Bản án số 24/2020/HNGĐ-ST ngày 31/08/2020 của TAND huyện Krông Pắk, tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp nuôi con của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Mục lục
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 24/2020/HNGĐ-ST

Tên Bản án: Bản án số 24/2020/HNGĐ-ST ngày 31/08/2020 của TAND huyện Krông Pắk, tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp nuôi con của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp về nuôi con, chia tài sản của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn hoặc hủy kết hôn trái pháp luật
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Krông Pắk (TAND tỉnh Đắk Lắk)
Số hiệu: 24/2020/HNGĐ-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 31/08/2020
Lĩnh vực: Hôn nhân gia đình
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Không công nhận chị Trần Thị H và anh Huỳnh Lê P là vợ chồng
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KRÔNG PẮC, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 24/2020/HNGĐ-ST NGÀY 31/08/2020 VỀ TRANH CHẤP NUÔI CON CỦA NAM, NỮ CHUNG SỐNG VỚI NHAU NHƯ VỢ CHỒNG MÀ KHÔNG ĐĂNG KÝ KẾT HÔN

Ngày 31 tháng 08 năm 2020, tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện Krông Pắc xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 162/2020/TLST-HNGĐ ngày 13 tháng 05 năm 2020 về việc: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 24/2020/QĐXXST-HNGĐ, ngày 10 tháng 08 năm 2020 giữa:

+ Nguyên đơn: Chị Trần Thị H, sinh năm: 1978 (Có đơn xét xử vắng mặt).

Địa chỉ: T6, thị trấn P, huyện K, tỉnh Đắk Lắk.

+ Bị đơn: Anh Huỳnh Lê P, sinh năm 1973 (Có đơn xét xử vắng mặt).

Địa chỉ: T6, thị trấn P, huyện K, tỉnh Đắk Lắk.

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Theo đơn khởi kiện và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn chị Trần Thị H trình bày: Chị và anh Huỳnh Lê P chung sống với nhau như vợ chồng từ năm 1994 đến nay nhưng không đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật. Sau khi về chung sống với nhau một thời gian thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do tính tình không hợp. Đến cuối năm 2018 vợ chồng chị đã sống ly thân cho đến nay. Xét thấy, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị H làm đơn yêu cầu Tòa án giải quyết không công nhận chị và anh Huỳnh Lê P là vợ chồng.

Về con chung: Chị H và anh P có 03 con chung là: Huỳnh Thị Phương L, sinh ngày: 15/06/1994; Huỳnh Thị Hoài T, sinh ngày: 22/10/1995 và Huỳnh Quốc V, sinh ngày 02/01/2005. Đối với Huỳnh Thị Phương L và Huỳnh Thị Hoài T đã đủ 18 tuổi và sống tự lập nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Riêng cháu Huỳnh Quốc V sinh ngày 02/01/2005, hiện nay chị H đang trực tiếp nuôi dưỡng, chị và anh P đã thỏa thuận giao cháu V cho chị trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng đến khi cháu đủ 18 tuổi và chị không yêu cầu anh Phàn cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu Toà án giải quyết.

Quá trình giải quyết vụ án bị đơn anh Huỳnh Lê P trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Anh Huỳnh Lê P thừa nhận chung sống với chị Trần Thị H như vợ chồng từ năm 1994 đến nay nhưng không đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Do mâu thuẫn vợ chồng nên vợ chồng đã sống ly thân từ cuối năm 2018 cho đến nay. Xét thấy, tình cảm vợ chồng không còn, chị H làm đơn yêu cầu Tòa án giải quyết không công nhận vợ chồng giữa anh và chị Trần Thị H thì anh Phàn đồng ý.

Về con chung: Vợ chồng có 3 con chung như chị H đã trình bày. Đối với cháu Huỳnh Thị Phương L và cháu Huỳnh Thị Hoài T đã đủ 18 tuổi nên không yêu cầu Tòa án giải quyết; Đối với cháu Huỳnh Quốc V anh đồng ý để chị H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến khi cháu đủ 18 tuổi. Về tài sản chung, nợ chung: Vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu Toà án giải quyết.

Tại phiên toà hôm nay, các đương sự đều có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Pắc phát biểu quan điểm: Đối với việc tuân theo pháp luật của những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng, trong quá trình giải quyết vụ án đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ được quy định trong Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 7 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

- Căn cứ khoản 1 Điều 14, Điều 15, Điều 53, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình; điểm b mục 3 Nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày 09 tháng 6 năm 2000 của Quốc Hội. Tuyên bố chị Trần Thị H và anh Huỳnh Lê P không phải là vợ chồng; Về con chung: Ghi nhận sự thỏa thuận của các đương sự: Giao con chung cháu Huỳnh Quốc V, sinh ngày 02/01/2005 cho chị H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi cháu đủ 18 tuổi. Đối với cháu Huỳnh Thị Phương L, sinh năm 1994 và cháu Huỳnh Thị Hoài T, sinh năm 1995 đã đủ 18 tuổi nên không đề cập giải quyết.

Về cấp dưỡng nuôi con chung, tài sản chung, nợ chung: Các đương sự không yêu cầu, nên không đề cập giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Sau khi nghiên cứu các tài liệu đã có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng:

Về quan hệ tranh chấp: Căn cứ vào đơn khởi kiện của chị Trần Thị H, Tòa án nhân dân huyện Krông Pắc xác định quan hệ pháp luật là “Tranh chấp về nuôi con của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn” được quy định tại khoản 7, Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về thẩm quyền: Bị đơn anh Huỳnh Lê P cư trú tại T6, thị trấn P, huyện K, tỉnh Đắk Lắk. Do vậy, Tòa án nhân dân huyện Krông Pắc áp dụng điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thụ lý và giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền.

Về sự vắng mặt của đương sự tại phiên toà: Nguyên đơn chị Trần Thị H, bị đơn anh Huỳnh Lê P có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Áp dụng khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, để xét xử vắng mặt các đương sự là hoàn toàn có căn cứ.

[2] Về nội dung:

Về quan hệ hôn nhân: Nguyên đơn chị Trần Thị H và bị đơn anh Huỳnh Lê P đều thừa nhận đã chung sống với nhau như vợ chồng từ năm 1994 nhưng không đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Như vậy việc chị H và anh Phàn chung sống với nhau như vợ chồng từ năm 1994 cho đến nay nhưng không đăng ký kết hôn là vi phạm luật hôn nhân và gia đình. Tại khoản 1 Điều 14 Luật Hôn nhân và Gia đình quy định: “ Nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng…”. Vì vậy, Áp dụng khoản 1 Điều 14, Điều 15, khoản 2 Điều 53 Luật hôn nhân và gia đình; điểm c, khoản 3 Nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày 09 tháng 06 năm 2000 của Quốc Hội về việc thi hành Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 để không công nhận quan hệ vợ chồng giữa chị Trần Thị H và anh Huỳnh Lê P là có cơ sở.

Về con chung và cấp dưỡng nuôi con: Trong quá trình giải quyết vụ án các đương sự đã thỏa thuận giao cháu Huỳnh Quốc V sinh ngày 02/01/2005 cho chị Trần Thị H trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi cháu V đủ 18 tuổi và chị H không yêu cầu anh Phàn phải cấp dưỡng nuôi con chung. Anh Huỳnh Lê P có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở. Theo kết quả xác minh tại Ủy ban nhân dân thị trấn P, huyện K ngày 17/07/2020 thì hiện nay cháu V đang được chị H nuôi dưỡng, trong thời gian anh chị sống ly thân thì chị H vẫn chăm sóc tốt mọi mặt cho con. Xét thấy sự thỏa thuận của các đương sự là hoàn toàn tự nguyện, không trái quy định của pháp luật, không trái đạo đức xã hội và đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của con. Căn cứ các Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình để ghi nhận sự thỏa thuận của các đương sự. Đối với cháu Huỳnh Thị Phương L và cháu Huỳnh Thị Hoài T đã đủ 18 tuổi và sống tự lập, các đương sự không yêu cầu nên không đề cập giải quyết.

Về tài sản chung và nợ chung: Trong quá trình giải quyết vụ án các đương sự đều không yêu cầu, nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

Xét thấy, quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk tại phiên tòa là phù hợp, Hội đồng xét xử cần chấp nhận.

[3] Về án phí: Áp dụng khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội. Chị Trần Thị H phải chịu án phí ly hôn theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH:

- Căn cứ vào khoản 7 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

- Căn cứ khoản 1 Điều 14, Điều 15, Điều 53, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình; điểm c, khoản 3 Nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày 09 tháng 06 năm 2000 của Quốc Hội về việc thi hành Luật Hôn nhân và gia đình.

Tuyên xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Trần Thị H.

- Về quan hệ hôn nhân: Không công nhận chị Trần Thị H và anh Huỳnh Lê P là vợ chồng.

- Về con chung:

Ghi nhận sự thỏa thuận giữa các đương sự: Giao cháu Huỳnh Quốc V, sinh ngày 02/01/2005 cho chị Trần Thị H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi cháu V đủ 18 tuổi. Anh Huỳnh Lê P có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở. Đối với cháu Huỳnh Thị Phương L, sinh năm 1994 và cháu Huỳnh Thị Hoài T, sinh năm 1995 hiện nay đã trên 18 tuổi và sống tự lập, các đương sự không yêu cầu nên không đề cập giải quyết.

- Về cấp dưỡng nuôi con, tài sản và công nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên Tòa án không đề cập giải quyết.

- Về án phí: Chị Trần Thị H phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm số tiền này được khấu trừ vào số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự huyện K, tỉnh Đắk Lắk theo biên lai số AA/2019/0007388 ngày 11 tháng 5 năm 2020.

Nguyên đơn chị Trần Thị H và bị đơn anh Huỳnh Lê P được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp Bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được Thi hành án dân sự, người phải Thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận Thi hành án, quyền yêu cầu Thi hành án, tự nguyện Thi hành án hoặc cưỡng chế Thi hành án theo quy định tại Điều 6, 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu Thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Tải về
Bản án số 24/2020/HNGĐ-ST Bản án số 24/2020/HNGĐ-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất