Bản án số 17/2025/DS-PT ngày 08/01/2025 của TAND tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 17/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 17/2025/DS-PT ngày 08/01/2025 của TAND tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Đắk Lắk
Số hiệu: 17/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 08/01/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Bản án số
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TNH ĐK LK
Bn án s: 17/2025/DS-PT
Ngày 08 - 01 - 2025
V/v tranh chấp hợp đồng vay tài sản
CNG HÒA XÃ HI CH NGHĨA VIỆT NAM
Độc lp - T do - Hnh phúc
NHÂN DANH
C CNG HÒA XÃ HI CH NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LK
- Thành phn Hội đồng xét x phúc thm gm có:
Thm phán - Ch to phiên toà: Bà Lê Th Thanh Huyn.
Các Thm phán: Bà Lưu Thị Thu Hường, bà Nguyễn Thị Nhung.
- Thư phiên toà: Trn Th M Hnh - Thư Toà án nhân dân tỉnh
Đắk Lk.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk tham gia phiên tòa: Bà Lê
Thị Bích Thuỷ - Kiểm sát viên.
Ngày 08 tháng 01 năm 2025, ti tr s Toà án nhân dân tỉnh Đắk Lk xét x
phúc thm công khai v án dân s th s: 411/2024/TLPT-DS ngày 27 tháng 11
năm 2024 v vic “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”. Do bn án dân s sơ thẩm
s: 54/2024/DS-ST ngày 16 tháng 9 năm 2024 của Tán nhân dân huyn Ea Kar,
tỉnh Đắk Lk b kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 442/2024/QĐ-PT ngày
16/12/2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Thị N, sinh năm 1967; Địa chỉ: Thôn A, xã E, huyện
E, tỉnh Đắk Lắk (có mặt).
- Bị đơn: Ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1973 Thị L, sinh năm 1979;
Địa chỉ: Thôn D, xã E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk (vắng mặt).
Người đại diện theo uỷ quyền: Bà Đỗ Thị H1, sinh năm 1982; Địa chỉ: Thôn
E, C, huyện E, tỉnh Đắk Lắk (theo văn bản uỷ quyền ngày 22/01/2024 - mặt).
- Người làm chứng:Nguyễn Thị H2. Nơi cư trú: Thôn A, xã E, huyện E,
tỉnh Đắk Lắk (có mặt).
* Người kháng cáo: Người đại diện theo uỷ quyền của bị đơn Đỗ Thị
H1.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Theo đơn khởi kiện, quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn bà Vũ Thị N
trình bày:
2
Bà N quen biết với vợ chồng ông Nguyễn Văn H, bà Thị L hàng
xóm với nhau và có vài lần cho vợ chồng ông H, bà L vay tiền.
Khi vay tiền thì N đưa giấy vay tiền soạn sẵn và bà L ghi nội dung liên
quan đến việc vay tiền vào các chỗ trống thống nhất như thỏa thuận của hai bên và
ký vào phía dưới phần người vay. Giấy vay tiền chỉ lập 01 bản, bà N là người giữ,
khi nào bà L, ông H trả đủ tiền thì bà N trả giấy vay tiền gốc.
Ngày 03/12/2019, L đến nhà N vay số tiền 150.000.000 đồng, mục đích
để đáo hạn ngân hàng, hẹn một tuần trả, nếu một tuần chưa trả được thì thỏa thuận
đến ngày 30/12/2020 sẽ trả, hai bên có lập giấy vay tiền với nhau, thống nhất viết
trong giấy vay tiền thời hạn trả nợ ngày 30/12/2020 phía dưới phần người vay
bà L ký ghi rõ họ tên Vũ Thị Lệ . Khi đi vay tiền không có mặt ông H nên bà L
đã ký thay vào phía dưới người vay họ tên ông Nguyễn Văn H. Giấy vay tiền này
chỉ lập 01 bản, N người giữ. Khi vay tiền hai bên thỏa thuận miệng lãi suất
với nhau nếu vay một tuần thì lãi suất 3%/tháng, nếu vay 01 năm thì lãi suất
2%/tháng. Đến thời hạn, L, ông H không trả nợ cho N theo thỏa thuận mặc
dù bà N đã đòi nhiều lần.
Khoảng giữa tháng 7/2023 (không nhớ ngày cthể), L cùng Nguyễn
Thị H2 đến nN thì bà N đưa giấy vay tiền gốc ra cho L xem để nhớ khoản
vay còn nợ mà trả cho bà N, nhưng lợi dụng sơ hở nhà bà N khách là chị gái bà
N tên Thị D đến chơi, N không đý nên L đã lấy giấy vay tiền gốc đối
với số tiền 150.000.000 đồng, H2 làm chứng đi về. Sau khi phát hiện bà L
cầm giấy vay tiền gốc về thì bà N điện thoại cho bà L yêu cầu đưa lại giấy gốc
nhưng L cứ khất, không trả lại. Đến ngày 26/7/2023, N đến nhà L nói
chuyện và có ghi âm lại cuộc đối thoại giữa bà N và bà L. Nội dung cuộc đối thoại
thể hiện việc bà N có đưa giấy vay tiền gốc ra và 01 tờ giấy vay tiền photo cho bà
L xem để trả nợ nhưng khi đang nói chuyện thì bà N khách đứng lên nên bà L
cầm giấy gốc đi về yêu cầu L xác định số tiền L vay của N
150.000.000 đồng, không liên quan đến bà H2bà L phải có trách nhiệm trả cho
bà N.
N xác định L chưa trả khoản vay 150.000.000 đồng cho N L
người đang cầm giấy vay tiền gốc. Do đó, bà N yêu cầu ông H, bà L phải trả cho
N số tiền vay 150.000.000 đồng tiền lãi phát sinh. Tuy nhiên, trong quá
trình giải quyết vụ án bà N đã rút một phần yêu cầu khởi kiện, không yêu cầu ông
H trả nợ và không yêu cầu tính tiền lãi.
* Quá trình giải quyết vụ án, bị đơn bà Vũ Thị L người đại diện theo u
quyền của bị đơn là bà Đỗ Thị H1 trình bày:
L thừa nhận trước đây nhiều lần vay tiền bà N nhưng đã trả đầy đủ cả
gốc và lãi. Mỗi lần vay thì N sẽ đưa ra một giấy vay tiền mẫu rồi ghi nội dung
thỏa thuận vay, phía dưới phần người vay L ghi họ tên N yêu cầu
bà L thay tên chồng là ông Nguyễn Văn H. Tất cả các lần vay ông H đều không
tham gia ký kết.
3
L xác định vay của N số tiền 150.000.000 đồng nhưng không nhớ
thời gian vay, mục đích vay để đáo hạn ngân hàng làm ăn kinh tế với lãi suất
3%/tháng, thời hạn trả nợ là 01 năm. Khi đi vay chỉ có L và bà N, hai bên lập
với nhau một giấy vay tiền, phía dưới phần người vay chữ ký, chữ viết ghi họ
tên Thị L chữ ghi họ tên Nguyễn Văn H do L thay; giấy vay tiền
này N giữ. Đến năm 2023 (không nhớ ngày tháng) L gặp N ngoài đường
đã trả cho bà N đủ số tiền vay 150.000.000 đồng, còn số tiền lãi đã trả đủ
hàng tháng là 4.500.000 đồng nhưng không nhớ đã trả được tổng số tiền lãi là bao
nhiêu. Khi trả lãi và gốc không viết giấy tờ với nhau không ai chứng kiến.
Ngoài ra, khi trả tiền cho N ngoài đường nên L không lấy được giấy vay
gốc. Một thời gian sau, bà L cùng Nguyễn Thị H2 đến nhà yêu cầu N đưa
giấy gốc tL cầm về và hủy đi. Giấy vay tiền đối với số tiền 150.000.000 đồng
chỉ 01 bản duy nhất, L đã hủy bỏ, hiện nay không còn. Các khoản vay của
N đều do một mình L vay, không liên quan đến ông H đối với khoản vay
150.000.000 đồng trên L đã trả đủ cho N cả lãi gốc, hiện nay không còn
nợ bất cứ khoản tiền nào. Do đó, bị đơn không đồng ý toàn bộ yêu cầu khởi kiện
của bà N, không đồng ý trả số tiền vay là 150.000.000 đồng.
* Quá trình giải quyết vụ án, cũng như tại phiên tòa người làm chứng bà
Nguyễn Thị H2 trìnhy:
H2 vớiN, bà L là hàng xóm, m ăn quen biết, giữa các bên không
mâu thuẫn với nhau. H2 được biết L vay N số tiền 150.000.000 đồng
vào ngày 03/12/2019, hẹn vài ngày sẽ trả, vì khi đi vay có bà H2 đi cùng. Khoảng
05 tháng sau (tháng 5/2020), bà H2 nghe bà L nói đã trả số tiền vay này cho bà N
nhưng khi H2 đến trả nợ cho bà N thì bà H2 vẫn thấy giấy vay tiền của bà L
chỗ N nên H2 có hỏi L thì L cho rằng đã trả rồi. Tuy nhiên, thời gian
sau đó H2 vẫn thấy N đến nL nhiều lần để yêu cầu trả nợ mỗi lần
đến nhà bà L thì bà N hay ghé qua nhà bà H2 có nói với bà H2bà L lại khất
nợ.
Đến khoảng tháng 7/2023 L rủ H2 vào nN, khi vào nhà N
đưa ra hai tờ giấy vay tiền, một tgiấy vay tiền gốc một tgiấy vay tiền
photo rồi bà N nói “chị photo ra một tờ đây, chị định gửi H2 đưa về cho em để em
lo trả nợ cho chị, mấy bữa nay ch đến nhà em không gặp được em, vừa nói
xong có bà Vũ Thị D đến chơi nên bà N đứng dậy chào khách thì bà L lấy tờ giấy
vay tiền gốc gấp nhỏ lại cầm trên tay rồi nói bà H2 đi về. Khi về đến nhà thìL
m giấy vay tiền ra và nói “hôm nay lấy được giấy gốc đây rồi, từ nay hết đòi
nợ, suốt ngày gọi điện đòi”, rồi L tgiấy vay tiền gốc đi. Đến tối thì N
điện thoại cho H2 để hỏi sao cầm giấy vay gốc về thì bà H2 mới trả lời với bà
N rằng L đã xé rồi”, ngay hôm sau bà N có đến nhà bà H2 hỏi bà H2 “tiền chưa
trả sao lại giấy vay gốc của chị, như vậy thì tôi sẽ đi kiện”. Sau đó bà H2 nói
lại cho bà L nghe thì bà L nói với bà H2 rằng “giấy gốc đã mất rồi thì có mà kiện
củ khoai”. Ngoài ra, khoản vay 150.000.000 đồng L vay của bà N không liên
quan đến bà H2.
4
Tại Bản án dân sự thẩm số 54/2024/DS-ST ngày 16 tháng 9 m 2024
Quyết định sửa chữa, bổ sung Bản án thẩm số: 32/2024/QĐ-SCBSBA ngày
11 tháng 12 năm 2024 của Toà án nhân dân huyện Ea Kar, tỉnh Đắk Lắk đã
quyết định:
Áp dụng Điều 463, khoản 1 Điều 466 Bộ luật dân sự;
Tuyên xử:
- Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Vũ Thị N.
Buộc bị đơn bà Vũ Thị L phải trả cho nguyên đơn bà Vũ Thị N số tiền vay là
150.000.000
đồng.
- Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Vũ Thị N về việc
buộc bị đơn ông Nguyễn Văn H, Thị L phải trả số tiền lãi 118.856.000
đồng và buộc ông Nguyễn Văn H có trách nhiệm cùng bà Vũ Thị L trả cho bà Vũ
Thị N số tiền vay 150.000.000
đồng.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm n tuyên về án phí và quyền kháng cáo của các
đương sự theo quy định của pháp luật.
Ngày 02/10/2024, người đại diện theo uỷ quyền của bị đơn là Đỗ Thị H1
kháng cáo toàn bộ bản án thẩm, đề nghị Toà án cấp phúc thẩm xét xử theo hướng
không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, xem xét việc áp dụng pháp
luật của Toà án cấp thẩm, huỷ bản án sơ thẩm để chuyển hồ qua quan điều
tra làm hành vi làm giả giấy tờ, chữ nhằm chiếm đoạt tài sản của nguyên đơn.
Tại phiên tòa, nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, người kháng
cáo xin rút nội dung kháng cáo của ông Nguyễn Văn H do Bản án sơ thẩm không
buộc ông H phải trả nợ cho nguyên đơn.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk phát biểu quan điểm:
Về tố tụng: Trong quá trình thụ lý giải quyết vụ án Thẩm phán, Hội đồng xét
xử, Thư ký, các đương sự đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 1 Điều 289 Bộ
luật tố tụng dân sự, đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của người đại diện
theo uỷ quyền của bị đơn ông Nguyễn Văn H. Áp dụng khoản 1 Điều 308 Bộ luật
tố tụng dân sự, không chấp nhận kháng cáo của người đại diện theo uỷ quyền của
bị đơn bà Vũ Thị L, giữ nguyên Bản án sơ thẩm số 54/2024/DS-ST ngày 16 tháng
9 năm 2024 của Toà án nhân dân huyện Ea Kar, tỉnh Đắk Lắk.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập trong hồ vụ án, được
thẩm tra tại phiên tòa, kết quả tranh luận tại phiên tòa, lời trình bày của các đương
sự, ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định:
5
[1] Về tố tụng: Đơn kháng cáo của người đại diện theo uỷ quyền của bđơn
Đỗ Thị H1 nộp trong thời hạn luật định, đã nộp tạm ứng án phí nên vụ án
được xem xét theo trình tự phúc thẩm.
Tại phiên toà, Đỗ Thị H1 xin rút một phần kháng cáo của bđơn ông
Nguyễn Văn H do Bản án sơ thẩm không buộc ông H trả nợ cũng như chịu án phí,
xét việc rút một phần kháng cáo tự nguyện nên cần đình chỉ xét xử phúc thẩm
đối với kháng cáo của ông H.
[2] Về nội dung:
[2.1] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn thấy: Nguyên đơn Vũ Thị N
trình bày: Vào ngày 03/12/2019, L vay của bà N số tiền 150.000.000 đồng
để đáo hạn ngân hàng, hẹn đến ngày 30/12/2020 trả, khi vay bà L tự viết nội dung
vay vào mẫu giấy do N đưa ttên L, đồng thời thay tên chồng
Nguyễn Văn H, giấy vay chỉ lập 01 bản duy nhất do N giữ bản gốc, tuy nhiên
hiện nay bản gốc không còn do vào tháng 7/2023, khi L H2 đến nhà N,
sau đó bà L lợi dụng lúc bà N hở đã lấy lại giấy vay gốc, chỉ còn bản photo đã
cung cấp cho Toà án file ghi âm ngày 26/7/2023 L thừa nhận toàn bộ việc
vay mượn cũng như tự ý lấy lại giấy vay mà chưa thực hiện trả nợ cho bà N.
Lời khai của bị đơn Thị L trong quá trình giải quyết vụ án sbất
nhất, tại biên bản kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ ngày
23/4/2024 (BL 42-43), L thừa nhận giấy vay tiền photo nguyên đơn cung
cấp phía dưới phần người vay là chviết, chữ ký của vợ chồng bà L và đúng là vợ
chồng bà L vay của N số tiền 150.000.000 đồng nhưng khoản vay này bà L
đã trả cho bà N; tuy nhiên vsau L cho rằng chứng cứ này bị nhàu, mờ, tẩy xoá
phần lãi và chữ ký, chữ viết phía dưới người vay không phải chữ ký của L, yêu
cầu giám định chữ ký. Tuy nhiên căn cứ vào những lời khai chốt lại cuối cùng của
L thừa nhận trước đây vay tiền của N nhiều lần, trong đó lần vay số
tiền 150.000.000 đồng để đáo hạn ngân hàng với thời hạn 01 năm nhưng không
nhớ thời gian vay, cách thức vay tiền phù hợp như nguyên đơn trình bày, giấy
vay gốc chỉ lập 01 bản do N giữ. N cho rằng, mặc L chưa trả tiền
nhưng khi L H2 đến nhà N, N đưa giấy vay tiền gốc cho L
xem để về lo trả nợ cho N, lợi dụng sơ hở khi bà N đứng dậy ra khỏi chỗ ngồi
cùng các L, H2 để đón khách bà L đã lấy tờ giấy vay tiền gốc về tiêu hủy.
Xét lời khai của N phù hợp với nội dung tại file ghi âm, nội dung dịch thuật
bà N cung cấp. Xét quá trình tố tụng lúc đầu L thừa nhận giọng nói trong
file ghi âm là của bà, văn bản dịch thuật có nội dung phù hợp với giọng nói của
L.
Người làm chứng Nguyễn Thị H2 xác định sự việc L rủ H2 vào
nhà bà N và bà N có đưa ra 02 tgiấy vay tiền của bà L cho bà L xem, trong đó
01 bản gốc 01 bản photo, khi nhà bà N khách L lợi dụng hở lấy giấy
gốc và đi về, sau đó bỏ. Xét thấy H2 không mối quan hệ với các bên
đương sự, lời khai của bà H2 phù hợp với lời khai của N, phù hợp với nội dung
file ghi âm do N cung cấp các nội dung nói chuyện giữa N L (BL
6
32) như: N nói “…nhưng mà bữa hôm em đến nchị, chị cũng người thật
việc thật chị đưa giấy vay tiền gốc ra cho em xem”…“chị cũng một tờ photo
chớ”… “chị nói là đưa tờ photo này về cho em coi để trả nợ cho chị”…”đang nói
chuyện thì chị có khách, chđứng dậy chào khách thì em đổi giấy vay tiền gốc cầm
đi về” … “em vay chị thì giờ em có trách nhiệm phải trả”… “mà có đúng là bữa
hôm em vay chị 150 triệu đúng không?”… “em vô tận nhà chị lấy đúng không?”
“em ghi chồng Nguyễn Văn H em là Thị L…rồi chị đưa tiền cho em 150
triệu đúng không?”. Trước các câu nói này thì bà L trả lời “dạ” vâng” mà không
có ý kiến phản đối, chỉ nại rằng bà H2 nói nhận trả cho bà N thay cho bà L nhưng
các bên đều thừa nhận khoản vay này không liên quan đến bà H2. Bà L cho rằng,
việc ghi âm không thời gian, có dấu hiệu cắt ghép, nội dung không rõ ràng,
N nói nhanh, tiếng cãi nhau ồn ào, lúc đó tinh thần L không ổn định sợ
gia đình chồng biết chuyện nên L chỉ “dạ” “vâng” theo phép lịch sự cho qua
chuyện. Xét thấy lời khai của bị đơn là không có căn cứ chấp nhận, vì đứng trước
các nội dung bất lợi mà N đang nói thì bà L không có ý kiến phản đối, bác bỏ,
chỉ khi bà L nghĩ bà N đang ghi âm làm bằng chứng thì L mới không nói nữa.
Sau đó, bà L yêu cầu giám định file ghi âm là không cần thiết.
Xét lời khai của N phù hợp với sự thật khách quan, phù hợp với nội dung
file ghi âm, bản dịch thuật và phù hợp với lời khai của người làm chứng H2. Do
đó, bản án sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ.
Xét lời khai của L cho rằng đã thanh toán hết nợ gốc nợ lãi cho N
nhưng không tài liệu chứng cứ chứng minh, không được nguyên đơn thừa nhận.
Do đó, không có căn cứ để chấp nhận.
Đối với yêu cầu buộc ông H nghĩa vụ liên đới cùng L trả nợ cho N
thì tại phiên toà thẩm N đã rút một phần yêu cầu khởi kiện đối với ông H, nội
dung này là phù hợp với lời trình bày của các bên nên cấp sơ thẩm không buộc ông
H trả nợ là phù hợp.
[2.2 ] Xét kháng cáo của bđơn cho rằng cấp thẩm vi phạm thủ tục tố tng,
thấy rằng:
Sau khi tạm ngưng phiên toà từ ngày 28/8 đến ngày 16/9/2024, Toà án cấp
thẩm đã triệu tập nguyên đơn, bị đơn người làm chứng để đối chất làm nội
dung vụ án nhưng bị đơn không tham gia nên việc đối chất không thành, Toà án
chỉ ghi nhận lại lời khai của N, H2, ngoài ra không thu thập thêm tài liệu,
chứng cứ nào khác. Tại phiên toà ngày 16/9/2024 người đại diện theo uỷ quyền
của bị đơn yêu cầu được tiếp cận các chứng cứ này, nhưng Hội đồng xét xử
thẩm gây khó dễ nên bị đơn bỏ về. Xét thấy, nội dung kháng cáo của bị đơn
không căn cứ, bị đơn đã không thực hiện đúng nghĩa vụ của mình trong quá
trình tham gia tố tụng, Hội đồng xét xử thẩm đã thực hiện đúng quy định tại
khoản 1 Điều 254 Bộ luật Tố tụng dân sự, trong trường hợp cần thiết hoặc đề
nghị của đương sự thì Hội đồng xét xử sẽ công bố các tài liệu chứng cứ trong quá
trình xét xcông bố ngay tại phiên tòa. Tuy nhiên do bị đơn đã bvề không
tham gia phiên tòa nên Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử là phù hợp.
7
Đối với việc người đại diện theo uỷ quyền của bị đơn Đỗ Thị H1 nộp
đơn đề nghị thay đổi Thẩm phán – Chủ toạ phiên toà thì nội dung này H1 không
trình bày trực tiếp tại phiên toà, do trước đó đã bỏ ra về, bà H1 nộp đơn khi phiên
toà đã kết thúc nên đơn được xử công văn đến và ngày 17/9/2024 đã có văn bản
trả lời cho đương sự là đúng quy định.
[3] Từ những phân tích và nhận định trên, xét thấy Toà án cấp sơ thẩm chấp
nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc bà L phải trả cho bà N số
tiền 150.000.000 đồng căn cứ. Tại cấp phúc thẩm, bị đơn không cung cấp
được chứng cứ mới làm thay đổi bản chất ván nên Hội đồng xét xử phúc thẩm
không có cơ sở xem xét, cần giữ nguyên quyết định của Bản án sơ thẩm.
[4] Về án phí: Do kháng cáo không được chấp nhận nên L phải chịu án phí
dân sự phúc thẩm. Ông H rút đơn kháng cáo tại phiên toà nên cũng phải chịu án
phí phúc thẩm theo quy định.
[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị
có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
- Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 289 Bộ luật tố tụng dân sự:
Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của bà Đỗ Thị H1 người đại
diện theo uỷ quyền của bị đơn ông Nguyễn Văn H.
- Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự:
Không chấp nhận kháng cáo của Đỗ Thị H1 người đại diện theo uỷ
quyền của bị đơn bà Vũ Thị Lệ .
- Giữ nguyên Bản án dân sự thẩm số 54/2024/DS-ST ngày 16 tháng 9 năm
2024 của Toà án nhân dân huyện Ea Kar, tỉnh Đắk Lắk.
Tuyên xử: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Vũ Thị
N.
[1] Buộc bị đơn bà Vũ Thị L phải trả cho nguyên đơn bà Thị N số tiền vay
là 150.000.000 đồng (một trăm năm mươi triệu đồng).
[2] Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Vũ Thị N vviệc
buộc bị đơn ông Nguyễn Văn H, Thị L phải trả số tiền lãi 118.856.000
đồng (một trăm mười tám triệu tám trăm năm mươi sáu nghìn đồng) buộc ông
Nguyễn Văn Htrách nhiệm cùngVũ Thị L trả cho bà Vũ Thị N số tiền vay
150.000.000đồng (một trăm năm mươi triệu đồng).
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bị đơn
Thị L còn phải trả cho nguyên đơn khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi
hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự.
[3] Về án phí:
8
- Án phí dân sự sơ thẩm: Bị đơn bà Vũ Thị L phải chịu 7.500.000 đồng (bảy
triệu năm trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
Hoàn trả cho nguyên đơn bà Vũ Thị N số tiền 6.721.400 đồng (sáu triệu bảy
trăm hai mươi mốt nghìn bốn trăm đồng) theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí
Tòa án số AA/2022/0004941 ngày 15/01/2024 của Chi cục thi hành án dân sự
huyện E.
- Án pdân sự phúc thẩm: Ông Nguyễn Văn H Thị L mỗi người
phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự phúc thẩm, được khấu
trừ trong số tiền 600.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo các biên lai thu số
AA/2023/0000721 AA/2023/000072 ng ngày 14/10/2024 tại Chi cục Thi
hành án dân sự huyện E.
[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị
có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- TAND ti cao;
- TAND cp cao tại Đà Nẵng;
- VKSND tỉnh Đắk Lk;
- TAND huyện Ea Kar;
- CCTHADS huyện E;
- Các đương sự;
- Lưu.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT X PHÚC THM
THM PHÁN - CH TA PHIÊN TÒA
(đã ký)
Lê Thị Thanh Huyền
Tải về
Bản án số 17/2025/DS-PT Bản án số 17/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 17/2025/DS-PT Bản án số 17/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất