Mảnh trích lục địa chính có đo đạc chỉnh
lý số 658-2023).
- Công nhận cho ông Châu Hồng Đ được quyền quản lý, sử dụng diện tích
161,7m
2
thuộc thửa 246 và tài sản gắn liền trên đất (Phần 10 - Mảnh trích lục địa chính
có đo đạc chỉnh lý số 658-2023).
- Công nhận cho bà Nguyễn Thị T được quyền quản lý, sử dụng diện tích 348,2m
2
thuộc thửa 246 và tài sản gắn liền trên đất (Phần 11 - Mảnh trích lục địa chính có đo đạc
chỉnh lý số 658-2023).
Tại phiên tòa sơ thẩm, người đại diện hợp pháp của các nguyên đơn thay đổi yêu
cầu khởi kiện, cụ th như sau:
5
Yêu cầu Tòa án xác định:
- Bà Châu Ngọc H là người đang thực tế quản lý, sử dụng diện tích 156,7m
2
thuộc
thửa 246 và tài sản gắn liền trên đất (Phần 1 - Mảnh trích lục địa chính có đo đạc chỉnh
lý số 658-2023).
- Bà Trần Thị Hồng T1 là người đang thực tế quản lý, sử dụng diện tích 243,4m
2
thuộc thửa 246 và tài sản gắn liền trên đất (Phần 3 - Mảnh trích lục địa chính có đo đạc
chỉnh lý số 658-2023).
- Bà Ngô Thị Mỹ D được là người đang thực tế quản lý, sử dụng diện tích 102,8m
2
thuộc thửa 246 và tài sản gắn liền trên đất (Phần 4 - Mảnh trích lục địa chính có đo đạc
chỉnh lý số 658-2023).
- Bà Trần Thị N là người đang thực tế quản lý, sử dụng diện tích 113,4m
2
thuộc
thửa 246 và tài sản gắn liền trên đất (Phần 5 - Mảnh trích lục địa chính có đo đạc chỉnh
lý số 658-2023).
- Bà Trần Thị M là người đang thực tế quản lý, sử dụng diện tích 174,4m
2
thuộc
thửa 246 và tài sản gắn liền trên đất (Phần 7 - Mảnh trích lục địa chính có đo đạc chỉnh
lý số 658-2023).
- Bà Trịnh Hồng H1 là người đang thực tế quản lý, sử dụng diện tích 152,5m
2
thuộc thửa 246 và tài sản gắn liền trên đất (Phần 8 - Mảnh trích lục địa chính có đo đạc
chỉnh lý số 658-2023).
- Bà Châu Ú là người đang thực tế quản lý, sử dụng diện tích 138,5m
2
thuộc thửa
246 và tài sản gắn liền trên đất (Phần 9 - Mảnh trích lục địa chính có đo đạc chỉnh lý số
658-2023).
- Ông Châu Hồng Đ là người đang thực tế quản lý, sử dụng diện tích 161,7m
2
thuộc thửa 246 và tài sản gắn liền trên đất (Phần 10 - Mảnh trích lục địa chính có đo đạc
chỉnh lý số 658-2023).
- Bà Nguyễn Thị T là người đang thực tế quản lý, sử dụng diện tích 348,2m
2
thuộc thửa 246 và tài sản gắn liền trên đất (Phần 11 - Mảnh trích lục địa chính có đo đạc
chỉnh lý số 658-2023).
Yêu cầu Tòa án kiến nghị cơ quan có thẩm quyền làm thủ tục kê khai cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất cho các nguyên đơn.
Trong quá trình giải quyết vụ án bị đơn và người đại diện hợp pháp của bị đơn
– bà Hoàng Thị P2 và ông Nguyễn Đình T2 trình bày như sau:
Bà P thống nhất mối quan hệ huyết thống của ông Trần Văn M2 và bà Lê Thị
K1 mà nguyên đơn trình bày.
Nguồn gốc thửa 246 do cha mẹ bà P tặng cho bà P. Việc tặng cho chỉ bằng lời
nói, không lập thành văn bản. Ông M1 là anh trong gia đình và làm ở cơ quan nhà nước
nên biết về thủ tục đất đai đã đi kê khai trong mục kê địa chính đối với thửa đất này. Từ
trước đến giờ không có ai tranh chấp về thừa kế tài sản đối với thửa đất này.
Bà Trần Thị P có đơn phản tố yêu cầu công nhận cho bà Trần Thị P được quyền
quản lý, sử dụng thửa 246 tờ bản đồ 40 tại phường K, thành phố T, tỉnh Bình Dương với
diện tích đo đạc thực tế là 1.789,9m
2
và yêu cầu các nguyên đơn phải di dời tài sản trên
đất.
6
Tại phiên tòa sơ thẩm, người đại diện hợp pháp của bà Trần Thị P là ông Nguyễn
Đình T2 rút lại một phần yêu cầu phản tố, cụ th rút lại yêu cầu phản tố đối với diện tích
1.591,6m
2
do các nguyên đơn đang quản lý, sử dụng ổn định, không yêu cầu Tòa án giải
quyết phần đất này. Yêu cầu Tòa án xác định bà Trần Thị P là người đang thực tế quản
lý, sử dụng phần diện tích 58m
2
và 140,3m
2
(Phần 2 và Phần 6 - Mảnh trích lục địa chính
có đo đạc chỉnh lý số 658-2023).
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Trần Thanh M1 trình bày:
Nguồn gốc thửa 246, tờ bản đồ 40 tại phường K do cha mẹ ông M1 khai phá sau
đó tặng cho bà Trần Thị P. Việc tặng cho này được các thành viên trong gia đình thống
nhất, không có tranh chấp về thừa kế tài sản. Do ông M1 là anh lớn trong gia đình nên
đại diện kê khai thửa đất 246 trong sổ mục kê. Ông M1 không có tranh chấp đối với
thửa 246.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Trần Thị T13 trình bày:
Nguồn gốc thửa 246, tờ bản đồ 40 tại phường K do cha mẹ bà T13 khai phá sau đó tặng
cho bà Trần Thị P. Việc tặng cho này được các thành viên trong gia đình thống nhất,
không có tranh chấp về thừa kế tài sản. Năm 1999, bà P thấy các nguyên đơn đã lập gia
đình nhưng không có nhà cửa ổn định nên đã kêu các nguyên đơn về sinh sống trên thửa
đất này.
Đối với yêu cầu phản tố của bà Trần Thị P: Bà T13 không đồng ý với yêu cầu phản tố
của bà Trần Thị P vì các nguyên đơn đã trực tiếp quản lý, sử dụng ổn định các phần đất
thuộc thửa 246, xây dựng nhà ở và công trình trên đất từ năm 1999. Trong khoảng thời
gian đó, các đương sự không tranh có tranh chấp nên việc bà P yêu cầu công nhận cho
bà được quyền quản lý, sử dụng thửa 246 là không có căn cứ. Bà T13 đồng ý cho bà P
quản lý sử dụng diện tích 58m
2
và 140,3m
2
mà bà P đang trực tiếp quản lý, sử dụng
được th hiện tại phần (2) và phần (6) Mảnh trích lục địa chính có đo đạc chỉnh lý số
658-2023 ngày 02/11/2023. Đối với các phần đất còn lại các nguyên đơn đang quản lý,
sử dụng đề nghị Tòa án công nhận quyền sử dụng đất theo hiện trạng sử dụng đất cho
các nguyên đơn th hiện tại Mảnh trích lục địa chính có đo đạc chỉnh lý số 658-2023
ngày 02/11/2023.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Trần Văn N1 (chồng của bà Châu
Ngọc H) trình bày:
Năm 1999, bà P có gọi bà Châu Ngọc H về sinh sống trên diện tích 156,7m
2
thuộc
thửa 246, tờ bản đồ 40 tại phường K, thành phố T, tỉnh Bình Dương và cất hai nhà cấp
4 trên đất. Trong quá trình quản lý, sử dụng, bà H, ông N1 có đề nghị bà P làm thủ tục
tách thửa đất đ làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo đúng hiện
trạng. Tuy nhiên, biết được bà P đã làm thủ tục kê khai xin cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất đối với toàn bộ thửa 246, bao gồm cả phần đất của bà H, ông N1 đang quản
lý, sử dụng. Do đó, ông N1 yêu cầu Tòa án công nhận cho bà Châu Ngọc H được quyền
quản lý, sử dụng quyền sử dụng đất diện tích đo đạc thực tế là 156,7m
2
theo Mảnh trích
lục địa chính có đo đạc chỉnh lý số 658-2023 ngày 02/11/2023.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Đỗ Thanh T3, ông Đỗ Minh Q (chồng và
con của bà Trần Thị Hồng T1) trình bày:
Năm 1999, bà P có gọi bà Trần Thị Hồng T1 về sinh sống trên diện tích 243,4m
2
thuộc
thửa 246, tờ bản đồ 40 tại phường K, thành phố T, tỉnh Bình Dương và xây dựng hai
nhà cấp 4 trên đất. Trong quá trình quản lý, sử dụng, gia đình bà T1 có đề nghị bà P làm
7
thủ tục tách thửa đất đ làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo đúng
hiện trạng. Tuy nhiên, biết được bà P đã làm thủ tục kê khai xin cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất đối với toàn bộ thửa 246, bao gồm cả phần đất của gia đình bà T1
đang quản lý, sử dụng. Do đó, ông T3, ông Q yêu cầu Tòa án công nhận cho bà Trần
Thị Hồng T1 được quyền quản lý, sử dụng quyền sử dụng đất diện tích đo đạc thực tế
là 243,4m
2
theo Mảnh trích lục địa chính có đo đạc chỉnh lý số 658-2023 ngày
02/11/2023.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thanh T11, ông Nguyễn Chí
T10 (con của bà Trần Thị M) trình bày:
Bà T11, ông T10 là cháu của bà P và là con của bà M. Trước năm 1999, bà P bảo
bà M về sinh sống trên thửa 246 tờ bản đồ 40 tại phường K. Trong quá trình sinh sống
trên thửa 246, gia đình bà M quản lý sử dụng diện tích 174,4m
2
cất nhà ở ổn định vào
năm 2000 mà không có sự phản đối nào từ bà P. Trong quá trình quản lý, sử dụng, gia
đình có đề nghị bà P làm thủ tục tách thửa đất đ làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất theo đúng hiện trạng. Tuy nhiên, bà P đã làm thủ tục kê khai xin cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất đối với toàn bộ thửa 246, bao gồm cả phần đất của bà M
đang quản lý, sử dụng. Do đó, bà T11, ông T10 yêu cầu Tòa án công nhận cho bà Trần
Thị M được quyền quản lý, sử dụng quyền sử dụng đất diện tích đo đạc thực tế là
174,4m
2
theo Mảnh trích lục địa chính có đo đạc chỉnh lý số 658-2023 ngày 02/11/2023.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Trịnh Hồng Y, ông Trịnh Hồng H4,
ông Nguyễn Văn H3 (con và chồng của bà Trịnh Hồng H1) trình bày:
Bà Y, ông H4 là cháu của bà P và là con của bà H1. Trước năm 1999, bà P bảo
bà H1 về sinh sống trên thửa 246 tờ bản đồ 40 tại phường K. Trong quá trình sinh sống
trên thửa 246, gia đình bà H1 quản lý sử dụng diện tích 152,5m
2
cất nhà ở ổn định vào
năm 2000 mà không có sự phản đối nào từ bà P. Trong quá trình quản lý, sử dụng, gia
đình có đề nghị bà P làm thủ tục tách thửa đất đ làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất theo đúng hiện trạng. Tuy nhiên, bà P đã làm thủ tục kê khai xin cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất đối với toàn bộ thửa 246, bao gồm cả phần đất của bà
H1 đang quản lý, sử dụng. Do đó, bà Y yêu cầu Tòa án công nhận cho bà Trịnh Hồng
H1 được quyền quản lý, sử dụng quyền sử dụng đất diện tích đo đạc thực tế là 152,5m
2
theo Mảnh trích lục địa chính có đo đạc chỉnh lý số 658-2023 ngày 02/11/2023.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Trịnh Hồng T7, ông Nguyễn Thanh S,
ông Trịnh Hồng D1 (con của bà Trần Thị N) trình bày:
Các đương sự là cháu của bà P và là con của bà N. Trước năm 1999, bà P bảo bà
N về sinh sống trên thửa 246 tờ bản đồ 40 tại phường K. Trong quá trình sinh sống trên
thửa 246, gia đình bà N quản lý sử dụng diện tích 113,4m
2
cất nhà ở ổn định mà không
có sự phản đối nào từ bà P. Trong quá trình quản lý, sử dụng, gia đình có đề nghị bà P
làm thủ tục tách thửa đất đ làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo
đúng hiện trạng. Tuy nhiên, bà P đã làm thủ tục kê khai xin cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất đối với toàn bộ thửa 246, bao gồm cả phần đất của bà N đang quản lý, sử
dụng. Do đó, bà L, ông H1 yêu cầu Tòa án công nhận cho bà Trần Thị N được quyền
quản lý, sử dụng quyền sử dụng đất diện tích đo đạc thực tế là 113,4m
2
theo Mảnh trích
lục địa chính có đo đạc chỉnh lý số 658-2023 ngày 02/11/2023.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Dương Ngô Thanh T5, bà Dương Ngô
Thùy T6, ông Dương Văn T4 (con và chồng của bà Ngô Thị Mỹ D) trình bày:
8
Các đương sự là cháu của bà P và là con của bà D. Trước năm 1999, bà P bảo bà
D về sinh sống trên thửa 246 tờ bản đồ 40 tại phường K. Trong quá trình sinh sống trên
thửa 246, gia đình bà D quản lý sử dụng diện tích 102,8m
2
cất nhà ở ổn định mà không
có sự phản đối nào từ bà P. Trong quá trình quản lý, sử dụng, gia đình có đề nghị bà P
làm thủ tục tách thửa đất đ làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo
đúng hiện trạng. Tuy nhiên, bà P đã làm thủ tục kê khai xin cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất đối với toàn bộ thửa 246, bao gồm cả phần đất của bà N đang quản lý, sử
dụng. Do đó, T7 yêu cầu Tòa án công nhận cho bà Ngô Thị Mỹ D được quyền quản lý,
sử dụng quyền sử dụng đất diện tích đo đạc thực tế là 102,8m
2
theo Mảnh trích lục địa
chính có đo đạc chỉnh lý số 658-2023 ngày 02/11/2023.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Ngọc K, bà Nguyễn Thị
Thanh T12, ông Phạm Văn L1 (chồng, con và cháu của bà Nguyễn Thị T) trình bày:
Ông K, bà T12, ông L1 là chồng và con của bà Nguyễn Thị T. Trước năm 1999,
bà P bảo bà T về sinh sống trên thửa 246 tờ bản đồ 40 tại phường K. Trong quá trình
sinh sống trên thửa 246, gia đình bà T quản lý sử dụng diện tích 348,2m
2
cất nhà ở ổn
định mà không có sự phản đối nào từ bà P. Trong quá trình quản lý, sử dụng, gia đình
có đề nghị bà P làm thủ tục tách thửa đất đ làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất theo đúng hiện trạng. Tuy nhiên, bà P đã làm thủ tục kê khai xin cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất đối với toàn bộ thửa 246, bao gồm cả phần đất của bà T đang
quản lý, sử dụng. Do đó, ông K yêu cầu Tòa án công nhận cho bà Nguyễn Thị T được
quyền quản lý, sử dụng quyền sử dụng đất diện tích đo đạc thực tế là 348,2m
2
theo Mảnh
trích lục địa chính có đo đạc chỉnh lý số 658-2023 ngày 02/11/2023.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Huỳnh Thị Quế T9, ông Huỳnh Văn
T8, bà Huỳnh Thị Hương G (con của bà Trần Thị P) thống nhất trình bày:
Nguồn gốc thửa 246 tờ bản đồ 40 tại phường K, thành phố T, tỉnh Bình Dương
do ông bà khai phá, chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Bà Trần Thị P
được tặng cho thửa đất này và bà P được quản lý sử dụng k từ thời đim tặng cho. Sau
đó, bà Trần Thị P thấy ông bà Châu Hồng Đ, C, Châu Ngọc H, Trần Thị N, Nguyễn Thị
T, Ngô Thị Mỹ D, Trịnh Hồng H1, Trần Thị Hồng T1, Trần Thị M (đều là bà con, họ
hàng) không có chổ ở nên bà P có cho các nguyên đơn xây dựng nhà và sinh sống trên
thửa 264 từ năm 2000 đến nay. Việc các nguyên đơn đã quản lý, sử dụng quyền sử dụng
đất ổn định và ngoài phần đất này các nguyên đơn không còn phần đất nào khác nên bà
P đồng ý đ cho các nguyên đơn tiếp tục quản lý, sử dụng các phần đất này và yêu cầu
mỗi nguyên đơn phải trả lại cho bà Trần Thị P số tiền 100.000.000 đồng.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Ủy ban nhân dân phường K trình bày:
Nguồn gốc thửa 246 tờ bản đồ số 40 do ông bà của ông Trần Thanh M1 đ lại
cho ông Trần Thanh M1 quản lý, sử dụng từ sau năm 1975 đ trồng hoa màu, gìn giữ
đất đai. Năm 1998, ông Trần Thanh M1 có đề nghị ghi sổ mục kê nhưng chưa được cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Khoảng năm 1999-2000, ông M1 cho em và các
cháu một phần thửa 246 đ xây dựng nhà ở, ổn định cuộc sống. Các hộ dân xây dựng
nhà ở chưa thực hiện các thủ tục về đất đai là có vi phạm pháp luật về đất đai.
Phần đất nằm trong hành lang an toàn đường bộ thuộc thửa 246 đã bị thu hồi theo
Quyết định số 4041/QĐ-UBND ngày 01/8/2018 của Ủy ban nhân dân thị xã (nay là
thành phố) Tân Uyên. Phần đất nguyên đơn đề nghị công nhận thuộc đường đất là đất
9
công của Ủy ban nhân dân phường K quản lý, do đó, Ủy ban nhân dân phường K không
đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Thửa 246 theo bản đồ địa chính thuộc đất trồng cây hàng năm khác, thuộc quy
hoạch sử dụng đất đến năm 2030 là đất ở đô thị (ODT) và đất đường giao thông (DGT).
Theo Mảnh trích lục địa chính có đo đạc chỉnh lý số 658-2023 ngày 02/11/2023
của Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai thành phố T thì trên thửa 246 có tồn tại đường
bê tông phân chia thửa 246 thành hai phần. Con đường bê tông này không tồn tại trên
bản đồ địa chính do người dân tự mở nên người dân địa phương tự quản lý, Ủy ban nhân
dân phường K không quản lý con đường này.
Người đại diện hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Ủy ban nhân
dân thành phố T là ông Nguyễn Tấn L2 – Trưởng phòng Tài nguyên và Môi trường trình
bày:
Theo quy định tại đim a, khoản 3 Điều 3 của Quyết định số 12/2023/QĐ-UBND
ngày 15/5/2023 của Ủy ban nhân dân tỉnh B quy định điều kiện tách thửa đất, điều kiện
hợp thửa đất và diện tích tối thiu được tách thửa đối với từng loại đất trên địa bàn tỉnh
Bình Dương thì việc người dân xây dựng nhà và sinh sống ổn định trên thửa 246 tờ bản
đồ 40 tại phường K trước năm 1999 đến nay không thuộc trường hợp cá biệt quy định
tại đim a khoản 3 Điều 3 Quyết định số 12/2023/QĐ-UBND ngày 15/5/2023 của Ủy
ban nhân dân tỉnh B. Phần diện tích 123,6m
2
tiếp giáp đường ĐH 406 của thửa 246 trước
đây đã được thu hồi theo Quyết định số 4041/QĐ-UBND ngày 01/8/2018 của Ủy ban
nhân dân thị xã (nay là thành phố) Tân Uyên đ thực hiện dự án nâng cấp mặt đường Đ
tại phường K nên thuộc đường đất là đất công do Ủy ban nhân dân phường K quản lý.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 106/2024/DS-ST ngày 14 tháng 8 năm 2024 của
Tòa án nhân dân thành phố Tân Uyên, tỉnh Bình Dương, đã quyết định:
1. Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn ông Châu
Hồng Đ, bà Châu Ngọc H, bà Châu Ú, bà Trần Thị N, bà Nguyễn Thị T, bà Ngô Thị Mỹ
D, bà Trịnh Hồng H1, bà Trần Thị Hồng T1, bà Trần Thị M về việc tranh chấp quyền
sử dụng đất với bị đơn bà Trần Thị P trên thửa 246, tờ bản đồ số 40 tại phường K, thành
phố T, tỉnh Bình Dương.
2. Đình chỉ một phần yêu cầu phản tố của bà Trần Thị P đối với quyền sử dụng
đất diện tích 1.591,6m
2
thuộc thửa 246, tờ bản đồ 40 tại phường K gồm các phần đất tại
các vị trí số 1, 3, 4, 5, 7, 8, 9, 10, 11 (Theo Mảnh trích lục địa chính có đo đạc chỉnh lý
số 658-2023).
3. Không chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của bà Trần Thị P về việc xác định
bà Trần Thị P là người đang thực tế quản lý, sử dụng các phần đất tại vị trí số 2 với diện
tích 58m
2
và số 6 với diện tích 140,3m
2
(Theo Mảnh trích lục địa chính có đo đạc chỉnh
lý số 658-2023) thuộc thửa 246, tờ bản đồ 40 tại phường K, thành phố T tỉnh Bình
Dương.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về chi phí tố tụng, án phí và quyền kháng cáo
của các đương sự.
Sau khi có bản án sơ thẩm, ngày 26/8/2024, các nguyên đơn ông Châu Hồng Đ,
bà Châu Ngọc H, bà Châu Ú, bà Trần Thị N, bà Nguyễn Thị T, bà Ngô Thị Mỹ D, bà
Trịnh Hồng H1, bà Trần Thị Hồng T1, bà Trần Thị M kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm,
yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản bản án sơ thẩm đ bảo vệ quyền và lợi ích hợp
10
pháp của nguyên đơn; ngày 27/8/2024, bị đơn bà Trần Thị P kháng cáo toàn bộ bản án
sơ thẩm, yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận
yêu cầu phản tố của bị đơn.
Tại phiên tòa phúc thẩm: Các đương sự không thống nhất được với nhau về việc
giải quyết vụ án.
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm
công nhận cho bà Ngô Thị Mỹ D và bà Trần Thị N đứng tên sử dụng chung các phần 4
và phần 5 theo Mảnh trích lục địa chính có đo đạc chỉnh lý số 658-2023; công nhận cho
bà Châu Ú và ông Châu Hồng Đ đứng tên sử dụng chung các phần 9 và phần 10 theo
Mảnh trích lục địa chính có đo đạc chỉnh lý số 658-2023.
Đại diện Viện kim sát nhân dân tỉnh Bình Dương phát biu ý kiến:
Về tố tụng: Những người tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng tại Tòa án cấp
phúc thẩm đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về nội dung: Tòa án cấp sơ thẩm xét xử không chấp nhận yêu cầu của các đương
sự là có căn cứ. Tuy nhiên, trong vụ án này các đương sự yêu cầu công nhận quyền sử
dụng đất thực tế, không tranh chấp về giá trị quyền sử dụng đất nên các đương sự phải
chịu án phí dân sự sơ thẩm không có giá ngạch, bản án sơ thẩm buộc các đương sự án
phí có giá ngạch là không đúng. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận một phần kháng
cáo, sửa bản án sơ thẩm về phần án phí.
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và đã được thẩm
tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, lời trình bày của đương sự,
ý kiến của Kim sát viên,
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Kháng cáo của các nguyên đơn ông Châu Hồng Đ, bà Châu Ngọc H, bà
Châu Ú, bà Trần Thị N, bà Nguyễn Thị T, bà Ngô Thị Mỹ D, bà Trịnh Hồng H1, bà
Trần Thị Hồng T1, bà Trần Thị M và kháng cáo của bị đơn bà Trần Thị P trong thời hạn
luật định nên Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương thụ lý theo quy định của pháp luật.
[1.2]. Người đại diện hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Ủy
ban nhân dân phường K; Ủy ban nhân dân thành phố T; những người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan ông Trần Văn N1, ông Đỗ Minh Q, ông Dương Văn T4, bà Dương Ngô
Thanh T5, bà Dương Ngô Thùy T6, ông Trịnh Hồng D1, bà Trịnh Hồng T7, bà Trịnh
Hồng L, ông Nguyễn Thanh S, ông Nguyễn Văn H3, ông Huỳnh Văn T8, bà Huỳnh Thị
Hương G, bà Huỳnh Thị Quế T9, bà Trịnh Hồng Y, bà Trịnh Hồng H4, ông Nguyễn
Ngọc K, bà Nguyễn Thị Thanh T12, ông Phạm Văn L1, bà Trần Thị T13 có đơn xin
vắng mặt; những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Đỗ Thanh T3, ông Nguyễn
Chí T10, bà Nguyễn Thanh T11, ông Nguyễn Văn H3 đã được triệu tập hợp lệ nhưng
vắng mặt nên căn cứ Điều 296 Bộ luật Tố tụng dân sự Tòa án xét xử vắng mặt họ.
[2] Về nội dung:
[2.1] Quyền sử dụng đất diện tích đo đạc thực tế là 1.789,9m
2
thuộc thửa 246 tờ
bản đồ 40 tọa lạc tại phường K, thành phố T, tỉnh Bình Dương có nguồn gốc là của ông
Trần Văn M2 (sinh năm 1918, chết năm 1976) và bà Lê Thị K1 (sinh năm 1929, chết
năm 2008) khai hoang, sử dụng từ trước năm 1975. Năm 1990, bà K1 và các con của bà
11
K1, ông M2 là bà N, bà T13 và ông M1 thống nhất giao thửa 246 cho bà Trần Thị P
quản lý. Năm 1998, con của bà K1 là ông Trần Thanh M1 kê khai, đăng ký quyền sử
dụng đất thửa 246 tờ bản đồ 40. Khoảng năm 1999-2000, ông M1, bà P và anh chị em,
con cháu của bà K1, ông M2 thỏa thuận với nhau chia đất đ cùng quản lý, sử dụng và
thực tế đang sử dụng như sau: bà Châu Ngọc H được chia 156,7m
2
(Phần 1 tại Mảnh
trích lục địa chính số 658-2023), bà Trần Thị Hồng T1 là con của ông Trần Thanh M1
được chia diện tích 243,4m
2
thuộc thửa 246 (Phần 3 – Mảnh trích lục địa chính có đo
đạc chỉnh lý số 658-2023), bà Ngô Thị Mỹ D được chia diện tích 102,8m
2
(Phần 4 –
Mảnh trích lục địa chính có đo đạc chỉnh lý số 658-2023), bà Trần Thị N được chia phần
đất diện tích 113,4m
2
(Phần 5 tại Mảnh trích lục địa chính số 658-2023), bà Trần Thị M
được chia diện tích 174,4m
2
(Phần 7 – Mảnh trích lục địa chính có đo đạc chỉnh lý số
658-2023), bà Trịnh Hồng H1 được chia diện tích 152,5m
2
(Phần 8 – Mảnh trích lục địa
chính có đo đạc chỉnh lý số 658-2023), bà Châu Ú được chia diện tích 138,5m
2
(Phần 9
tại Mảnh trích lục địa chính số 658-2023), ông Châu Hồng Đ được chia diện tích
161,7m
2
(Phần 10 - Mảnh trích lục địa chính số 658-2023), bà Nguyễn Thị T được chia
diện tích 348,2m
2
(Phần 11 – Mảnh trích lục địa chính có đo đạc chỉnh lý số 658-2023).
Riêng bà Trần Thị P tiếp tục quản lý, sử dụng phần diện tích 58m
2
và 140,3m
2
(Phần 2
và Phần 6 - Mảnh trích lục địa chính có đo đạc chỉnh lý số 658-2023) gắn với nhà bà P
xây dựng từ năm 1990. Từ năm 1999, 2000 những người được chia đất đã xây dựng nhà
ở, công trình nhưng chưa có ai được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Năm 2012,
bà Trần Thị P kê khai xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Năm 2016, bà Trần
Thị P yêu cầu trích đo địa chính đ lập thủ tục xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất đối với toàn bộ thửa đất thì phát sinh tranh chấp nên bà P chưa được cấp giấy chứng
nhận. Như vậy, quyền sử dụng đất diện tích 1.789,9m
2
thuộc thửa 246 tờ bản đồ 40 tọa
lạc tại phường K, thành phố T, tỉnh Bình Dương hiện chưa được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất cho người đang sử dụng đất.
[2.2] Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án công nhận quyền sử dụng đất thực tế
đã xây dựng nhà ở, công trình trình phục vụ đời sống từ năm 1999-2000 theo quy định
tại khoản 3 Điều 138 Luật Đất đai năm 2024; bị đơn yêu cầu phản tố đề nghị Tòa án
công nhận cho bị đơn được toàn quyền sử dụng đất diện tích 1.789,9m
2
thuộc thửa 246
tờ bản đồ 40 là của bị đơn (tại phiên tòa sơ thẩm bị đơn thay đổi yêu cầu phản tố yêu
cầu công nhận diện tích thực tế bị đơn đang sử dụng) nhưng Tòa án cấp sơ thẩm lại nhận
định yêu cầu công nhận quyền sử dụng đất của các đương sự không đủ điều kiện đ tách
thửa, vi phạm đim a, khoản 3 Điều 3 của Quyết định số 12/2023/QĐ-UBND ngày
15/5/2023 của Ủy ban nhân dân tỉnh B nên không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn là giải quyết không đúng yêu cầu của đương sự, không đúng quy định của
pháp luật theo quy định tại Điều 220 Luật Đất đai năm 2024.
Mặt khác, các đương sự yêu cầu công nhận quyền sử dụng đất thực tế, không
tranh chấp về giá trị quyền sử dụng đất nhưng Tòa án cấp sơ thẩm tính án phí có giá
ngạch là không đúng.
[2.3] Theo kết quả trả lời của Ủy ban nhân dân phường K, thành phố T, tỉnh Bình
Dương tại các Công văn số 596/UBND-KT ngày 29/3/2024, Công văn số 116/UBND-
KT ngày 16/01/2025 thì quyền sử dụng đất thửa 246 tờ bản đồ 40 tọa lạc tại phường K
thuộc quy hoạch là đất ở đô thị (ODT) và đất đường giao thông (DGT). Đất được ông
Trần Thanh M1 (là con của bà K1, ông M2) kê khai, đăng ký quyền sử dụng đất; năm
1999-2000, con cháu của bà K1, ông M2 thỏa thuận với nhau chia đất đ xây dựng nhà
ở, ổn định cuộc sống từ đó đến nay nhưng chưa thực hiện các thủ tục về đất đai.
12
[2.4] Theo Mảnh trích lục địa chính có đo đạc chỉnh lý số 658-2023 do Chi nhánh
Văn phòng Đăng ký quyền sử dụng đất thành phố T phát hành ngày 02/11/2023 và biên
bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 20/9/2023 thì quyền sử dụng đất thửa 246 tờ bản đồ
40 có cạnh hướng T giáp đường L (đường Đ), đường có lộ giới 17m. Thực tế sử dụng
đất như sau:
Bà Châu Ngọc H sử dụng diện tích 156,7m
2
(Phần 1 - Mảnh trích lục địa chính
có đo đạc chỉnh lý số 658-2023), trên đất có nhà ở diện tích 47,4m
2
; toàn bộ nhà và đất
thuộc HLATĐB đường L (đường Đ) và chiều dài phần đất giáp đường là 19,33m.
Bà Trần Thị Hồng T1 sử dụng diện tích 243,4m
2
(Phần 3 - Mảnh trích lục địa
chính có đo đạc chỉnh lý số 658-2023), trên đất có nhà ở diện tích 162,7m
2
, trong đó có
142,9m
2
đất thuộc HLATĐB đường L (đường Đ) và chiều dài phần đất giáp đường là
16,11m.
Bà Ngô Thị Mỹ D và bà Trần Thị N sử dụng chung diện tích 216,2m
2
(Phần 4 và
5 - Mảnh trích lục địa chính có đo đạc chỉnh lý số 658-2023), trên đất có nhà ở diện tích
148,6m
2
, trong đó có 92,3m
2
đất thuộc HLATĐB đường L (đường Đ) và chiều dài phần
đất giáp đường là 10,28m.
Bà Trần Thị M sử dụng diện tích 174,4m
2
(Phần 7 - Mảnh trích lục địa chính có
đo đạc chỉnh lý số 658-2023), trên đất có nhà ở diện tích 101,9m
2
, trong đó có 52,2m
2
đất thuộc HLATĐB đường L (đường Đ) và chiều dài phần đất giáp đường là 5,95m.
Bà Trịnh Hồng H1 sử dụng diện tích 152,5m
2
(Phần 7 - Mảnh trích lục địa chính
có đo đạc chỉnh lý số 658-2023), trên đất có nhà ở diện tích 94,4m
2
, trong đó có 47,5m
2
đất thuộc HLATĐB đường L (đường Đ) và chiều dài phần đất giáp đường là 5,24m.
Bà Châu Ú và ông Châu Hồng Đ sử dụng chung diện tích 300,2m
2
(Phần 9 và 10
- Mảnh trích lục địa chính có đo đạc chỉnh lý số 658-2023), trên đất có nhà ở diện tích
90,4m
2
, trong đó có 84,1m
2
đất thuộc HLATĐB đường L (đường Đ) và chiều dài phần
đất giáp đường là 9,24m.
Bà Nguyễn Thị T sử dụng diện tích 348,2m
2
(Phần 11 - Mảnh trích lục địa chính
có đo đạc chỉnh lý số 658-2023), trên đất có nhà ở diện tích 145,4m
2
, trong đó có 84,2m
2
đất thuộc HLATĐB đường L (đường Đ), 170,9m
2
HLBVS và 4,4m
2
HLBVM và chiều
dài phần đất giáp đường là 8,78m.
Bà Trần Thị P sử dụng diện tích 58m
2
(Phần 2 - Mảnh trích lục địa chính có đo
đạc chỉnh lý số 658-2023), toàn bộ 58m
2
đất thuộc HLATĐB đường L (đường Đ) và sử
dụng diện tích 140,3m
2
(Phần 6 - Mảnh trích lục địa chính có đo đạc chỉnh lý số 658-
2023), trên đất có nhà ở diện tích 100,2m
2
, trong đó có 56,8m
2
đất thuộc HLATĐB
đường L (đường Đ) và chiều dài phần đất giáp đường là 6,51m.
[2.5] Xét thấy, theo quy định tại khoản 3 Điều 138 Luật Đất đai năm 2024 quy
định:
“…Hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất từ ngày 15 tháng 10 năm 1993 đến trước
ngày 01 tháng 7 năm 2014, nay được Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất xác nhận không
có tranh chấp thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản
gắn liền với đất như sau:
a) Đối với thửa đất có nhà ở, nhà ở và công trình phục vụ đời sống nếu diện tích
thửa đất bằng hoặc lớn hơn hạn mức giao đất ở quy định tại khoản 2 Điều 195 và khoản
2 Điều 196 của Luật này thì diện tích đất ở được công nhận bằng hạn mức giao đất ở;
13
trường hợp diện tích đất đã xây dựng nhà ở, nhà ở và công trình phục vụ đời sống lớn
hơn hạn mức giao đất ở thì công nhận diện tích đất ở theo diện tích thực tế đã xây dựng
nhà ở, nhà ở và công trình phục vụ đời sống đó;
b) Đối với thửa đất có nhà ở, nhà ở và công trình phục vụ đời sống nếu diện tích
thửa đất nhỏ hơn hạn mức giao đất ở quy định tại khoản 2 Điều 195 và khoản 2 Điều
196 của Luật này thì toàn bộ diện tích thửa đất được công nhận là đất ở;
c) Đối với thửa đất có sử dụng vào mục đích sản xuất, kinh doanh phi nông
nghiệp, thương mại, dịch vụ thì công nhận đất cơ sở sản xuất phi nông nghiệp, đất
thương mại, dịch vụ theo quy định tại đim c khoản 1 Điều này;
d) Đối với phần diện tích đất còn lại sau khi đã được xác định theo quy định tại
đim a và đim c khoản này thì được xác định theo hiện trạng sử dụng đất..”.
Bà Trần Thị Hồng T1, bà Ngô Thị Mỹ D, bà Trần Thị N, bà Trần Thị M, bà Trịnh
Hồng H1, bà Châu Ú, ông Châu Hồng Đ, bà Nguyễn Thị T và bà Trần Thị P đã xây
dựng nhà ở, công trình trình phục vụ đời sống cho riêng từng người tại thửa 246 tờ bản
đồ 40 từ năm 1999-2000. Theo quy hoạch sử dụng đất thì thửa 246 tờ bản đồ 40 tọa lạc
tại phường K, thành phố T, tỉnh Bình Dương là đất ở đô thị nên người sử dụng đất đủ
điều kiện đ được công nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật theo viện
dẫn trên.
Tuy nhiên, đối với trường hợp bà Châu Ngọc H sử dụng diện tích 156,7m
2
(Phần
1 - Mảnh trích lục địa chính có đo đạc chỉnh lý số 658-2023) và bà Trần Thị P diện tích
58m
2
(Phần 2 - Mảnh trích lục địa chính có đo đạc chỉnh lý số 658-2023) toàn bộ hai
phần đất này thuộc HLATĐB đường Lê Quang Đ1 (đường Đ) nên không đủ điều kiện
đ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận yêu cầu kháng
cáo của các nguyên đơn bà Trần Thị Hồng T1, bà Ngô Thị Mỹ D, bà Trần Thị N, bà
Trần Thị M, bà Trịnh Hồng H1, bà Châu Ú, ông Châu Hồng Đ, bà Nguyễn Thị T; chấp
nhận một phần kháng cáo của bị đơn bà Trần Thị P; không chấp nhận kháng cáo của
nguyên đơn bà Châu Ngọc H, sửa một phần bản án dân sự sơ thẩm.
[2.6] Quan đim của đại diện Viện kim sát nhân dân tỉnh Bình Dương về sửa bản
án sơ thẩm về án phí là căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận, phần còn lại là không có
căn cứ nên Hội đồng xét xử không chấp nhận.
[2.7] Về án phí dân sự sơ thẩm: Do đương sự chỉ yêu cầu công nhận quyền sử
dụng đất thực tế, Tòa án không xem xét giá trị, chỉ xem xét quyền sử đất của ai nên các
đương sự phải chịu án phí dân sự sơ thẩm không có giá ngạch theo quy định tại khoản
1 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội khóa XIV quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và
sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị N, bà Nguyễn Thị T, ông Châu Hồng Đ, bà
Châu Ú, bà Ngô Thị Mỹ D, bà Trần Thị Hồng T1, bà Trịnh Hồng H1, bà Trần Thị M
được chấp nhận nên không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.
Bà Châu Ngọc H, bà Trần Thị P phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định
của pháp luật.
[2.8] Về án phí dân sự phúc thẩm:
14
Kháng cáo của bà Trần Thị N, bà Nguyễn Thị T, ông Châu Hồng Đ, bà Châu Ú,
bà Ngô Thị Mỹ D, bà Trần Thị Hồng T1, bà Trịnh Hồng H1, bà Trần Thị M, bà Trần
Thị P được chấp nhận được chấp nhận nên không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm,
trả cho người kháng cáo tạm ứng án phí đã nộp.
Kháng cáo của bà Châu Ngọc H không được chấp nhận nên phải chịu án phí dân
sự phúc thẩm theo quy định, được khấu trừ tạm ứng án phí đã nộp.
[2.9] Các phần khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu
lực pháp luật k từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
- Căn cứ Điều 48; khoản 2 Điều 308; Điều 309; Điều 313 Bộ luật Tố tụng dân
sự.
- Điều 163; Điều 231; Điều 236 của Bộ luật Dân sự năm 2015;
- Điều 4; Điều 10; Điều 26; khoản 3 Điều 138; Điều 220 Luật Đất đai năm 2024;
- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ
Quốc hội Khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án
phí và lệ phí Tòa án.
Chấp nhận phần yêu cầu kháng cáo của các nguyên đơn bà Trần Thị Hồng T1,
bà Ngô Thị Mỹ D, bà Trần Thị N, bà Trần Thị M, bà Trịnh Hồng H1, bà Châu Ú, ông
Châu Hồng Đ, bà Nguyễn Thị T; chấp nhận một phần kháng cáo của bị đơn bà Trần Thị
P; không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn bà Châu Ngọc H.
Sửa một phần Bản án dân sự sơ thẩm số 106/2024/DS-ST ngày 14 tháng 8 năm
2024 của Tòa án nhân dân thành phố Tân Uyên, tỉnh Bình Dương, như sau:
1. Chấp nhận phần yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn bà Trần Thị Hồng T1,
bà Ngô Thị Mỹ D, bà Trần Thị N, bà Trần Thị M, bà Trịnh Hồng H1, bà Châu Ú, ông
Châu Hồng Đ, bà Nguyễn Thị T; chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của bị đơn bà
Trần Thị P về việc “tranh chấp quyền sử dụng đất, yêu cầu công nhận quyền sử dụng
đất”.
1.1 Bà Trần Thị Hồng T1 được quyền quản lý, sử dụng quyền sử dụng đất diện
tích 243,4m
2
(Phần 3 - Mảnh trích lục địa chính có đo đạc chỉnh lý số 658-2023) trong
đó có 142,9m
2
đất thuộc HLATĐB đường L (đường Đ) và tài sản gắn liền với đất là nhà
ở diện tích 162,7m
2
thuộc một phần thửa 246 tờ bản đồ 40 tọa lạc tại phường K, thành
phố T, tỉnh Bình Dương.
1.2 Bà Ngô Thị Mỹ D và bà Trần Thị N được quyền quản lý, sử dụng quyền sử
dụng đất chung diện tích 216,2m
2
(Phần 4 và 5 - Mảnh trích lục địa chính có đo đạc
chỉnh lý số 658-2023), trong đó có 92,3m
2
đất thuộc HLATĐB đường L (đường Đ) và
tài sản gắn liền với đất là nhà ở diện tích 148,6m
2
thuộc một phần thửa 246 tờ bản đồ 40
tọa lạc tại phường K, thành phố T, tỉnh Bình Dương.
1.3 Bà Trần Thị M được quyền quản lý, sử dụng quyền sử dụng đất diện tích
174,4m
2
(Phần 7 - Mảnh trích lục địa chính có đo đạc chỉnh lý số 658-2023), trong đó
có 52,2m
2
đất thuộc HLATĐB đường L (đường Đ) và tài sản gắn liền với đất là nhà ở
15
diện tích 101,9m
2
thuộc một phần thửa 246 tờ bản đồ 40 tọa lạc tại phường K, thành phố
T, tỉnh Bình Dương.
1.4 Bà Trịnh Hồng H1 được quyền quản lý, sử dụng quyền sử dụng đất diện tích
152,5m
2
(Phần 7 - Mảnh trích lục địa chính có đo đạc chỉnh lý số 658-2023), trong đó
có 47,5m
2
đất thuộc HLATĐB đường L (đường Đ) và tài sản gắn liền với đất là nhà ở
diện tích 94,4m
2
thuộc một phần thửa 246 tờ bản đồ 40 tọa lạc tại phường K, thành phố
T, tỉnh Bình Dương.
1.5 Bà Châu Ú và ông Châu Hồng Đ được quyền quản lý, sử dụng quyền sử dụng
đất chung diện tích 300,2m
2
(Phần 9 và 10 - Mảnh trích lục địa chính có đo đạc chỉnh
lý số 658-2023), trong đó có 84,1m
2
đất thuộc HLATĐB đường L (đường Đ) và tài sản
gắn liền với đất là nhà ở diện tích 90,4m
2
, thuộc một phần thửa 246 tờ bản đồ 40 tọa lạc
tại phường K, thành phố T, tỉnh Bình Dương.
1.6 Bà Nguyễn Thị T được quyền quản lý, sử dụng quyền sử dụng đất diện tích
348,2m
2
(Phần 11 - Mảnh trích lục địa chính có đo đạc chỉnh lý số 658-2023), trong đó
có 84,2m
2
đất thuộc HLATĐB đường L (đường Đ), 170,9m
2
HLBVS và 4,4m
2
HLBVM
và tài sản gắn liền với đất là nhà ở diện tích 145,4m
2
thuộc một phần thửa 246 tờ bản đồ
40 tọa lạc tại phường K, thành phố T, tỉnh Bình Dương.
1.7 Bà Trần Thị P được quyền quản lý, sử dụng quyền sử dụng đất diện tích
140,3m
2
(Phần 6 - Mảnh trích lục địa chính có đo đạc chỉnh lý số 658-2023), trong đó
có 56,8m
2
đất thuộc HLATĐB đường L (đường Đ) và tài sản gắn liền với đất là nhà ở
diện tích 100,2m
2
thuộc một phần thửa 246 tờ bản đồ 40 tọa lạc tại phường K, thành phố
T, tỉnh Bình Dương.
2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Châu Ngọc H về việc công nhận
cho bà H được sử dụng quyền sử dụng đất diện tích 156,7m
2
(Phần 1 - Mảnh trích lục
địa chính có đo đạc chỉnh lý số 658-2023) thuộc một phần thửa 246 tờ bản đồ 40 tọa lạc
tại phường K, thành phố T, tỉnh Bình Dương.
3. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn bà Trần Thị P về việc công nhận
cho bà P được sử dụng quyền sử dụng đất diện tích 58m
2
(Phần 2 - Mảnh trích lục địa
chính có đo đạc chỉnh lý số 658-2023) thuộc một phần thửa 246 tờ bản đồ 40 tọa lạc tại
phường K, thành phố T, tỉnh Bình Dương.
Các đương sự có quyền liên hệ cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đ thực hiện
quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất theo quy định của pháp luật.
(kèm theo Mảnh trích lục địa chính có đo đạc chỉnh lý số 658-2023)
4. Về án phí dân sự sơ thẩm:
- Bà Trần Thị N và Nguyễn Thị T, ông Châu Hồng Đ, bà Châu Ú, bà Ngô Thị
Mỹ D, bà Trần Thị Hồng T1, bà Trịnh Hồng H1, bà Trần Thị M không phải chịu án phí
dân sự sơ thẩm.
- Trả lại cho ông Châu Hồng Đ số tiền 8.025.000 (tám triệu không trăm hai mươi
lăm nghìn) tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số
AA/2021/0007615 ngày 04/5/2023 của Chi Cục Thi hành án dân sự thành phố Tân
Uyên, tỉnh Bình Dương.
- Trả lại cho bà Châu Ú số tiền 8.875.000 (Tám triệu, tám trăm bảy mươi lăm nghìn)
đồng tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số
16
AA/2021/0007620 ngày 04/5/2023 của Chi Cục Thi hành án dân sự thành phố Tân
Uyên, tỉnh Bình Dương.
- Trả lại cho bà Ngô Thị Mỹ D số tiền 6.500.000 (sáu triệu năm trăm nghìn) đồng
tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số
AA/2021/0007616 ngày 04/5/2023 của Chi Cục Thi hành án dân sự thành phố Tân
Uyên, tỉnh Bình Dương.
- Trả lại cho bà Trần Thị Hồng T1 số tiền 14.960.000 (mười bốn triệu chín trăm sáu
mươi nghìn) đồng tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa
án số AA/2021/0007619 ngày 04/5/2023 của Chi Cục Thi hành án dân sự thành phố Tân
Uyên, tỉnh Bình Dương.
- Trả lại cho bà Trịnh Hồng H1 số tiền 10.400.000 (mười triệu, bốn trăm nghìn) đồng
tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số
AA/2021/0007621 ngày của Chi Cục Thi hành án dân sự thành phố Tân Uyên, tỉnh Bình
Dương.
- Trả lại cho bà Trần Thị M số tiền 10.080.000 (mười triệu, không trăm tám mươi nghìn)
đồng tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số
AA/2021/0007618 ngày 04/5/2023 của Chi Cục Thi hành án dân sự thành phố Tân
Uyên, tỉnh Bình Dương.
- Bà Trần Thị P phải chịu 300.000 (ba trăm nghìn) án phí dân sự sơ thẩm, được khấu trừ
vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 (ba trăm nghìn) đồng đã nộp theo Biên lai thu tạm
ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0001583 ngày 05/6/2024 của Chi Cục Thi hành án dân sự
thành phố Tân Uyên, tỉnh Bình Dương.
- Bà Châu Ngọc H phải chịu 300.000 (ba trăm nghìn) án phí dân sự sơ thẩm, được khấu
trừ vào số tiền 10.400.000 (mười triệu, bốn trăm nghìn) đồng tạm ứng án phí đã nộp
theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2021/0007617 ngày 04/5/2023
của Chi Cục Thi hành án dân sự thành phố Tân Uyên, tỉnh Bình Dương. Trả lại cho bà
H 10.100.000 (mười triệu một trăm nghìn) đồng.
5. Về án phí dân sự phúc thẩm:
Bà Trần Thị N, bà Nguyễn Thị T, ông Châu Hồng Đ, bà Châu Ú, bà Ngô Thị
Mỹ D, bà Trần Thị Hồng T1, bà Trịnh Hồng H1, bà Trần Thị M, bà Trần Thị P không
phải chịu án phí dân sự phúc thẩm
- Trả lại cho ông Châu Hồng Đ số tiền 300.000 (ba trăm nghìn) đồng tạm ứng án
phí đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0000472 ngày 06 tháng 9
năm 2024 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Tân Uyên, tỉnh Bình Dương.
- Trả lại cho bà Châu Ú số tiền 300.000 (ba trăm nghìn) đồng tạm ứng án phí đã
nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0000474 ngày 06 tháng 9 năm
2024 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Tân Uyên, tỉnh Bình Dương.
- Trả lại cho bà Ngô Thị Mỹ D số tiền 300.000 (ba trăm nghìn) đồng tạm ứng án
phí đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0000475 ngày 06 tháng 9
năm 2024 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Tân Uyên, tỉnh Bình Dương.
- Trả lại cho bà Trần Thị Hồng T1 số tiền 300.000 (ba trăm nghìn) đồng tạm ứng
án phí đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0000477 ngày 06 tháng
9 năm 2024 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Tân Uyên, tỉnh Bình Dương.
17
- Trả lại cho bà Trịnh Hồng H1 số tiền 300.000 (ba trăm nghìn) đồng tạm ứng án
phí đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0000476 ngày 06 tháng 9
năm 2024 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Tân Uyên, tỉnh Bình Dương.
- Trả lại cho bà Trần Thị M số tiền 300.000 (ba trăm nghìn) đồng tạm ứng án phí
đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0000478 ngày 06 tháng 9 năm
2024của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Tân Uyên, tỉnh Bình Dương.
- Trả lại cho bà Trần Thị P số tiền 300.000 (ba trăm nghìn) đồng tạm ứng án phí
đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0004267 ngày 18 tháng 9 năm
2024 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Tân Uyên, tỉnh Bình Dương.
- Bà Châu Ngọc H phải chịu 300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí dân sự phúc
thẩm, được khấu trừ vào số tiền 300.000 (ba trăm nghìn) đồng tạm ứng án phí đã nộp
theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0000473 ngày 06 tháng 9 năm 2024
của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Tân Uyên, tỉnh Bình Dương.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án
dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả
thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế
thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu
thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.
Các phần khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực
pháp luật k từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án dân sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật k từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Bình Dương;
- Chi cục THADS thành phố Tân Uyên;
- TAND thành phố Tân Uyên;
- Các đương sự;
- Tổ Hành chính - Tư pháp;
- Lưu: Hồ sơ, Tòa Dân sự.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Lê Sỹ Trứ
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 06/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 29/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 28/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 25/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 24/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 23/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 23/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 22/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 18/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 18/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 17/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 15/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 15/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 15/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Bản án số 02/2025/QĐST-DS ngày 14/04/2025 của TAND huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam về tranh chấp đất đai
Ban hành: 14/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 14/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 11/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 09/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 08/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm