Bản án số 175/2024/HNGĐ-PT ngày 12/12/2024 của TAND TP. Hà Nội về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 175/2024/HNGĐ-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 175/2024/HNGĐ-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 175/2024/HNGĐ-PT
Tên Bản án: | Bản án số 175/2024/HNGĐ-PT ngày 12/12/2024 của TAND TP. Hà Nội về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND TP. Hà Nội |
Số hiệu: | 175/2024/HNGĐ-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 12/12/2024 |
Lĩnh vực: | Hôn nhân gia đình |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | chấp nhận |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Bản án số:175 /2024/HNGĐ-PT
Ngày: 10/12/2024
“Về việc Tranh chấp Hôn nhân
và gia đình”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - hạnh phúc
NHÂN DANHNƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Trần Ngọc Hòa
Các Thẩm phán: Bà Mai Vân Anh
Bà Phương Thảo
- Thư ký phiên tòa: Bà Trần Tuyết Nhung - Thư ký Tòa án nhân dân
thành phố Hà Nội.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân
thành phố Hà Nội: Ông Nguyễn
Mạnh Thắng - Kiểm sát viên tham gia phiên toà.
Ngày 10 tháng 12 năm 2024, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hà
Nội xét xử phúc thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số
147/2024/TLPT-HNGĐ ngày 10/10/2024, về việc
“Tranh chấp ly hôn”.
Do bản án Hôn nhân và gia đình sơ thẩm số 26/2024/HNGĐ-ST ngày
26/7/2024 của Toà án nhân dân quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 57/2024/QĐXX-PT
ngày 25 tháng 11 năm 2024, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Anh Lê Thanh H, sinh năm: 1971; Địa chỉ: Bộ tư lệnh V,
H, phường Đ, quận H, thành phố Hải Phòng (có mặt).
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho Nguyên đơn: Ông Nguyễn
Văn Đ, sinh năm 1983 – Luật sư – Công ty L – Đoàn luật sư Thành phố H (có
mặt).
Bị đơn: Chị Nguyễn Thị H1, sinh năm: 1980; Địa chỉ: Căn hộ B nhà N
đường T, khu đô thị M, phường D, quận C, thành phố Hà Nội (có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Nguyên đơn anh Lê Thanh H trình bày:
2
Anh và chị Nguyễn Thị H1 kết hôn ngày 11/01/2005 trên cơ sở tự nguyện, có
đăng ký kết hôn tại UBND phường C, quận H, Hải Phòng. Sau khi kết hôn vợ
chồng về sinh sống tại Y, Cầu G cùng gia đình. Những năm đầu hôn nhân hạnh
phúc, mấy năm gần đây bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do chị H1
thiếu sự tôn trọng dành cho anh và sự thiếu quan tâm đối với mẹ chồng. Mâu
thuẫn căng thẳng nhất là từ tháng 7/2023. Mọi chuyện trong nhà chị H1 đều làm
theo ý mình mà không có sự bàn bạc, tôn trọng anh. Vợ chồng đã sống ly thân từ
tháng 7/2023 đến nay, anh không còn tình cảm và không muốn về nhà. Hiện anh
đang ăn ở tại cơ quan Bộ tư lệnh Vùng cảnh biển A, H, phường Đ, quận H,
thành phố Hải Phòng. Nay anh xác định tình cảm vợ chồng không còn, anh đề
nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn với chị H1.
Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là cháu Lê Thanh D, sinh ngày
06/02/2006 và cháu Lê Thanh V, sinh ngày 05/02/2014. Khi ly hôn, cháu lớn đã
trưởng thành nên cháu tự quyết định sống cùng ai, anh không yêu cầu Tòa án
xem xét, giải quyết. Còn cháu nhỏ anh đồng ý để chị H1 nuôi dưỡng, anh tự
nguyện cấp dưỡng nuôi con 10.000.000 đồng/01 tháng cho đến khi con chung
đủ 18 tuổi hoặc nếu chị H1 không muốn nuôi dưỡng thì anh sẽ trực tiếp nuôi
dưỡng cháu và không yêu cầu chị H1 cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung: Anh, chị không yêu cầu Toà án giải quyết.
Về nợ: Anh, chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.
- Bị đơn chị Nguyễn Thị H1 trình bày: Về thời gian và điều kiện kết hôn như
anh H trình bày là đúng. Sau khi kết hôn, vợ chồng về sống cùng bố mẹ chồng
tại Y, Cầu G, Hà Nội. Đến năm 2018 vợ chồng chuyển ra căn hộ B, N đường T,
phường D, quận C, Hà Nội và có đón mẹ chồng về để tiện chăm sóc. Từ khi kết
hôn, anh chị vẫn luôn chung sống hòa thuận, vui vẻ, hạnh phúc, không có mâu
thuẫn hay bất đồng quan điểm nào quá nghiêm trọng. Suốt 20 năm qua, chị luôn
là hậu phương vững chắc cho anh, nỗ lực vun vén hạnh phúc gia đình, thay
chồng chăm sóc mẹ chồng và nuôi dạy hai con ngoan ngoãn, học giỏi, đảm
đương mọi công việc đối nội, đối ngoại với hai bên gia đình để cho anh có thời
gian hoàn thành tốt nhiệm vụ công tác được giao. Trong quá trình chung sống,
vợ chồng luôn tôn trọng nhau, rất ít xảy ra cãi vã, không bao giờ đánh nhau hay
có bất kỳ những hành vi bạo lực nào. Hai bên không có việc chửi mắng, xúc
phạm lẫn nhau. Thay vào đó hai vợ chồng vẫn luôn cố gắng tạo không gian
riêng tư để có thể vun đắp tình cảm vợ chồng, thường xuyên nhắn tin, gọi điện,
chia sẻ với nhau. Khi anh có thời gian rảnh gia đình sẽ dành thời gian đi du lịch
cùng nhau. Vợ chồng cũng chung sống hòa thuận với mẹ chồng, chị luôn là cầu
nối giúp chồng và mẹ gắn kết với nhau hơn. Vợ chồng không sống ly thân như
anh H trình bày. Anh H hiện nay đang công tác tại B Cảnh Sát B đóng quân tại
thành phố Hải Phòng, công việc phải trực sẵn sàng tham gia huấn luyện, chiến
đấu tại đơn vị nên đi làm xa nhà, nhưng ngoài thời gian công tác tại đơn vị anh
vẫn luôn sinh sống cùng chị và các con tại căn hộ 202 – N08B trên. Mỗi khi anh
về nhà thì cả nhà sinh sống hòa thuận, vui vẻ, hạnh phúc, không có mâu thuẫn
hay bất đồng quan điểm nào quá nghiêm trọng. Đặc biệt, gần đây vào ngày
16/7/2023 nhân kỷ niệm sinh nhật mẹ chồng, cả gia đình cùng đi du lịch tại B để
3
chúc mừng sinh nhật bà. Trước đó, gia đình cũng có nhiều thời gian đi du lịch
cùng nhau, nên không có chuyện vợ chồng có mâu thuẫn và đã sống ly thân.
Ngoài ra, chị không hề có hành vi vu khống anh, trong lúc cả gia đình vẫn bình
thường, anh tự dưng bỏ đi từ ngày 23/7/2024 không về. Anh đi biệt tích không
lý do 4 - 5 tháng, chị ở nhà nhận được những bức thư nặc danh về việc anh có
quan hệ với người nọ người kia nên chị đã xuống cơ quan nơi anh làm việc để
hỏi tại sao anh không về, anh có đi làm không và lịch nghỉ phép như thế nào. Tư
lệnh của anh nói là cán bộ vẫn được nghỉ phép còn việc anh đi đâu mấy tháng
không về nhà cơ quan không nắm được. Chị không đồng ý với yêu cầu ly hôn
của anh H còn bởi vì các con.
Từ những lý do trên, chị đề nghị Tòa xem xét, không chấp nhận đơn xin ly hôn
của anh H, để vợ chồng chị tiếp tục cùng nhau chung sống, chăm sóc mẹ già và
nuôi dạy hai con trưởng thành, tránh ảnh hưởng tiêu cực tới tương lai và sự hình
thành tính cách, tâm lý của hai cháu sau này.
Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung như anh H trình bày là đúng. Cháu
lớn đã trưởng thành nên chị không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết. Đối với
cháu nhỏ, chị xin được nuôi dưỡng và yêu cầu anh H có trách nhiệm cấp dưỡng
nuôi con 10.000.000 đồng/01 tháng cho đến khi cháu đủ 18 tuổi hoặc có sự thay
đổi khác.
Về tài sản chung: Vợ chồng có tài sản chung, chị đã nộp đơn đề nghị Tòa
giải quyết về tài sản chung nhưng sau đó vợ chồng đã thống nhất được. Tại buổi
hòa giải ngày 24/6/2024, chị đã nộp đơn xin rút yêu cầu chia tài sản chung,
không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về công nợ: Anh, chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại bản án sơ thẩm số 26/2024/HNGĐ-ST ngày 26 tháng 7 năm 2024 của
Toà án nhân dân quận Cầu Giấy, Thành phố Hà Nội quyết định:
Căn cứ: Khoản 1 Điều 28, Điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều
39 và các Điều 147, 217, 218, 266, 271, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điểm a
Khoản 5, điểm b Khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp,
quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Xử: Chấp nhận đơn xin ly hôn của anh Lê Thanh H. Cho anh Lê Thanh H
được ly hôn chị Nguyễn Thị H1.
- Về con chung: Ghi nhận sự thỏa thuận của các đương sự, giao cháu Lê
Thanh V, sinh ngày 05/02/2014 cho chị Nguyễn Thị H1 trực tiếp nuôi dưỡng.
Anh Lê Thanh H có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con 10.000.000 đồng/01 tháng,
kể từ tháng 7/2024 cho đến khi cháu V đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác. Đối
với cháu Lê Thanh D, sinh ngày 06/02/2006, hiện đã trưởng thành nên Tòa án
không xem xét giải quyết.
Anh Lê Thanh H được quyền thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo
dục con chung không ai được cản trở.
- Về tài sản chung, công nợ và các quan hệ khác phát sinh từ quan hệ hôn
nhân giữa chị H1, anh H do các bên đương sự không yêu cầu giải quyết nên
HĐXX không xem xét.
4
- Đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu phản tố chia tài sản chung vợ chồng
của chị Nguyễn Thị H1.
Ngoài ra bản án còn tuyên án phí và quyền kháng cáo của các bên đương
sự.
Ngày 06/8/2024 chị H1 có đơn kháng cáo bản án sơ thẩm số
26/2024/HNGĐ-ST ngày 26 tháng 7 năm 2024 của Toà án nhân dân quận Cầu
Giấy, thành phố Hà Nội với nội dung không đồng ý với Quyết định của bản án
đã tuyên.
Tại phiên tòa phúc thẩm anh H giữ nguyên yêu cầu khởi kiện. Chị H1 giữ
yêu cầu kháng cáo. Sau khi các bên đương sự trình bày thì chị H1 đồng ý thuận
tình ly hôn với anh H.
- Về con chung: Anh chị vẫn thỏa thuận, giao cháu Lê Thanh V, sinh ngày
05/02/2014 cho chị Nguyễn Thị H1 trực tiếp nuôi dưỡng. Anh Lê Thanh H có
trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con 10.000.000 đồng/01 tháng, kể từ tháng 7/2024
cho đến khi cháu V đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác. Đối với cháu Lê Thanh
D, sinh ngày 06/02/2006, hiện đã trưởng thành nên Tòa án không xem xét giải
quyết.
Về tài sản: Anh H trình bày số tiền 600.000.000 đồng là tài sản chung có
trong thời kỳ hôn nhân. Anh đã sử dụng để mua nhà tại Hải Phòng sinh sống. Đề
nghị tòa không xem xét giải quyết phần tài sản vì anh chị đã đình chỉ yêu cầu tại
cấp sơ thẩm. Chị H1 không còn ý kiến về 600.000.000 đồng đã đưa anh H. Chị
H1 đề nghị anh Hải quan T đến cháu Lê Thanh D đang du học tại Mỹ. Còn cháu
V đang tập chung chuyện học tập, chuyển cấp nên anh H có thời gian quan tâm
chăm sóc hợp lý để đảm bảo việc học tập cho cháu. Chị H1 có ý kiến về việc
anh H sớm chuyển đồ của anh tại Căn hộ 202 nhà N đường T, khu đô thị M,
phường D, quận C, thành phố Hà Nội cho ổn định cuộc sống.
Quan điểm của đại diện viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội:
Về thủ tục tố tụng: Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội tiến hành thụ lý và
giải quyết vụ án theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Thẩm phán, Hội
đồng xét xử, Thư ký và các đương sự thực hiện đúng Bộ luật tố tụng dân sự.
Về nội dung vụ án: Đề nghị HĐXX căn cứ khoản 2 điều 308, sửa án sơ
thẩm. Ghi nhận sự thỏa thuận của các đương sự về việc thuận tình ly hôn. Về
con chung: Anh chị vẫn thỏa thuận, giao cháu Lê Thanh V, sinh ngày
05/02/2014 cho chị Nguyễn Thị H1 trực tiếp nuôi dưỡng. Anh Lê Thanh H có
trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con 10.000.000 đồng/01 tháng, kể từ tháng 7/2024
cho đến khi cháu V đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác. Đối với cháu Lê Thanh
D, sinh ngày 06/02/2006, hiện đã trưởng thành nên Tòa án không xem xét giải
quyết.
- Đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu phản tố chia tài sản chung vợ chồng
của chị Nguyễn Thị H1.
Chị H1 không phải chịu án phí phúc thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
5
[1] Về thủ tục tố tụng: Ngày 06/8/2024, chị H1 làm đơn kháng cáo Bản
án sơ thẩm số 26/2024/HNGĐ-ST ngày 26 tháng 7 năm 2024 của Toà án nhân
dân quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội là trong thời hạn kháng cáo nên Tòa án
nhân dân thành phố Hà Nội chấp nhận xem xét, giải quyết theo thủ tục phúc
thẩm là đúng quy định.
[2] Xét nội dung kháng cáo:
[2.1] Về hôn nhân:
Chị Nguyễn Thị H1 và anh Lê Thanh H kết hôn ngày 11/01/2005 tại
UBND phường C, quận H, Hải Phòng là hôn nhân hợp pháp.
Quá trình chung sống vợ chồng không hợp nhau, anh chị đã sống ly thân.
Tại phiên tòa anh chị đã thuận tình ly hôn nên Hội đồng xét xử công nhận và sửa
án sơ thẩm.
[2.2] Về con chung:
Ghi nhận sự thỏa thuận của anh H, chị H1 là: Giao cháu Lê Thanh V, sinh
ngày 05/02/2014 cho chị Nguyễn Thị H1 trực tiếp nuôi dưỡng. Anh Lê Thanh H
có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con 10.000.000 đồng/01 tháng, kể từ tháng
7/2024 cho đến khi cháu V đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác. Đối với cháu Lê
Thanh D, sinh ngày 06/02/2006, hiện đã trưởng thành nên Tòa án không xem xét
giải quyết.
Anh Lê Thanh H được quyền thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục
con chung không ai được cản trở.
[2.3] Về tài sản chung:
Tại phiên tòa sơ thẩm ngày 26/7/2024 đã ghi nhận sự thỏa thuận của anh
H, chị H1 là: Tài sản chung, công nợ và các quan hệ khác phát sinh từ quan hệ
hôn nhân giữa chị H1, anh H do các bên đương sự không yêu cầu giải quyết nên
HĐXX không xem xét.
Trong bản tự khai ngày 06/11/2024 gửi Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội,
chị H1 đề nghị anh H trả lại mẹ con chị số tiền 600.000.000 đồng đã gạt chị
mang đi chi tiêu cá nhân mà chỉ để giành cho các con học hành. Nếu đã chi tiêu
một số tiền nào đó, đề nghị anh H chuyển phần còn lại để chị chi tiêu đóng học
cho các con. Xét thấy, có thể số tiền 600.000.000 đồng này là tài sản chung vợ
chồng của anh chị trong thời kỳ hôn nhân, anh chị đã thống nhất tại cấp sơ thẩm
không yêu cầu giải quyết, nay cấp phúc thẩm không thể xem xét giải quyết theo
quy định pháp luật. Nếu chị H1 có yêu cầu giải quyết tài sản chung vợ chồng thì
chị khởi kiện vụ án khác theo quy định pháp luật.
Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội tham gia
phiên tòa phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.
[3] Về án phí: Chị H1 phải chịu án phí Hôn nhân và gia đình phúc thẩm
theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ:
6
- Khoản 2 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
- Khoản 1 Điều 51; Điều 55; Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình
năm 2014;
- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội
quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí
Tòa án;
Xử:
1. Sửa bản án sơ thẩm số 26/2024/HNGĐ-ST ngày 26 tháng 7 năm 2024
của Toà án nhân dân quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội.
2. Công nhận sự thỏa thuận của anh Lê Thanh H và chị Nguyễn Thị H1,
cụ thể như sau:
2.1. Anh Lê Thanh H và chị Nguyễn Thị H1 thuận tình ly hôn.
2.2. Về con chung: Giao cháu Lê Thanh V, sinh ngày 05/02/2014 cho chị
Nguyễn Thị H1 trực tiếp nuôi dưỡng. Anh Lê Thanh H có trách nhiệm cấp
dưỡng nuôi con 10.000.000 đồng/01 tháng, kể từ tháng 7/2024 cho đến khi cháu
V đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác. Đối với cháu Lê Thanh D, sinh ngày
06/02/2006, hiện đã trưởng thành nên Tòa án không xem xét giải quyết.
Anh Lê Thanh H được quyền thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo
dục con chung không ai được cản trở.
2.3. Về tài sản chung, công nợ và các quan hệ khác phát sinh từ quan hệ
hôn nhân giữa chị H1, anh H do các bên đương sự không yêu cầu giải quyết nên
HĐXX không xem xét.
2.4. Đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu phản tố chia tài sản chung vợ
chồng của chị Nguyễn Thị H1.
3. Về án phí:
3.1. Về án phí sơ thẩm: Anh Lê Thanh H phải chịu 300.000 đồng tiền án
phí ly hôn sơ thẩm và 300.000 đồng tiền án phí cấp dưỡng nuôi con sơ thẩm.
Xác nhận anh H đã nộp 300.000đ tiền tạm ứng án phí ly hôn theo biên lai thu số
0000194 ngày 27/11/2023 tại Chi cục thi hành án dân sự quận Cầu Giấy. Anh H
được khấu trừ vào tiền án phí mà anh phải nộp, anh còn phải nộp 300.000 đồng
tiền án phí cấp dưỡng nuôi con sơ thẩm.
Trả lại cho chị Nguyễn Thị H1 số tiền 43.000.000 đồng tạm ứng án phí
chia tài sản chung mà chị đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số
0000364 ngày 24/01/2024 tại Chi cục thi hành án dân sự quận Cầu Giấy.
7
3.2. Về án phí phúc thẩm: Chị Nguyễn Thị H1 không phải chịu án phí
phúc thẩm. Trả lại chị Nguyễn Thị H1 số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí
phúc thẩm mà chị Nguyễn Thị H1 đã nộp tại Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí
Tòa án số 0046370 ngày 13 tháng 8 năm 2024 của Chi cục Thi hành án dân sự
quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực thi hành kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- TAND cấp cao tại Hà Nội;
- VKSND thành phố Hà Nội;
- TAND quận Cầu Giấy;
- THADS quận Cầu Giấy;
- Các đương sự;
- UBND xã (phường);
- Lưu HS+ VPTA.
T/M HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà
Trần Ngọc Hòa
Tải về
Bản án số 175/2024/HNGĐ-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 175/2024/HNGĐ-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 14/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 09/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 09/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 09/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 09/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 09/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 09/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Bản án số 26/2024/HNGĐ-PT ngày 02/12/2024 của TAND TP. Đà Nẵng về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
Ban hành: 02/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 02/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 28/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 27/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 27/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 26/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 25/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 22/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 22/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 21/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 20/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm