Bản án số 283/2024/DS-PT ngày 20/11/2024 của TAND tỉnh Vĩnh Long về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 283/2024/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 283/2024/DS-PT ngày 20/11/2024 của TAND tỉnh Vĩnh Long về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Vĩnh Long
Số hiệu: 283/2024/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 20/11/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Ông Đ và bà D làm quen và nói chuyện với nhau từ đầu năm 2023. Sau đó thì bà D có hỏi vay của ông Đ số tiền 2.000.000.000 đồng, ông Đ nói không có 2.000.000.000 đồng nên bà D hạ xuống 1.000.000.000 đồng. Ông Đ nói không có 1.000.000.000 đồng mà chỉ có 700.000.000 đồng. Ngày 23/6/2023, ông Đ đi đến Ngân hàng N1 - Chi nhánh huyện V chuyển số tiền 700.000.000 đồng cho bà D với nội dung “Bùi Quan Đ chuyển tiền”. Ngày 11/8/2023, ông Đ chuyển cho bà D số tiền là 60.000.000 đồng để bà D làm răng, mua nhẫn và một số đồ linh tinh, gọi là tiền đính hôn. Sau khi chuyển tiền cho bà D thì ông Đ không liên lạc được với bà D, điện thoại bà D không nghe, nhắn tin thì lâu lâu mới thấy trả lời. Do hai bên không thể tiến tới hôn nhân nên ông Đ yêu cầu bà D trả lại số tiền 700.000.000 đồng vì bà D nói đây là tiền cọc cưới, nếu huỷ hôn thì bà D sẽ trả lại cho ông Đ. Nay ông Đ khởi kiện tại Toà án yêu cầu buộc bà D trả lại cho ông Đ số tiền vay là 700.000.000 đồng, đối với số tiền 60.000.000 đồng thì ông Đ rút lại yêu cầu không yêu cầu bà D trả. Sửa một phần Bản án sơ thẩm.
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỈNH VĨNH LONG Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Bản án số: 263/2024/DS-PT
Ngày: 20 - 11 - 2024
V/v tranh chấp hợp đồng vay tài sản.
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH VĨNH LONG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm :
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Bà Sơn Nữ Phà Ca
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Thành Đăng
Ông Nguyễn Văn Dũng
- Tphiên tòa: Cao Ngọc Quí Thư của Tòa án nhân dân tỉnh
Vĩnh Long.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Long: Trần Ngọc Bích -
Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.
Ngày 20 tháng 11 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long xét
xử phúc thẩm công khai vụ án thụ số: 287/2024/TLPT-DS ngày 15 tháng 10
năm 2024 về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”.
Do bản án dân sthẩm số: 123/2024/DS-ST ngày 29 tháng 8 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh Vĩnh Long bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa ván ra xét xử phúc thẩm số: 330/2024/QĐ-PT ngày
28 tháng 10 năm 2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Bùi Quan Đ, sinh năm 1955; Cư trú tại: Số B đường T,
khu phố D, phường T, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn ông Bùi Quan Đ:
1. Ông Đặng Văn T; trú tại: Số A đường L, phường B, quận B, Thành
phố Hồ Chí Minh; Địa chỉ liên hệ: Số D đường E (KDC V), phường A, thành phố
T, Thành phố Hồ Chí Minh.
2
2. Bà Nguyễn Thị Lệ T1; Cư trú tại: Ô, khu phố D, phường A, thành phố T,
tỉnh Bình Dương.
(Văn bản uỷ quyền ngày 26/12/2023).
- Bị đơn: Nguyễn Thị D; Địa chỉ: Số A, khu phố C, ấp H, thị trấn Đ,
tỉnh Đồng Nai; Chỗ ở hiện nay: ấp Q, xã H, huyện V, tỉnh Vĩnh Long.
Người đại diện theo uỷ quyền của bị đơn Nguyễn Thị D: Dương
Thùy T2; Địa chỉ: Số E, đường M, phường C, thành phố V, tỉnh Vĩnh Long. (Văn
bản uỷ quyền ngày 06/11/2024).
Người kháng cáo: Nguyên đơn ông Bùi Quan Đ.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Tại đơn khởi kiện ngày 26/12/2023, trong quá trình giải quyết vụ án, người
đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông Bùi Quan Đ là ông Đặng Văn T và bà
Nguyễn Thị Lệ T1 trình bày:
Ông Đ D làm quen nói chuyện với nhau từ đầu năm 2023. Sau đó
thì D hỏi vay của ông Đ số tiền 2.000.000.000 đồng, ông Đ nói không
2.000.000.000 đồng nên D hạ xuống 1.000.000.000 đồng. Ông Đ nói không có
1.000.000.000 đồng chỉ 700.000.000 đồng. Ngày 23/6/2023, ông Đ đi đến
Ngân hàng N1 - Chi nhánh huyện V chuyển số tiền 700.000.000 đồng cho D
với nội dung “Bùi Quan Đ chuyển tiền”.
Ngày 11/8/2023, ông Đ chuyển cho D số tiền 60.000.000 đồng để
D làm răng, mua nhẫn và một số đồ linh tinh, gọi là tiền đính hôn. Sau khi chuyển
tiền cho D thì ông Đ không liên lạc được với D, điện thoại D không
nghe, nhắn tin thì lâu lâu mới thấy trả lời. Do hai bên không thể tiến tới hôn nhân
nên ông Đ yêu cầu D trả lại số tiền 700.000.000 đồng D nói đây tiền
cọc cưới, nếu huỷ hôn thì D sẽ trả lại cho ông Đ.
Nay ông Đ khởi kiện tại Toà án yêu cầu buộc bà D trả lại cho ông Đ số tiền
vay là 700.000.000 đồng, đối với số tiền 60.000.000 đồng thì ông Đ rút lại yêu
cầu không yêu cầu bà D trả.
Tại Bản khai ý kiến ngày 20/3/2024, B khai bổ sung ngày 02/11/2024
trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn bà Nguyễn Thị D trình bày:
3
D quen biết với ông Đ thông qua chương trình“Kết nối yêu thương T”
vào khoảng tháng 02/2023, tự ông Đ xin số điện thoại của bà từ chương trình“Kết
nối yêu thương T, sau đó ông Đ liên hệ với bà, muốn làm quen tìm hiểu
đồng ý. D ông Đ kết nối zalo với nhau, zalo của Dung Ncòn zalo
của ông Đ “Danny Bùi” khi đó ông Đ nói ông đang Mỹ. Trong quá trình hai
bên tìm hiểu nhau thì ông Đ hỏi D cần điều kiện gì để tiến tới hôn nhân, D
nói nếu 2.000.000.000 đồng thì sẽ chăm sóc ông Đ đến cuối đời. Ông Đ
đồng ý.
Cuối tháng 02/2023, ông Đ về Việt Nam nói muốn xuống nhà D cho
biết và tìm hiểu thì bà D đồng ý. Khi đó ông Đ nói là ông Đ đã ly thân vợ 10 năm,
đến tháng 7/2023 sẽ chính thức ly hôn. Khoảng thời gian hai bên tìm hiểu nhau từ
tháng 02/2023 đến 12/2023, ông Đ xuống nhà D tại H, huyện V 03 (ba)
lần. Lần đầu vào tháng 3/2023, ông Đ xuống nhà khoảng 01 tuần thì về lại
Thành phố Hồ Chí Minh. Khoảng nữa tháng sau, ông Đ lại xuống nhà bà ở lại xin
được đính hôn với bà và đồng thời tặng cho bà một chiếc nhẫn. Đến khoảng tháng
6/2023, ông Đ tiếp tục xuống nhà D lần thứ 3 lại, ông Đ nói đang làm hồ
ly hôn với vợ và cần số tiền lớn để đóng tiền án phí nên chỉ còn
700.000.000 đồng. Ngày 23/6/2024, ông Đ chuyển cho D số tiền 700.000.000
đồng thông qua Ngân hàng N1 Chi nhánh huyện V, ông Đ nói số tiền
700.000.000 đồng là tiền đính hôn với D cho bà toàn quyền sdụng. Số
tiền còn lại khi nào kết hôn với bà D thì ông Đ sẽ chuyển đủ.
Bà D đã sử dụng hết số tiền 700.000.000 đồng để mua quần áo, sắm sửa đồ
dùng cá nhân cho ông Đ khi ông sinh hoạt tại nhà bà, đồng thời mua các vật dụng
phục vụ công việc kinh doanh nhà trọ Đại Lợi của D gồm: máy nước nóng,
máy phát điện, máy may, 01 xe Honda, 01 bình nước, và chi tiêu cho các
khoản tiệc tùng với bạn bè, du lịch của cả hai.
Đến tháng 12/2023, khi biết ông Đ chưa ly hôn với vợ nên D không
đồng ý cho ông Đ xuống nhà nữa. Do hai bên không thể tiến tới hôn nhân ông Đ
yêu cầu D trả số tiền 700.000.000 đồng. không đồng ý trả cho ông Đ số
tiền đó ông Đ đã cho toàn quyền sử dụng số tiền đã sử dụng hết số
tiền trên.
Nay ông Đ khởi kiện yêu cầu D phải trả lại cho ông Đ số tiền vay
700.000.000 đồng thì bà không đồng ý vì không có vay tiền của ông Đ, số tiền
700.000.0000 đồng tiền ông Đ cho D nên không đồng ý trả. Đối với số
4
tiền 60.000.000 đồng ông Đ rút lại yêu cầu khởi kiện thì bà D đồng ý.
Tại cấp sơ thẩm, người làm chứng bà Nguyễn Thị K trình bày:
Bà không có họ hàng gì với bà D và ông Đ. Bà là người làm thuê cho bà D,
công việc của dọn dẹp nhà trọ, làm việc theo giờ. nghe nói ông Đ
chồng của D, chưa từng gặp ông Đ. Đến ngày 03/3/2024, qua nhà D
thì thấy em ông Đ xuống nhà của D lấy 01 máy nước nóng, 01 máy phát
điện, 01 máy may, 01 xe Honda lấy bằng tiền 1.800.000 đồng, 01 bình nước
01 bao quần áo của ông Đ.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số: 123/2024/DS-ST ngày 29 tháng 8 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh Vĩnh Long đã quyết định:
Căn cứ vào Điều 26; khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 244 của
Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 463 của Bộ luật dân sự; điểm d khoản 1 diều 12
Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 Quy định v mức thu,
miễn, giảm, thu, nộp, quản sử dụng án phí lphí Tòa án của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội.
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Bùi Quan Đ do ông Đặng
Văn T và bà Nguyễn Thị Lệ T1 đại diện theo ủy quyền.
2. Đình chỉ đối với yêu cầu của ông Bùi Quan Đ yêu cầu Nguyễn Thị D
trả số tiền vay 60.000.000 đồng (Sáu mươi triệu đồng).
Ngoài ra, bản án còn tuyên ván phí thẩm; nghĩa vụ thi hành án
quyền kháng cáo của đương sự theo luật định.
Ngày 04 tháng 9 năm 2024, nguyên đơn ông Bùi Quan Đ có đơn kháng cáo
với nội dung: Yêu cầu Toà án cấp phúc thẩm xem xét lại toàn bộ bản án dân sự sơ
thẩm số: 123/2024/DS-ST ngày 29/8/2024 của Toà án nhân dân huyện V, tỉnh
Vĩnh Long để đảm bảo quyền lợi ích hợp pháp cho ông Bùi Quan Đ theo quy
định của pháp luật.
Tại phiên tòa phúc thẩm: Người đại diện hợp pháp của ông Đ ông Đặng
Văn T Nguyễn Thị Lệ T1 đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ nhất
nhưng ông T, bà T1 vắng mặt. Ông Bùi Quan Đ mặt đồng ý xét xử vắng
mặt ông T, T1. Ông Đ thay đổi một phần yêu cầu khởi kiện, yêu cầu kháng
cáo. Ông Đ yêu cầu bà D trả lại cho ông số tiền 150.000.000 đồng và cho rằng số
5
tiền 700.000.000 đồng ông chuyển khoản cho bà D ngày 23/6/2023 tại Ngân hàng
N1 - Chi nhánh huyện V là tiền bà D vay của ông Đ.
D và người đại diện hợp pháp của D cho rằng số tiền 700.000.000
đồng ông Đ đã chuyển khoản cho D ngày 23/6/2023 tại Ngân hàng N1 - Chi
nhánh huyện V tiền ông Đ tặng cho D đcọc cưới, D và ông Đ đã sử
dụng chung hết số tiền trên trong khoảng thời gian hai người sống chung như vợ
chồng. Nay D đồng ý trả lại cho ông Đ số tiền 50.000.000 đồng.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Long phát biểu ý kiến:
Về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử người
tham gia tố tụng: Tất cả đều tuân thủ đúng quy định của pháp luật từ khi thụ lý vụ
án đến khi xét xử phúc thẩm.
Về việc giải quyết vụ án: Căn cứ khoản 2 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân
sự; Sửa một phần bản án sơ thẩm; Ghi nhận sự t nguyện của bà D trả cho ông Đ
số tiền 50.000.000 đồng.
Bà D phải chịu án phí dân sự sơ thẩm 2.500.000 đồng và ông Đ không phải
chịu án phí dân sự phúc thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về thủ tục tố tụng: Người đại diện hợp pháp của ông Đ ông Đặng
Văn T Nguyễn Thị Lệ T1 đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ nhất
nhưng vắng mặt không do. Tại phiên tòa, ông Đ mặt và đồng ý xét xử vắng
mặt ông T, T1. Căn cứ Điều 296 của Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt
ông T, bà T1.
[2] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Bùi Quan Đ yêu cầu Toà án
buộc bị đơn bà Nguyễn Thị D phải trả cho ông số tiền vay 700.000.000 đồng. Hai
bên đương sự đều thống nhất việc D nhận từ ông Đ số tiền 700.000.000
đồng theo chứng từ giao dịch ngày 23/6/2023 tại Ngân hàng N1 Chi nhánh
huyện V (BL05), đây là tình tiết không phải chứng minh theo Điều 92 Bộ luật tố
tụng dân sự 2015. Ông Đ cho rằng do hai bên quen biết nhau, D hỏi vay của
ông số tiền 700.000.000 đồng, mục đích để bà D trả nợ cho người khác. Còn bà D
thì cho rằng với ông Đ quen biết nhau qua chương trình “Kết nối yêu thương
6
của T, khi hai bên bắt đầu quen nhau D đã yêu cầu ông Đ phải đưa tiền cọc
cưới cho 2.000.000.000 đồng để đảm bảo cho cuộc sống chung hai người
nhưng ông Đ không đủ tiền nên chỉ chuyển cho 700.000.000 đồng. D
không thừa nhận vay tiền của ông Đ nên không đồng ý trả theo yêu cầu của ông
Đ.
Căn cứ Điều 463 Bộ luật dân sự 2015 quy định: “Hợp đồng vay tài sản
sự thoả thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay…”, ông
Đ khởi kiện cho rằng số tiền ông chuyển khoản cho D 700.000.000 đồng ngày
23/6/2023 tại Ngân hàng N1 Chi nhánh huyện V tiền vay nhưng D không
thừa nhận. Ngoài lời trình bày ông Đ không cung cấp được tài liệu chứng cứ
chứng minh giữa ông Đ với bà D thỏa thuận vay số tiền trên. Do đó, không có căn
cứ xác định bà D vay của ông Đ số tiền 700.000.000 đồng trên.
[3] Xét lời trình bày của bà D rằng bà và ông Đ giữ mối quan hệ tìm hiểu từ
tháng 02/2023 đến tháng 12/2023 thì ông Đ đến nhà trọ Đại Lợi 2 của D
thuộc ấp Q, H, huyện V sinh sống như vợ chồng với trong khoảng thời
gian khoảng 6 tháng. Số tiền 700.000.000 đồng D nhận từ ông Đ tiền hai
bên thỏa thuận đặt cọc điều kiện để đảm bảo hai bên tiến đến hôn nhân. D
cung cấp nội dung tin nhắn giữa D với ông Đ. Tại các hình chụp tin nhắn qua
Zalo được lập thành Vi bằng ngày 09/7/2024 bà D cung cấp cho Toà án từ bút lục
74 đến 80 và các Biên bản hoà giải tại cấp sơ thẩm ngày 03/4/2024, ngày
05/6/2024 thì người đại diện theo ủy quyền của ông Đ thừa nhận ông Bùi Quan Đ
là chính chủ sử dụng tài khoản Zalo “Danny B1” để liên lạc nói chuyện với D.
Tại phiên tòa phúc thẩm, ông Đ thừa nhận tài khoản Zalo Danny Bùi
của ông Đ dùng để nhắn tin trao đối với D tên tài khoản Dung N ông Đ
cung cấp Vi bằng lập ngày 07/11/2024 về việc nội dung nhắn tin giữa bà D với
ông Đ thông qua tài khoản Zalo trên. Theo nội dung Vi bằng do ông Đ cung cấp
thể hiện: D nhắn: “Ko hứa hẹn với a nữa”; ông Đ nhắn: “Tháng bảy mói chi
tiền 1 tỷ”; D nhắn: “Vì ko niềm tin”; ông Đ nhắn: “Anh chỉ 1 tỷ thôi”;
D nhắn: “Có 1 tchồng 1”; ông Đ nhắn: “Tháng bảy chồng 1 tỷ rồi cưới, 1
tỷ còn lại chồng sau khi cưới”; D nhắn “Gửi vào tài khoản này ….S nguyễn
thị D (tiền đặc cọc cưới) nếu huy hôn thì trả lại số tiền 1 tỷ ghi như thế trước
khi gửi” bà D nhắn: “Lúc nào e cũng nói một lời 2 ty, A trả giá riết còn
700”; ông Đ nhắn: “700 triệu tiền cọc đủ rồi em tha cho anh đi, giờ anh đau
tiền chỉ lo đủ tiền bông tai và nhẫn cưới thôi”. Ông Đ thừa nhận nội dung trên do
ông Đ nhắn cho D nhưng do D nói nếu hủy hôn thì trả tiền 1 tỷ lại. Còn
7
D thì cho rằng không hủy hôn ông Đ việc không thể đến được với ông
Đ khi quen D ông Đ hứa sẽ lập thủ tục ly hôn với vợ, nhưng hiện tại ông
Đ chưa ly hôn nên không lỗi với ông Đ. Tại phiên tòa, ông Đ thừa nhận
hiện nay ông chưa lập thủ tục ly hôn với vợ ông.
Xét nội dung tại các đoạn tin nhắn của bà D với ông Đ thể hiện như sau: Bà
D nhắn bút lục 77a: “Em nói tiền cọc cưới của anh nghĩa nếu em nhận
tiền của anh em huỷ hôn không bằng lòng đi đến hôn nhân với anh thì em sẽ
trả lại cho anh để anh tìm hôn nhân mới còn anh tự nguyện huỷ trước đó anh
sai chứ không phải em” ông Đ nhắn: “Còn stiền đính hôn cứ kể như anh
tặng cho em tùy nghi sử dụng (BL75a).
Ngoài ra, tại Đơn xin xác nhận ngày 06/11/2024 của bà D gửi cho Công an
H, huyện V đã xác nhận: “Đương sự Bùi Quan Đ sinh năm 1955 trong thời
gian tháng 3/2023 đến tháng 12/2023 nhiều ngày ông Đ đến tại nhà T ấp Q,
Htại Biên bản kiểm tra an toàn về phòng cháy chữa cháy của Công an
xã H ngày 20/6/2023 đối với nhà nghỉ Đ1 thuộc ấp Q, xã H, huyện V do bà D làm
chủ cơ sở thể hiện ông Bùi Quan Đ ký tên đại diện chủ cơ sở trong biên bản kiểm
tra.
Như vậy, căn cứ xác định số tiền ông Đ chuyển khoản cho bà D
700.000.000 đồng ngày 23/6/2023 tại Ngân hàng N1 Chi nhánh huyện V không
phải tiền vay khoản tiền hai bên thỏa thuận điều kiện để tiến đến hôn nhân
(cọc cưới) và trong khoảng thời gian từ tháng 3/2023 đến tháng 12/2023 ông Đ có
đến sinh sống cùng bà D tại nhà T do bà D làm chủ thuộc ấp Q, xã H, huyện V.
Mặt khác, D cho rằng số tiền ông Đ cho bà 700.000.000 đồng ngày
23/6/2023 đã sử dụng hết số tiền trên nhằm phục vcho sinh hoạt chung của
bà D, ông Đ như: Mua quần áo; sắm sửa đồ dùng cá nhân cho ông Đ khi ông sinh
hoạt tại nhà từ tháng 6/2023 đến tháng 12/2023; mua các vật phẩm phục vụ
cho việc kinh doanh nhà trọ Đại Lợi gồm: máy nước nóng, máy phát điện, máy
may, 01 xe Honda, 01 bình nước (tài sản trên khi ông Đ không còn sống chung đã
cho người đến lấy lại hết)… chi tiêu các khoản tiệc tùng, du lịch của ông Đ
D nên bà D không còn tiền để trả lại cho ông Đ.
Do đó, ông Đ khởi kiện yêu cầu D trả lại số tiền vay 700.000.000 đồng
là không có căn cứ. Án sơ thẩm bác yêu cầu khởi kiện ông Đ là có căn cứ.
Tuy nhiên, Tại phiên tòa ông Đ thay đổi một phần yêu cầu khởi kiện, yêu
cầu kháng cáo. Ông Đ chỉ yêu cầu D trả lại cho ông số tiền vay 150.000.000
8
đồng nhưng D chỉ đồng ý trả cho ông Đ số tiền 50.000.000 đồng. Xét sự tự
nguyện của bà D phợp pháp luật nên được công nhận. vậy, chấp nhận
một phần kháng cáo của ông Đ, sửa một phần bản án thẩm. Buộc bà D trả cho
ông Đ số tiền 50.000.000 đồng.
[4] Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà D phải chịu án phí trên số tiền 50.000.000
đồng x 5% = 2.500.000 đồng và ông Đ không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.
[5] Các quyết định khác của Bản án thẩm tuyên về đình chỉ đối với yêu
cầu của ông Bùi Quan Đ yêu cầu Nguyễn Thị D trả số tiền vay 60.000.000
đồng, án phí sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ
ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ Điều 300, Khoản 2 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm d khoản
1 Điều 12, Điều 26, Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí
và lệ phí Tòa án của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Ghi nhận sự tự nguyện của bị đơn bà Nguyễn Thị D.
Chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của ông Bùi Quan Đ. Sửa một
phần Bản án dân sự thẩm số: 123/2024/DS-ST ngày 29/8/2024 của Tòa án
nhân dân huyện V, tỉnh Vĩnh Long.
Áp dụng Điều 463 của Bộ luật dân sự.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Bùi Quan Đ do ông
Đặng Văn T và bà Nguyễn Thị Lệ T1 đại diện theo ủy quyền.
2. Buộc Nguyễn Thị D trả cho ông Bùi Quan Đ số tiền 50.000.000 đồng
(Năm mươi triệu đồng).
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật cho đến khi thi hành án xong, bên
phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo
mức lãi suất quy định tại khỏan 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015.
9
3. Ván phí dân sự: Nguyễn Thị D phải chịu án phí dân sự thẩm số
tiền 2.500.000 đồng (Hai triệu năm trăm ngàn đồng).
Ông Bùi Quan Đ không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.
4. Các quyết định khác của Bản án thẩm tuyên về vđình chỉ đối với
yêu cầu của ông Bùi Quan Đ yêu cầu bà Nguyễn Thị D trả số tiền vay 60.000.000
đồng; án phí sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ
ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2
Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án
dân sự quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi
hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b 9
Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại
Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- CA: 01;
- TACC: 01;
- VKSND TVL: 01;
- TAND huyện V: 01;
- Chi Cục THADS huyện V: 01;
- Đương sự: 02;
- Phòng HCTP: 01;
- Phòng KTNV&THA 01;
- Lưu: 04.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(đã ký)
Sơn Nữ Phà Ca
Tải về
Bản án số 283/2024/DS-PT Bản án số 283/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 283/2024/DS-PT Bản án số 283/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất