Bản án số 144/2025/DS-PT ngày 06/03/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 144/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 144/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 144/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 144/2025/DS-PT ngày 06/03/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND cấp cao tại TP.HCM |
Số hiệu: | 144/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 06/03/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Giữ nguyên án sơ thẩm |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Bản án: 144/2025/DS-PT
Ngày 06 - 3 - 2025
V/v “Tranh chấp quyền sử dụng đất,
(công nhận quyền sử dụng đất); yêu
cầu thoát dỡ di dời tài sản để giao trả
đất; yêu cầu hủy giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:
Các Thẩm phán:
Ông Nguyễn Văn Tửu
Ông Phan Đức Phương
Bà Lê Thị Tuyết Trinh
- Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Phương Hà - Thư ký Tòa án nhân dân cấp
cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
tham gia phiên tòa: Ông Lê Công Thành - Kiểm sát viên cao cấp.
Ngày 06 tháng 3 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành
phố Hồ Chí Minh mở phiên tòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số:
955/2024/TLPT-DS ngày 02 tháng 12 năm 2024 về việc “Tranh chấp quyền sử
dụng đất (công nhận quyền sử dụng đất); yêu cầu thoát dỡ di dời tài sản để giao
trả đất; yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (sau đây gọi tắt là
“GCN.QSDĐ”)”. Do Bản án dân sự sơ thẩm số 32/2024/DS-ST ngày 14 tháng 5
năm 2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 209/2025/QĐ-PT ngày
06 tháng 02 năm 2025, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà La Thị L, sinh năm 1949; Địa chỉ: Ấp T, xã P, huyện V,
tỉnh Kiên Giang (có mặt).
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bà L: Luật sư Nguyễn Việt B -
Văn phòng L1, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh K (có mặt).
2. Bị đơn: Ông La Văn T, sinh năm 1970; Địa chỉ: Ấp T, xã P, huyện V, tỉnh
Kiên Giang (có mặt).
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ông T: Luật sư Phạm Văn Triều
A và Luật sư Đoàn Công T1 - Văn phòng L2, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh K (có mặt).
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
2
3.1. Bà Trương Thị T2, sinh năm 1974 (vợ ông T); Địa chỉ: Ấp T, xã P,
huyện V, tỉnh Kiên Giang (có đơn xin xét xử vắng mặt).
3.2. Ủy ban nhân dân (sau đây gọi tắt là “UBND”) huyện V; Địa chỉ trụ sở:
Khu phố V, thị trấn V, huyện V, tỉnh Kiên Giang.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Lê Văn Đ; Chức vụ: Chủ tịch (có đơn
xin xét xử vắng mặt).
- Người kháng cáo: Bị đơn ông La Văn T.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
- Nguyên đơn bà La Thị L trình bày: Về nguồn gốc đất tranh chấp hiện nay
với ông La Văn T là vào năm 1997 bà nhờ anh ruột là La Tòng T3 (còn tên gọi
khác là La Tùng T4 - đã chết) mua giùm, đất mua của ông Trần Văn T5 (tên gọi
khác là Tám Đ1) là 08 công tầm 3m, với giá là 52 chỉ vàng 24kra. Do bà không có
hộ khẩu ở địa phương nên nhờ cháu ruột là La Văn T (ông T là con của ông T4)
đứng tên giùm trên GCN.QSDĐ. Sau khi nhận chuyển nhượng đất thì bà cho ông
La Văn T6 (là anh ruột của ông T) thuê sử dụng được hơn 10 năm, tiền thuê thì
ông T6 trả cho bà, khoảng năm 2013 thì bà có kêu ông T về sống và làm đất nên
bà không cho ông T6 thuê nữa mà lấy đất giao cho ông T trực tiếp sử dụng. Đến
năm 2018 thì bà yêu cầu ông T sang tên trên g GCN.QSDĐ nhưng ông T không
đồng ý.
Nay nguyên đơn yêu cầu hủy GCN.QSDĐ do ông T đứng tên, yêu cầu ông
T, bà T2 tháo dỡ tài sản trên đất là căn chòi để giao trả đất, yêu cầu công nhận
quyền sử dụng đất. Diện tích đất theo đo đạc thực tế là 10.559m
2
.
- Bị đơn ông La Văn T trình bày: Bà L là cô ruột của ông, bà L có xin cha
ông cho ông về ở chung với bà L, trong thời gian ở chung từ khoảng năm 18 tuổi
đến năm 25 tuổi là 07 năm, ông đi làm ngư phủ có tiền đều đưa cho bà L cất giữ.
Vào năm nào ông không nhớ thì bà L có đưa vàng nhờ cha ông là La Tòng T3 (chết
năm 2015) mua 1 phần đất là 08 công tầm 3m của ông Trần Văn T5 (T) để cho ông
canh tác, ông sử dụng khoảng 3-4 năm, sau đó thì vợ chồng ông đi nơi khác để làm
ăn nên giao đất lại cho ông T6 thuê sử dụng khoảng 12 năm, tiền thuê đất thì bà L
nhận vợ chồng ông không nhận đồng nào, đến năm 2013 thì bà L kêu ông về sống
và cất nhà tạm trên đất. Năm 2013 ông tự liên hệ để được cấp GCN.QSDĐ. Đến
năm 2018 giữa ông với bà L mâu thuẫn nên không ở chung nữa và tranh chấp đến
nay. Trường hợp Tòa án chấp nhận yêu cầu của bà L về việc buộc vợ chồng ông
trả đất thì đối với tài sản trên đất là căn chòi thì ông bà sẽ tự nguyện tháo dỡ di dời
và không yêu cầu bồi thường.
Nay ông không đồng ý theo yêu cầu khởi kiện của bà L, vì trước đây bà L
có cho ông đứng tên giùm và có hứa khi nào bà L già thì ông chăm sóc cho bà L,
xem như bà L đã cho ông rồi và ông cũng đã được Nhà nước cấp GCN.QSDĐ nên
không đồng ý trả lại.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày:
1. UBND huyện V có ý kiến tại Công văn số 38/TNMT-ĐĐ, ngày
3
06/7/2022 Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện V (BL 127, 129) như sau:
Phần đất tranh chấp theo tờ trích đo địa chính số 11-2022 đã được cấp GCN.QSDĐ
cho ông La Văn T đứng tên. Cấp cho cá nhân, phần đất thuộc thửa số 331, tờ bản
đồ số 01, mục đích sử dụng là nuôi trồng thủy sản (NTS), đúng trình tự, thủ tục
theo quy định pháp luật…
2. Bà Trương Thị T2 có ý kiến: Thống nhất với ý kiến của chồng là ông La
Văn T, không trình bày gì thêm (BL 96, 109).
- Người làm chứng:
1. Ông Trần Văn T5 trình bày (BL 27, 49): Ông không có bà con thân thích
gì với bà L, ông T và cũng không có mâu thuẫn gì. Năm nào thì ông không nhớ rõ,
ông có một phần đất là khoảng 08 công. Cha của ông T là La Tòng T3 có hỏi ông
để mua đất giùm cho bà L, khi mua đất thì vàng là do bà L đưa cho ông T3 trả cho
ông, với giá là 52 chỉ vàng 24kra, thời điểm mua đất thì bà L ở chung với ông T,
khi mua đất xong thì bà L thống nhất cho ông T đứng tên GCN.QSDĐ cho bà L.
2. Ông La Văn T6 trình bày (BL 51): Bà L là cô ruột của ông và ông T là
em ruột của ông. Từ trước đến nay ông không có mâu thuẫn gì với họ. Về nguồn
gốc đất tranh chấp giữa bà L với ông T thì vào thời gian nào ông không nhớ rõ, cha
ông là La Tòng T3 có mua giùm cho bà L 08 công đất, tiền vàng là của bà L. Thời
điểm mua thì bà L sống chung với ông T. Sau khi bà L nhận chuyển nhượng của
ông Trần Văn T5 (ông T5 điệu) thì bà L cho vợ chồng ông thuê khoảng vài năm
(nhớ không rõ), sau đó ông giao đất lại cho ông T canh tác cho đến nay. Tiền thuê
đất của bà L thì vợ chồng ông đã trả đủ cho bà L. Do bà L ở chung với ông T nên
bà L để cho ông T đứng tên quyền sử dụng đất.
3. Ông La Tòng H trình bày (BL 30): Ông là anh ruột của bà L và là chú
ruột của ông T. Ông không có mâu thuẫn gì với hai bên. Khoảng năm nào thì ông
không nhớ rõ, bà L có nhờ ông La Tòng T3 (là cha ông T) mua giùm phần đất của
ông Trần Văn T5 (ông Tám Đ1) là 08 công, do bà L chưa có hộ khẩu ở địa phương
nên có nhờ con ông T3 là La Văn T đứng tên giấy chứng nhận giùm cho bà.
Tại phiên sơ thẩm tòa các đương sự trình bày ý kiến:
- Nguyên đơn trình bày: Số vàng bà đưa cho ông T3 để trả cho ông T5 là 52
chỉ vàng 24kra, không có liên quan gì đến số tiền ông T đi Ngư phủ và bà cũng
không có giữ tiền gì của ông T. Nếu ông T trả đất thì bà đồng ý hỗ trợ công sức
trông coi là 50.000.000đ.
- Bị đơn ông T trình bày: Vàng là do bà L đưa cho ông, để ông đưa cho cha
ông (là ông T3) trả tiền mua đất của ông T5, ông đứng tên giùm trên giấy chứng
nhận; Trong thời gian ông đi Ngư phủ thì có gửi tiền cho bà L giữ giùm nhưng
không rõ là bao nhiêu. Bà L đưa vàng mua đất là lấy từ tiền của ông gửi. Ông
không có mâu thuẫn gì với ông T6, ông H và ông T5. Đất và GCN.QSDĐ trước
đây ông có thế chấp cho Ngân hàng N – Chi nhánh huyện V để vay tiền, nhưng
vào ngày 21/4/2023 thì ông đã trả tiền xong và hiện nay ông đang giữ bản gốc giấy
chứng nhận, không cầm cố thế chấp cho ai. Căn chòi trên đất là chỉ để nghỉ ngơi
khi làm đất chứ không có ở. Đất dùng để nuôi tôm quản canh, khoảng 4-6 tháng
4
nữa mới thu hoạch.
* Các đương sự thống nhất với Tờ trích đo địa chính số TĐ 11-2022, ngày
07/3/2022 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện V và kết quả thẩm định
giá theo chứng thư ngày 29/9/2022 của Công ty TNHH MTV B1 để làm cơ sở giải
quyết vụ án. Không yêu cầu xem xét và thẩm định giá lại.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 32/2024/DS-ST ngày 14/5/2024 của Tòa án
nhân dân tỉnh Kiên Giang, đã quyết định:
Căn cứ vào các điều: 34, 37, khoản 1 Điều 38, 144, 147, 157, 165 Bộ luật
Tố tụng dân sự năm 2015;
Áp dụng các điều: 166, 232, 237 Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 166 Luật
Đất đai năm 2013.
Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu,
miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà La Thị L đối với ông La Văn T.
Công nhận cho bà La Thị L được sử dụng phần đất theo đo đạc thực tế có
diện tích 10.559,3m
2
. Đất tọa lạc tại ấp T, xã P, huyện V, tỉnh Kiên Giang.
Cơ quan có thẩm quyền, Ủy ban nhân dân huyện V được thu hồi giấy
CNQSD đất số BM 867029, ngày 16/5/2013 cấp cho ông La Văn T khi có yêu cầu.
Ông La Văn T có nghĩa vụ giao nộp giấy CNQSD đất số BM 867029, ngày
16/5/2013 cấp cho ông La Văn T đứng tên khi cơ quan có thẩm quyền có yêu cầu.
Trường hợp ông La Văn T không tự nguyện giao nộp thì Ủy ban nhân dân huyện
V, cơ quan có thẩm quyền có quyền hủy bỏ GCN.QSDĐ số BM 867029, ngày
16/5/2013 cấp cho ông La Văn T đứng tên theo quy định của Luật Đất đai.
Bà La Thị L có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền, UBND huyện V, cấp
GCN.QSD cho bà La Thị L đứng tên đối với phần đất theo đo đạc thực tế có diện
tích 10.559,3m
2
. Đất tọa lạc tại ấp T, xã P, huyện V, tỉnh Kiên Giang. Chi tiết các
cạnh và vị trí của thửa đất được căn cứ theo Tờ trích đo địa chính số TĐ 11-2022,
ngày 07/3/2022 của Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai huyện V.
2. Buộc ông La Văn T và bà Trương Thị T2 phải tháo dỡ, di dời tài sản trên
phần đất tranh chấp để giao đất cho bà La Thị L sử dụng. Tài sản trên đất là căn
chòi do ông T cất năm 2018 bằng cây lá, nền đất chiều ngang 3m, chiều dài 6m.
Vị trí chi tiết được căn cứ theo Biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 04/3/2022
do Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Thuận lập.
Ông La Văn T và bà Trương Thị T2 được quyền lưu cư trên đất trong thời
hạn 6 (sáu) tháng để thu hoạch xong vụ tôm, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
3. Bà La Thị L giao lại cho ông La Văn T giá trị công sức bảo quản, giữ gìn,
tôn tạo (đúng tên giùm trên GCN.QSDĐ) với số tiền là 104.745.000đ (Một trăm lẻ
bốn triệu, bảy trăm bốn mươi lăm nghìn đồng).
5
Ngoài ra án sơ thẩm còn quyết định về chi phí tố tụng, án phí sơ thẩm, lãi
suất, quyền và nghĩa vụ trong thi hành án và quyền kháng cáo của các đương sự
theo luật định.
- Ngày 14 tháng 5 năm 2024, bị đơn ông Lê Văn T7 có đơn kháng cáo bản
án sơ thẩm với nội dung kháng cáo:
Phần đất 10.559m
2
mà bà La Thị L yêu cầu bị đơn trả lại nguyên đơn, có
nguồn gốc của cha bị đơn ông La Tòng T3 mua của ông Tám Đ1 cho bị đơn đứng
tên sử dụng, thời gian mua vào năm 1997, số tiền (hoặc vàng) mua bao nhiệu bị
đơn không rõ kể cả số vàng của bà L đưa cho cha bị đơn bao nhiêu thì bị đơn cũng
không biết. Xét thấy cấp sơ thẩm tuyên buộc bị đơn giao toàn bộ số đất nói trên
cho nguyên đơn và bị đơn được thu hưởng 30% tiền cải tạo đất bằng 104.700.000
đồng là hẹp cho bị đơn, bởi:
Bị đơn là cháu gọi nguyên đơn bằng cô (bà L cô ruột của bị đơn). Do nguyên
đơn không có chồng con, nên cha bị đơn và nguyên đơn đã thỏa thuận cho bị đơn
về sống chung với nguyên đơn như là con trong gia đình. Kể từ khi bị đơn về sống
chung với nguyên đơn (năm 1998) cho đến năm 2021 (khi nguyên đơn đuổi vợ
chồng bị đơn ra khỏi nhà) là 33 năm, bị đơn đã đầu tư tiền và công sức vào đất là
chủ yếu, nguyên đơn không có công sức cải tạo đất. Mặt khác, phần tiền hoặc vàng
mà nguyên đơn góp cùng cha bị đơn mua đất cũng là tiền thu nhập của bị đơn lúc
bị đơn chưa có vợ, sống chung với nguyên đơn. Ngoài số đất nói trên, bị đơn không
có đất nào khác để canh tác nuôi sống gia đình vợ con bị đơn.
Nên bị đơn kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại, công nhận
cho bị đơn được quyền sử dụng ½ diện tích đất nói trên để vợ chồng bị đơn và các
con có đất sản xuất.
- Tại Bản ý kiến ngày 20 tháng 6 năm 2024, nguyên đơn La Thị L trình bày:
Nguồn gốc đất tranh chấp hiện nay với bị đơn là vào năm 1997 nguyên đơn
nhờ anh ruột là ông La Tòng T3 (tên khác là: La Tùng T4 - đã chết) mua giùm, đất
mua của ông Trần Văn T5 (tên khác: Tám Điệu) là 08 công tầm 3m, với giá 52 chỉ
vàng 24k. Do nguyên đơn không có hộ khẩu ở địa phương nên nhờ cháu ruột là La
Văn T (là con của ông T4) đứng tên giùm GCN.QSDĐ. Sau khi nhận chuyển
nhượng đất thì nguyên đơn cho La Văn T6 ) là anh ruột của bị đơn) thuê sử dụng
được hơn 10 năm, tiền thuê nhà thì ông T6 trả cho nguyên đơn, khoảng năm 2013
thì nguyên đơn có kêu bị đơn về sống và làm đất nên nguyên đơn không cho ông
T6 thuê nữa mà lấy đất giao cho ông T trực tiếp sử dụng. Đến năm 2018 thì nguyên
đơn yêu cầu bị đơn sang tên trên GCN.QSDĐ nhưng ông T không đồng ý. Vì thế,
phát sinh tranh chấp.
Theo quyết định của án sơ thẩm thì nguyên đơn nhận thấy hợp lý nên đồng
ý, cho nên nguyên đơn không đồng ý đối với kháng cáo của bị đơn, yêu cầu Hội
đồng xét xử giữ nguyên án sơ thẩm.
* Tại phiên tòa phúc thẩm:
6
- Ông La Văn T là bị đơn có kháng cáo, trình bày: Giữ nguyên lý do và yêu
cầu kháng cáo, yêu cầu Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị đơn như nêu
trên.
- Luật sư Phạm Văn Triều A bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ông T
trình bày: Đồng ý theo nội dung kháng cáo của ông T; việc ông T được cấp
GCN.QSDĐ là đúng trình tự thủ tục theo luật định; bà L cho rằng do bà không có
hộ khẩu ở nơi có đất nên mới nhờ ông T đứng tên giùm GCN.QSDĐ là không đúng
sự thật vì Luật Đất đai không có quy định phải có hộ khẩu tại nơi có đất mới được
cấp GCN.QSDĐ; ông T là cháu gọi bà L bằng cô, do bà L không có chồng con,
nên ông T về sống chung với bà L như con. Việc cho ông T đứng tên GCN.QSDĐ
là do cha ông T và bà L tự thỏa thuận với nhau, hứa cho ông T đất khi bà L về già.
Quá trình sống chung, ông T là người trực tiếp canh tác, quản lý, tôn tạo, cất nhà
trên đất, nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của ông T như nêu trên,
vì ông T không còn đất canh tác.
- Luật sư Đoàn Công T1 bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ông T trình
bày: Bà L là người cao tuổi, khoản tiền bà L mua đất có một phần đóng góp từ
công sức của ông T trong thời gian sống chung; việc bị đơn yêu cầu được thụ hưởng
½ diện tích đất là có cơ sở để ông T có đất để sinh sống, canh tác.
- Nguyên đơn bà La Thị L cùng Luật sư Nguyễn Việt B trình bày: Giữ nguyên
yêu cầu khởi kiện, yêu cầu Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của ông
La Văn T, giữ nguyên án sơ thẩm.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
phát biểu quan điểm giải quyết vụ án:
- Về tố tụng: Thông qua kiểm sát việc giải quyết vụ án, từ khi thụ lý đến thời
điểm hiện nay thấy rằng, Thẩm phán, Hội đồng xét xử và những người tham gia tố
tụng đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, không có vi phạm.
- Về nội dung: Khi giải quyết Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét, đánh giá toàn
diện chứng cứ, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm là có căn cứ, đúng quy định của
pháp luật. Tại cấp phúc thẩm không có căn cứ nào mới, vì thế đề nghị Hội đồng
xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị đơn ông La Văn T, giữ nguyên án sơ
thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ có tại hồ sơ vụ án, lời trình bày của các
đương sự và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét khách quan, toàn
diện và đầy đủ chứng cứ, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định như sau:
- Về thủ tục tố tụng:
+ Kháng cáo của bị đơn còn trong hạn luật định và hợp lệ được xem xét tại
cấp phúc thẩm theo quy định tại Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
+ Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không kháng cáo xin xét
xử vắng mặt, nên căn cứ Điều 296 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét
xử tiến hành xét xử vắng mặt.
7
- Về nội dung:
Đối với kháng cáo của bị đơn ông La Văn T, xét:
[1] Về phần đất tranh chấp:
Theo đo đạc thực tế phần đất có diện tích là 10.599,3m
2
. Đất tọa lạc tại ấp
T, xã P, huyện V, tỉnh Kiên Giang và theo biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ do
Tòa án lập (BL 74) và Tờ trích đo địa chính số TĐ 11-2022, ngày 07/3/2022 của
Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai huyện V (BL 77). Phần đất do vợ chồng ông
T đang sử dụng và đang giữ bản gốc GCN.QSDĐ, không cầm cố thế chấp cho ai.
[2] Về nguồn gốc đất tranh chấp:
Bà La Thị L là cô ruột của ông La Văn T. Do bà L có hộ khẩu ở Rạch G nên
có nhờ cha ông T là ông La Tòng T3 (đã chết) nhận chuyển nhượng giùm cho bà
L thửa đất của ông Trần Văn T5 (ông Tám Đ1) diện tích khoảng 8 công tầm 3m.
Do đất tại huyện V và ông T đang ở và sống chung với bà L, nên bà L đã nhờ ông
T đứng tên trên GCN.QSDĐ. Sau khi nhận chuyển nhượng thì bà L giao cho ông
T canh tác được vài năm, sau đó ông T đi làm ăn xa nên bà L có cho ông La Văn
T6 (là anh ruột của ông T) thuê đất để sử dụng hơn 10 năm, tiền thuê đất là do bà
L nhận. Năm 2013, bà L có kêu ông T về sống nên bà L lấy đất của ông T6 lại và
giao cho ông T sử dụng, cũng trong năm 2013 thì ông T được cấp GCN.QSDĐ số
BM 867029, do UBND huyện V cấp ngày 16/5/2013, thửa số 331, tờ bản đồ số 01,
diện tích đất là 10.953m
2
. Khoảng năm 2018, bà L chuyển hộ khẩu về ấp T sinh
sống (nơi có đất) và yêu cầu ông T sang tên trên GCN.QSDĐ lại cho bà L nhưng
ông T không đồng ý nên phát sinh tranh chấp.
[3] Xét yêu cầu khởi kiện của bà La Thị L, Tòa sơ thẩm đã nhận định:
Về nguồn gốc đất là của ông Trần Văn T5 chuyển nhượng cho anh ruột của
bà L là ông La Tòng T3 (đã chết), nhưng ông La Tòng T3 chỉ là người đứng ra
nhận chuyển nhượng đất giùm cho bà La Thị L, bà L là người trả 52 chỉ vàng 24kra
cho ông T5. Sự việc này được ông T5 xác nhận (BL 49), đồng thời trong các lời
khai của ông T tại các bút lục 42, 96, 109 và tại phiên tòa cũng thừa nhận, đồng
thời cũng phù hợp với lời khai của một số người biết sự việc khác như ông T6, ông
H, ông T5 (như lời khai nêu trên). Qua kết quả thẩm tra, xác minh tại địa phương
(BL 25) kết luận nội dung và nguồn gốc đúng như nêu trên. Như vậy, xét việc bà
L cho rằng bà L là người trả vàng và nhờ ông T3 nhận chuyển nhượng đất giùm và
nhờ ông T đứng tên trên GCN.QSDĐ là có cơ sở. Hiện nay, giữa bà L với ông T5
cũng không có tranh chấp về hợp đồng chuyển nhượng nên không xem xét giải
quyết.
Xét các lời khai khác của ông T cho rằng đất là do cha ông La Tòng T3 mua
của ông Tám Đ1 và cho ông đứng tên (BL 131). Còn lời khai tại bút lục 176 thì
ông T khai rằng bà L đưa vàng cho ông La Tòng T3 mua đất giùm cho ông… Như
vậy, các lời khai này của ông T là có mâu thuẫn với nhau và trái với các lời khai
trước đó, hơn nữa ông T cũng không cung cấp được chứng cứ chứng minh cho lời
khai này là đúng. Trong khi các chứng cứ khác như lời khai của ông La Văn T6 (là
anh ruột của ông T) đã khẳng định bà L là người cho ông T6 thuê đất và tiền thuê
8
đất ông T6 trả thì bà L là người nhận trong suốt thời gian thuê là hơn 10 năm. Ngoài
ra, ông T cũng khai rằng vào khoảng năm 2013 thì bà L kêu ông về sống và cất nhà
trên đất. Như vậy, bà L là người có quyền sử dụng đối với thửa đất này, cụ thể như
bà L là người cho thuê và cho ông T được ở trên đất.
Ông T cho rằng trong thời gian sống chung với bà L thì ông đi làm Ngư phủ,
có giao tiền cho bà L cất giữ nhưng không nhớ rõ là bao nhiêu, bà L mua đất là từ
tiền của ông. Tòa sơ thẩm xét đây là một quan hệ pháp luật khác, giữa ông T với
bà L không có thỏa thuận nào khác nên không có căn cứ cho rằng bà L mua đất là
lấy từ tiền của ông T, lời khai nại này của ông T không có cơ sở giải quyết.
Từ cơ sở nêu trên, có đủ cơ sở xác định rõ nguồn gốc đất là do bà L nhận
chuyển nhượng của ông Trần Văn T5 và nhờ ông T đứng tên giùm. Tuy nhiên, theo
hồ sơ tham khảo về việc cấp GCN.QSDĐ cho ông T có thể hiện tại đơn đề nghị
cấp giấy chứng nhận (BL 121) thì ông T khai: “nguồn gốc đất là do cha cho con
năm 1991” và theo kết quả xác minh nguồn gốc đất cũng cho rằng: “nguồn gốc đất
là do ông T8 khai khẩn đất hoang hóa sử dụng đến năm 1991 thì cho ông T…”
(BL 122). Do nguồn gốc đất không phải do ông T3 khai khẩn nên việc kê khai và
kết quả xác minh nguồn gốc đất là không đúng thực tế. Từ đó, ông T được UBND
huyện V công nhận quyền sử dụng đất và cấp GCN.QSDĐ là không đúng về nguồn
gốc, nên không phù hợp theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 106 Luật Đất đai
2013Vì vậy, GCN.QSDĐ của ông T thuộc trường hợp bị thu hồi theo quy định.
- Xét về việc đứng tên giùm trên GCN.QSDĐ, công sức trong bảo quản, giữ
gìn, tôn tạo làm tăng giá trị đất, Tòa sơ thẩm xác định: Tuy bà L là người đưa ra
52 chỉ vàng 24k để nhận chuyển nhượng đất, nhưng ông T3 là cha của ông T là
người đứng ra mua giùm và giao cho ông T được đứng tên trên GCN.QSDĐ, ông
T có trông coi, quản lý đất được một thời gian nhưng không được xuyên suốt. Hơn
nữa, trong thời gian quản lý sử dụng đất thì ông T vẫn còn sống chung với bà L,
do đó trên tinh thần Án lệ số 02/2016/AL thì cần phải xác định công sức đứng tên
giùm của ông T để chia cho ông T một phần tương ứng. Theo đó, có cơ sở chia cho
ông T giá trị chênh lệch theo tỷ lệ là 30% (bà L 70%). Như vậy, sau khi trừ tiền
gốc của bà L tương đương 390.000.000 đồng (52 chỉ vàng 24kra x 7.500.000
đồng/chỉ) thì số tiền còn lại là giá trị chênh lệch tăng lên chung của bà L và ông T.
Theo kết quả thẩm định giá thì phần đất có giá trị là 739.150.000 đồng.
Như vậy, giá trị tăng với số tiền là 349.150.000 đồng (giá thị trường là
739.150.000 đồng – số vàng 52 chỉ 24kra có giá tương đương là 390.000.000
đồng), theo đó bà L giao cho ông T số tiền là 104.745.000 đồng (30% của số tiền
chênh lệch tăng).
- Về tài sản trên đất: Là căn chòi tạm của ông T, bà T2 (theo biên bản xem
xét thẩm định tại chỗ của Tòa án lập ngày 04/3/2022). Do ông T, bà T2 tự nguyện
tháo dỡ, di dời và không yêu cầu bồi thường nên không xem xét giải quyết. Do đó,
buộc ông T, bà T2 phải tháo dỡ, di dời tài sản trên đất để giao trả đất cho bà L. Do
trong thời gian này ông T, bà T2 đang nuôi tôm quản canh, nên việc bảo đảm cho
ông T được quyền lưu cư để sử dụng đất thêm thời gian 06 tháng nhằm mục đích
thu hoạch xong vụ tôm là cần thiết.
9
[4] Từ những nhận định nêu trên, Tòa sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện
của bà La Thị L; không chấp nhận đề nghị của Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp cho bị đơn ông La Văn T là có căn cứ. Tại cấp phúc thẩm không có căn cứ
nào mới làm thay đổi nội dung vụ án, nên Hội đồng xét xử thống nhất quan điểm
của đại diện Viện kiểm sát; không chấp nhận kháng cáo của bị đơn ông La Văn T,
giữ nguyên án sơ thẩm.
[5] Về án phí dân sự phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên
ông La Văn T phải nộp 300.000 đồng, được khấu trừ từ 300.000 đồng tiền tạm ứng
án phí đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0006345 ngày
17/6/2024 (do ông Phạm Văn T9 Anh nộp thay) tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh
Kiên Giang, nên đã nộp xong.
[6] Quyết định khác của án sơ thẩm về chi phí tố tụng, án phí sơ thẩm không
có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực thi hành kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo,
kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308, các điều 34, 37, khoản 1 Điều 38, 144, 147, 148,
157, 165, 296 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
Áp dụng các điều 166, 232, 237 Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 166 Luật
Đất đai năm 2013; Điều 29 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016
quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa
án,
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn ông La Văn T, giữ nguyên án sơ
thẩm số 32/2024/DS-ST ngày 14/5/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang.
2. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà La Thị L đối với ông La Văn T:
- Công nhận cho bà La Thị L được sử dụng phần đất theo đo đạc thực tế có
diện tích 10.559,3m
2
. Đất tọa lạc tại ấp T, xã P, huyện V, tỉnh Kiên Giang.
- Cơ quan có thẩm quyền, Ủy ban nhân dân huyện V được thu hồi giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số BM 867029 ngày 16/5/2013 cấp cho ông La Văn T khi
có yêu cầu. Ông La Văn T có nghĩa vụ giao nộp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất số BM 867029 ngày 16/5/2013 cấp cho ông La Văn T đứng tên khi cơ quan có
thẩm quyền có yêu cầu. Trường hợp ông La Văn T không tự nguyện giao nộp giấy
chứng nhận thì Ủy ban nhân dân huyện V, cơ quan có thẩm quyền có quyền hủy
bỏ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BM 867029 ngày 16/5/2013 cấp cho ông
La Văn T đứng tên theo quy định của Luật Đất đai.
- Bà La Thị L có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền, Ủy ban nhân dân
huyện V, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà La Thị L đứng tên đối với
phần đất theo đo đạc thực tế có diện tích 10.559,3m
2
. Đất tọa lạc tại ấp T, xã P,
huyện V, tỉnh Kiên Giang. Chi tiết các cạnh và vị trí của thửa đất được căn cứ theo
10
Tờ trích đo địa chính số TĐ 11-2022 ngày 07/3/2022 của Chi nhánh văn phòng
đăng ký đất đai huyện V.
3. Buộc ông La Văn T và bà Trương Thị T2 phải tháo dỡ, di dời tài sản trên
phần đất tranh chấp để giao đất cho bà La Thị L sử dụng. Tài sản trên đất là căn
chòi do ông T cất năm 2018 bằng cây lá, nền đất chiều ngang 3m, chiều dài 6m.
Vị trí chi tiết được căn cứ theo Biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 04/3/2022
do Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Thuận lập.
- Ông La Văn T và bà Trương Thị T2 được quyền lưu cư trên đất trong thời
hạn 06 (sáu) tháng để thu hoạch xong vụ tôm, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
4. Bà La Thị L giao lại cho ông La Văn T giá trị công sức bảo quản, giữ gìn,
tôn tạo (đứng tên giùm trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất) với số tiền là
104.745.000 đồng (Một trăm lẻ bốn triệu bảy trăm bốn mươi lăm nghìn đồng).
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến
khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn
phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định
tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
5. Về án phí dân sự phúc thẩm: Ông La Văn T phải nộp 300.000 đồng, được
khấu trừ từ 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án
phí, lệ phí Tòa án số 0006345 ngày 17/6/2024 (do ông Phạm Văn T9 Anh nộp thay)
tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh Kiên Giang, nên đã nộp xong.
6. Quyết định khác của án sơ thẩm về chi phí tố tụng, án phí sơ thẩm không
có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực thi hành kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo,
kháng nghị.
7. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành
án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7a, 7b và 9 Luật Thi
hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30
Luật Thi hành án dân sự.
8. Bản án phúc thẩm có hiệu lực thi hành kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- Tòa án nhân dân tối cao;
- VKSNDCC tại TP. Hồ Chí Minh;
- TAND tỉnh Kiên Giang;
- VKSND tỉnh Kiên Giang;
- Cục THADS tỉnh Kiên Giang;
- Các đương sự;
- Lưu HS (5), VT (2), 20b, (TK-PH).
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Văn Tửu
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 28/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 26/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 25/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 24/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 20/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 19/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 19/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 19/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 19/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 18/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 18/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 18/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 18/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 13/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 12/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 11/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 10/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 07/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 06/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm