Bản án số 279/2024/DS-PT ngày 06/12/2024 của TAND tỉnh Vĩnh Long về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 279/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 279/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 279/2024/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 279/2024/DS-PT ngày 06/12/2024 của TAND tỉnh Vĩnh Long về tranh chấp hợp đồng vay tài sản |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng vay tài sản |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Vĩnh Long |
Số hiệu: | 279/2024/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 06/12/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Vào ngày 09/4/2003, ông Nguyễn Văn M và bà Nguyễn Thị T có chuyển nhượng cho anh Lê Quốc C một miếng đất ruộng thửa 593, tờ bản đồ số 3, diện tích 21.000m2, toạ lạc tại xã P, huyện T, tỉnh Đồng Tháp, đất do ông Nguyễn Văn M đứng tên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, với giá 105 chỉ vàng 24K 9999. Anh C đã giao đủ vàng cho ông M, bà T. Các bên thỏa thuận ông M phải chịu chi phí trước bạ sang tên theo Giấy chuyển nhượng đất ruộng ngày 09/4/2003 ghi “chi phí sang tên ông M phải chịu”, do ông M không chịu đóng tiền để anh C làm thủ tục sang tên, nên anh C đã đóng thay cho ông M, số tiền đóng trước bạ sang tên là 17.824.278 đồng, theo hai Giấy nộp tiền ngày 12/01/2024. Hiện nay anh C đã được đứng tên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa 593, được Nhà nước tách ra thành 05 thửa gồm |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỈNH VĨNH LONG Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Bản án số: 279/2024/DS-PT
Ngày: 06 - 12 - 2024
V/v tranh chấp đòi tài sản.
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH VĨNH LONG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa:
Các Thẩm phán:
Bà Sơn Nữ Phà Ca
Ông Nguyễn Thành Đăng
Bà Nguyễn Thị Kim Chi
- Thư ký phiên tòa: Bà Cao Ngọc Quí – Thư ký của Tòa án nhân dân tỉnh
Vĩnh Long.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Long: Bà Trần Ngọc Bích -
Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.
Ngày 06 tháng 12 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long
xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 332/2024/TLPT-DS ngày 05 tháng
11 năm 2024 về việc “Tranh chấp đòi tài sản”.
Do bản án dân sự sơ thẩm số: 154/2024/DS-ST ngày 27 tháng 9 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Vĩnh Long bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 359/2024/QĐ-PT
ngày 08 tháng 11 năm 2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Anh Lê Quốc C; Địa chỉ: ấp P, xã T, huyện V, tỉnh Vĩnh
Long.
Người đại diện hợp pháp cho nguyên đơn anh Lê Quốc C: Ông Lê Văn L;
Địa chỉ: Ấp P, xã T, huyện V, tỉnh Vĩnh Long (Theo văn bản ủy quyền ngày
28/5/2024).
- Bị đơn:
1. Ông Nguyễn Văn M, sinh năm 1956.
2. Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1957.
2
Cùng địa chỉ: Số A ấp T, xã P, huyện L, tỉnh Vĩnh Long.
Người kháng cáo: Nguyên đơn anh Lê Quốc C.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Tại Đơn khởi kiện cũng như các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án,
nguyên đơn anh Lê Quốc C có ông Lê Văn L là người đại diện theo uỷ quyền
trình bày:
Vào ngày 09/4/2003, ông Nguyễn Văn M và bà Nguyễn Thị T có chuyển
nhượng cho anh Lê Quốc C một miếng đất ruộng thửa 593, tờ bản đồ số 3, diện
tích 21.000m
2
, toạ lạc tại xã P, huyện T, tỉnh Đồng Tháp, đất do ông Nguyễn
Văn M đứng tên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, với giá 105 chỉ vàng 24K
9999. Anh C đã giao đủ vàng cho ông M, bà T. Các bên thỏa thuận ông M phải
chịu chi phí trước bạ sang tên theo Giấy chuyển nhượng đất ruộng ngày
09/4/2003 ghi “chi phí sang tên ông M phải chịu”, do ông M không chịu đóng
tiền để anh C làm thủ tục sang tên, nên anh C đã đóng thay cho ông M, số tiền
đóng trước bạ sang tên là 17.824.278 đồng, theo hai Giấy nộp tiền ngày
12/01/2024.
Hiện nay anh C đã được đứng tên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
thửa 593, được Nhà nước tách ra thành 05 thửa gồm: Thửa 105, diện tích
680,3m
2
; Thửa 127, diện tích 8.088,9m
2
; Thửa 142, diện tích 1.651,9m
2
; Thửa
158, diện tích 6.110,4m
2
; Thửa 180, diện tích 3.340,5m
2
. Nay anh Lê Quốc C
yêu cầu ông Nguyễn Văn M và bà Nguyễn Thị T trả cho anh số tiền anh đã đóng
thay cho ông M trước bạ sang tên là 17.827.278 đồng, ngoài ra không yêu cầu gì
khác.
Ngày 18/9/2024, ông Nguyễn Văn M và bà Nguyễn Thị T có bản trình
bày ý kiến:
Nguyên vào năm 2000, vợ chồng ông M, bà T có chuyển nhượng 21 công
đất (21.000m
2
), tọa lạc xã P, huyện T, tỉnh Đồng Tháp cho ông Nguyễn Văn T1
với giá 105 chỉ vàng 24K, có làm giấy tay do ông T1 giữ nhưng hai bên chưa lập
thủ tục chuyển quyền sử dụng đất. Sau đó, một thời gian sau ông T1 chuyển
nhượng phần đất trên cho ông Lê Văn L (nhưng anh C con ông L đứng tên) và
ông T1 yêu cầu vợ chồng ông, bà lập giấy tay với anh C. Năm 2023, Tòa án
nhân dân tỉnh Đồng Tháp giải quyết tranh chấp giữa anh C với vợ chồng ông,
bản án đã có hiệu lực và thi hành xong các bên đã hoàn thành nghĩa vụ. Đến
3
ngày 28/5/2024, anh Lê Quốc C có khởi kiện ra Tòa án nhân dân huyện L đối
với số tiền mượn là 17.827.278 đồng và anh C cho rằng vợ chồng có ký và cam
kết trong giấy tay chuyển nhượng đất ruộng vào ngày 09/4/2003. Vợ chồng ông
không có mượn anh C số tiền nêu trên nên không đồng ý theo yêu cầu khởi kiện
của anh C.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số 154/2024/DS-ST ngày 27 tháng 9 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Vĩnh Long đã quyết định:
Căn cứ các Điều 26, 35, 39, 147, 177, 179 Bộ luật tố tụng dân sự năm
2015; Căn cứ các Điều 166 Bộ luật Dân sự năm 2015; Căn cứ điểm đ khoản 1,
Điều 12, 14, khoản 4 Điều 26 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 về quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án
phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn anh Lê Quốc C
có ông Lê Văn L đại diện yêu cầu ông Nguyễn Văn M, bà Nguyễn Thị T trả cho
nguyên đơn anh C số tiền đóng thuế trước bạ sang tên 17.827.278 đồng.
Buộc ông Nguyễn Văn M bà Nguyễn Thị T phải có nghĩa vụ trả cho anh
Lê Quốc C có ông Lê Văn L đại diện số tiền đóng trước bạ sang tên là 3.565.458
đồng.
2. Không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn anh Lê Quốc C có ông Lê
Văn L đại diện yêu cầu ông Nguyễn Văn M, bà Nguyễn Thị T trả cho nguyên
đơn anh C số tiền thuế thu nhập cá nhân là 14.261.830 đồng.
Ngoài ra, bản án còn tuyên về án phí sơ thẩm; nghĩa vụ thi hành án và
quyền kháng cáo của đương sự theo luật định.
Ngày 11 tháng 10 năm 2024, nguyên đơn anh Lê Quốc C có đơn kháng
cáo với nội dung: Anh Lê Quốc C không đồng ý với Quyết định của Bản án sơ
thẩm về việc không chấp nhận yêu cầu của anh yêu cầu ông Nguyễn Văn M, bà
Nguyễn Thị T trả cho anh số tiền đóng trước bạ sang tên là 14.261.830 đồng.
Yêu cầu Toà án cấp phúc thẩm buộc ông Nguyễn Văn M và bà Nguyễn Thị T
trả cho anh C số tiền 14.261.830 đồng.
Tại phiên tòa phúc thẩm: Ông L người đại diện hợp pháp của nguyên đơn
anh C vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo. Ông L yêu cầu ông M, bà T trả cho
ông C số tiền 14.261.830 đồng là thuế thu nhập cá nhân mà anh C đã nộp thay
cho ông M. Ông M, bà T không đồng ý yêu cầu kháng cáo của anh C.
4
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Long phát biểu ý kiến:
Về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và người
tham gia tố tụng: Tất cả đều tuân thủ đúng quy định của pháp luật từ khi thụ lý
vụ án đến khi xét xử phúc thẩm.
Về việc giải quyết vụ án: Căn cứ khoản 1 Điều 308, Bộ luật Tố tụng dân
sự 2015; Điều 26, Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng
12 năm 2016 quy định về mức, thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí
và lệ phí Tòa án.
Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của anh Lê Quốc C. Giữ nguyên Bản
án dân sự sơ thẩm số 154/2024/DS-ST ngày 27/9/2024 của Tòa án nhân dân
huyện L, tỉnh Vĩnh Long.
Nguyên đơn phải chịu án phí dân sự phúc thẩm theo quy định của pháp
luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Anh Lê Quốc C kháng cáo yêu cầu Toà án cấp phúc thẩm buộc ông
Nguyễn Văn M và bà Nguyễn Thị T trả cho anh C số tiền 14.261.830 đồng. Lý
do: Theo nội dung Giấy chuyển nhượng đất ruộng ngày 09/4/2003, giữa ông
Nguyễn Văn M, bà Nguyễn Thị T thể hiện ông M, bà T chuyển nhượng cho anh
C diện tích đất ruộng 21.000m
2
, giá chuyển nhượng là 105 chỉ vàng 24K 9999
và ông M thỏa thuận phần thuế trước bạ ông M chịu tất cả. Ngày 20/12/2023,
Chi Cục thuế khu vực F - Cục thuế tỉnh Đ thông báo yêu cầu ông Nguyễn Văn
M nộp tiền thuế thu nhập cá nhân chuyển nhượng bất động sản số tiền
14.261.830 đồng và thông báo yêu cầu anh C nộp tiền lệ phí trước bạ nhà, đất là
3.565.458 đồng anh C đã nộp thay cho ông M số tiền trên. Ông M, bà T không
đồng ý theo yêu cầu kháng cáo của anh C và cho rằng ông, bà chỉ thỏa thuận
chuyển nhượng phần đất 21.000m
2
cho ông Nguyễn Văn T1. Giấy chuyển
nhượng đất ruộng ngày 09/4/2003 giữa ông Nguyễn Văn M, bà Nguyễn Thị T
chuyển nhượng cho anh Lê Quốc C diện tích đất ruộng 21.000m
2
lập nhằm hợp
thức hóa giao dịch chuyển nhượng lại phần đất trên giữa ông T1 với ông L (ông
L giao anh C đứng tên). Khi anh C nộp thuế số tiền 14.261.830 đồng thì anh C
không có thỏa thuận lại với ông bà, anh C muốn đăng ký kê khai lại quyền sử
dụng đất thì anh C tự nộp, ông bà không đồng ý chịu số tiền thuế 14.261.830
đồng.
5
[2] Xét Giấy chuyển nhượng đất ruộng ngày 09/4/2003 giữa ông Nguyễn
Văn M, bà Nguyễn Thị T chuyển nhượng cho anh Lê Quốc C diện tích đất
ruộng 21.000m
2
, giá chuyển nhượng là 105 chỉ vàng 24K 9999, trong Giấy có
ghi nội dung: “phần trước bạ bên anh Nguyễn Văn M phải chịu tất cả”.
Tại phiên tòa, các đương sự đều thừa nhận phần đất ruộng 21.000m
2
có
nguồn gốc do ông M, bà T chuyển nhượng cho ông T1 nhưng hai bên không làm
thủ tục sang tên quyền sử dụng đất. Sau đó ông T1 thỏa thuận chuyển nhượng
đất lại cho ông L (cha anh C) nên ngày 09/4/2003 giữa ông Nguyễn Văn M, bà
Nguyễn Thị T lập giấy tay chuyển nhượng sang cho anh Lê Quốc C để tiện làm
thủ tục. Sau đó, ông M, bà T không đồng ý với nội dung thỏa thuận trên.
Đến năm 2021, anh C phát sinh tranh chấp phần đất chuyển nhượng
21.000m
2
theo Giấy chuyển nhượng đất ruộng ngày 09/4/2003 và tại Bản án dân
sự sơ thẩm số 04/2023/DS-ST ngày 06/02/2023 của Tòa án nhân dân huyện Tam
Nông, tỉnh Đồng Tháp đã xử công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất giữa anh C với ông M, bà T và buộc ông M, bà T chuyển quyền sử
dụng phần đất đã chuyển nhượng trên cho anh C và anh C có nghĩa vụ trả ông
M, bà T số vàng 05 chỉ vàng 24K. Khi án có hiệu lực pháp luật các bên đã thi
hành xong bản án trên.
Đến ngày 20/12/2023, Chi Cục thuế khu vực 6 - Cục thuế tỉnh Đ thông
báo yêu cầu ông Nguyễn Văn M nộp tiền thuế thu nhập cá nhân chuyển nhượng
bất động sản số tiền 14.261.830 đồng và anh C đã không thông báo hay thỏa
thuận lại với ông M về số tiền trên. Tại phiên tòa, ông M, bà T không đồng ý
nộp số tiền thuế trên theo yêu cầu của anh C.
Xét anh C kháng cáo cho rằng theo Giấy chuyển nhượng đất ruộng ngày
09/4/2003 giữa ông M, bà T với anh C thì ông M thỏa thuận ông M sẽ chịu toàn
bộ thuế. Anh C đã nộp thay ông M số tiền thuế thu nhập cá nhân chuyển nhượng
bất động sản là 14.261.830 đồng nên anh C kháng cáo yêu cầu ông M trả lại số
tiền trên cho anh. Xét Giấy chuyển nhượng đất ruộng ngày 09/4/2003 giữa ông
M, bà T với anh C đã được Tòa án nhân dân huyện Tam Nông, tỉnh Đồng Tháp
xét xử bằng bản án có hiệu lực pháp luật và các bên đã thi hành xong bản án
trên. Số tiền thuế thu nhập cá nhân chuyển nhượng bất động sản là 14.261.830
đồng là khoản thuế phát sinh sau thời điểm Bản án dân sự sơ thẩm số
04/2023/DS-ST ngày 06/02/2023 của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Đồng Tháp
có hiệu lực pháp luật và khi nghĩa vụ thuế phát sinh thì giữa ông M với anh C
không thỏa thuận lại và ông M cũng không đồng ý nộp số tiền trên. Việc anh C
6
đăng ký kê khai lại quyền sử dụng đất đối với phần đất tranh chấp là đăng ký
theo bản án có hiệu lực pháp luật của Tòa án nên anh C phải thực hiện nghĩa vụ
thuế của người sử dụng đất theo quy định pháp luật. Do đó, khoản tiền thuế thu
nhập cá nhân chuyển nhượng bất động sản số tiền 14.261.830 đồng án sơ thẩm
bác yêu cầu khởi kiện anh C là có căn cứ. Vì vậy, không chấp nhận yêu cầu
kháng cáo của anh C.
[3] Các phần khác của bản án sơ thẩm về phần buộc ông Nguyễn Văn M
bà Nguyễn Thị T phải có nghĩa vụ trả cho anh Lê Quốc C có ông Lê Văn L đại
diện số tiền đóng trước bạ sang tên là 3.565.458 đồng và phần án phí dân sự sơ
thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời
hạn kháng cáo, kháng nghị.
[4] Về án phí dân sự phúc thẩm: Anh C phải chịu án phí dân sự phúc thẩm
số tiền 300.000 đồng. Số tiền trên anh C đã nộp xong nên được khấu trừ.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308, Bộ luật Tố tụng dân sự 2015; điểm đ khoản 1
Điều 12, khoản 2 Điều 26, Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày
30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức, thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử
dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của anh Lê Quốc C. Giữ nguyên Bản
án dân sự sơ thẩm số 154/2024/DS-ST ngày 27/9/2024 của Tòa án nhân dân
huyện L, tỉnh Vĩnh Long.
Căn cứ các Điều 166 Bộ luật Dân sự năm 2015.
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn anh Lê Quốc C về
việc yêu cầu ông Nguyễn Văn M, bà Nguyễn Thị T trả cho nguyên đơn anh Lê
Quốc C số tiền thuế thu nhập cá nhân chuyển nhượng bất động sản là
14.261.830 đồng.
2. Án phí dân sự phúc thẩm: Buộc anh Lê Quốc C phải chịu số tiền
300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng). Số tiền trên anh C đã nộp tạm ứng xong
theo biên lai thu số 1512, ngày 11/10/2024 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện
L.
7
3. Các phần khác của bản án sơ thẩm về phần buộc ông Nguyễn Văn M bà
Nguyễn Thị T phải có nghĩa vụ trả cho anh Lê Quốc C có ông Lê Văn L đại diện
số tiền đóng trước bạ sang tên là 3.565.458 đồng và phần án phí dân sự sơ thẩm
không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn
kháng cáo, kháng nghị.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2
Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành
án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện
thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và
9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại
Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- CA: 01;
- TACC: 01;
- VKSND TVL: 02;
- TAND huyện L: 01;
- Chi Cục THADS huyện L: 01;
- Đương sự: 03;
- HCTP: 01;
- KTNV: 01;
- Lưu: 04.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(đã ký)
Sơn Nữ Phà Ca
Tải về
Bản án số 279/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 279/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 26/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 25/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 18/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 18/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 18/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 17/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 16/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 16/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 13/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 11/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 10/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 09/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 06/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 06/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 05/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 05/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 04/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Bản án số 605/2024/DS-PT ngày 03/12/2024 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Ban hành: 03/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 03/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm