Bản án số 21/2025/DS-PT ngày 07/03/2025 của TAND tỉnh Bến Tre về tranh chấp đất đai
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 21/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 21/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 21/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 21/2025/DS-PT ngày 07/03/2025 của TAND tỉnh Bến Tre về tranh chấp đất đai |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp đất đai |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Bến Tre |
Số hiệu: | 21/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 07/03/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | "tranh chấp quyền sử dụng đất" Dương Văn C-Phan Thị Tuyết V |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH BẾN TRE
Bản án số: 21/2025/DS-PT
Ngày: 08/01/2025
“V/v tranh chấp quyền sử
dụng đất”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - H phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẾN TRE
- Thành phần Hội đồng xét xử phc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên toà: Ông Lê Minh Đạt
Các Thẩm phn: Ông Bùi Quang Sơn
Bà Phạm Thị Thu Trang
- Thư ký phiên toà: Bà Đào Nguyễn Yến Phương, Thẩm tra viên Tòa án
nhân dân tỉnh Bến Tre.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tnh Bn Tre tham gia phiên tòa: Bà
Lê Thị Ngọc Phấn – Kiểm sát viên.
Ngày 08 tháng 01 năm 2025, tại Hội trường xét xử Toà án nhân dân tỉnh
Bến Tre xét xử phc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 407/2024/TLPT-
DS ngày 21 tháng 10 năm 2024 về tranh chấp quyền sử dụng đất.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 59/2024/DS-ST ngày 04 tháng 6 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện M, tỉnh Bến Tre bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 4475/2024/QĐ-PT ngày 12 tháng
11 năm 2024 và Quyết định hoãn phiên toà số 4881/2024/QĐ-PT ngày
03/12/2024, giữa:
1. Nguyên đơn: Ông Dương Văn C, sinh năm 1950.
Hộ khẩu thường trú: Số 8 Nguyễn T Học, phường C, Quận 1, Thành phố
Hồ Chí Minh.
Địa chỉ H tại: Số 99 (lầu 5) Nguyễn Công Trứ, phường N, Quận 1, Thành
phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn:
- Ông Nguyễn Hoàng T, sinh năm 1992.
Hộ khẩu thường trú: Ấp T, xã M, huyện M, tỉnh Bến Tre.
Địa chỉ H tại: Số 99 (lầu 5) Nguyễn Công Trứ, phường N, Quận 1, Thành
phố Hồ Chí Minh.
Hoặc:
2
- Bà Dương Thị Tuyết M, sinh năm 1975.
Địa chỉ: Số 08 Nguyễn Thái Học, phường C, Quận 1, Thành phố Hồ Chí
Minh.
Hoặc:
- Bà Nguyễn Thị Tuyết P, sinh năm 1952.
Địa chỉ: Số 08 Nguyễn Thái Học, phường C, Quận 1, Thành phố Hồ Chí
Minh.
(theo văn bản ủy quyền ngày 26/5/2022).
2. Bị đơn:
2.1/ Bà Phan Thị Tuyết V, sinh năm 1956.
Địa chỉ: ấp T, xã Đ, huyện M, tỉnh Bến Tre.
2.2/ Bà Phan Thị C, sinh năm 1955.
Địa chỉ: ấp A, xã A, huyện M, tỉnh Bến Tre.
Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn: Ông Nguyễn Văn P, sinh năm
1976.
Địa chỉ: Khu phố 5, thị trấn m, huyện M, tỉnh Bến Tre (theo các văn bản
ủy quyền ngày 07/9/2020, ngày 22/10/2020).
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1/ Bà Dương Thị B, sinh năm 1930 (chết năm 2022)
Người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của bà Dương Thị B:
- Ông Nguyễn Văn D, sinh năm 1950;
Địa chỉ: Ấp A, xã A, huyện M, tỉnh Bến Tre.
- Bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1953;
- Ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1958;
- Ông Nguyễn Văn B, sinh năm 1967;
Cùng địa chỉ: Ấp A 1, xã Đ, huyện M, tỉnh Bến Tre.
- Bà Nguyễn Thị K, sinh năm 1961;
Địa chỉ: ấp A, xã A, huyện M, tỉnh Bến Tre
3.2/ Bà Nguyễn Thị C, sinh năm 1929;
3.3/ Bà Dương Thị C1, sinh năm 1954;
3.4/ Ông Dương Văn B, sinh năm 1955;
3.5/ Ông Dương Văn CA, sinh năm 1966;
3.6/ Ông Dương Văn CE, sinh năm 1968;
3.7/ Bà Lê Thị Hồng T, sinh năm 1963;
3.8/ Ông Phan HA, sinh năm 1982;
3.9/ Bà Phan Thị Hồng N, sinh năm 1984;
Cùng địa chỉ: Ấp A, xã A, huyện M, tỉnh Bến Tre.
3.10/ Bà Dương Thị H, sinh năm 1962;
Địa chỉ: Ấp H, xã H, huyện M2, tỉnh Bến Tre.
3
3.11/ Bà Phan Thị Trúc L, sinh năm 1979;
3.12/ Ông Bùi Văn T, sinh năm 1973;
Cùng địa chỉ: Ấp A, xã A, huyện M, tỉnh Bến Tre.
Người đại diện theo ủy quyền của bà Phan Thị Trúc L, ông Bùi Văn T:
Ông Nguyễn Văn P, sinh năm 1976.
Địa chỉ: Khu phố 5, thị trấn M, huyện M, tỉnh Bến Tre (theo văn bản ủy
quyền ngày 05/11/2021).
4. Người khng co: Nguyên đơn ông Dương Văn C.
(Tại phiên toà, ông T có đơn xin xét xử vắng mặt; bà Minh, bà P vắng
mặt; ông P có mặt; các ông bà D, N, H, B, K, C, C1, B, CA có đơn xin xét xử
vắng mặt; các ông bà CE, T, HA, N được Toà án triệu tập hợp lệ lần thứ hai
nhưng vắng mặt không lý do).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo bản n sơ thẩm;
Theo đơn khởi kiện, các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại
phiên tòa sơ thẩm, ông Nguyễn Hoàng T, bà Dương Thị Tuyết M là người đại
diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông Dương Văn C cùng trình bày:
Nguồn gốc phần đất tranh chấp thuộc thửa đất 177, tờ bản đồ số 3, diện
tích 2.343,7m
2
tọa lạc tại ấp A, xã A, huyện M, tỉnh Bến Tre là của cụ Dương
Văn M2 và cụ Thái Thị Đ là cha, mẹ ruột của ông C chết để lại. Cụ M2 và cụ Đ
có 04 người con gồm: Dương Văn H, Dương Thị B, Dương Thị N, Dương Văn
C. Cụ M2 chết năm 1962, cụ Đ chết năm 1998. Năm 1979, cụ Đ đã tặng cho ông
C phần đất tranh chấp. Khi tặng cho chỉ nói miệng không lập thành văn bản, đến
ngày 01/10/1990 cụ Đ có lập di chúc cho ông C nhiều thửa đất trong đó có thửa
đất này, thể H là “công giồng, công rọc, 3 góc vườn”. Cùng ngày được cụ Đ lập
di chúc thì ông C có lập đơn “Đơn xin giải quyết đất thừa kế” gửi Đảng ủy và
Ủy ban nhân dân xã A. Đơn yêu cầu này được cụ Đ đồng ý và có xác nhận của
Phòng Y tế Quận 1 nơi ông C làm việc.
Sau đó, do điều kiện sinh sống và làm việc tại Thành phố Hồ Chí Minh
nên ông C không trực tiếp quản lý, canh tác đất mà nhờ cháu là ông Phan Thanh
M3 (Hoàng V) là con ruột của bà Dương Thị N trông coi đất từ năm 1994 đến
năm 2008, việc này hai bên không có lập thành văn bản xác nhận. Tuy nhiên,
ngày 03/6/2008 ông V có lập “Đơn xin xác nhận quyền sử dụng đất” với nội
dung xác nhận quyền sử dụng đất là của ông C đối với thửa đất trên. Do hoàn
cảnh công việc nên ông C chưa làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất được. Trong thời gian ông canh tác đất thì bà C, bà V cũng có canh tác một
phần diện tích nhỏ trong thửa đất này nhưng do thấy là con cháu trong nhà nên
ông C không phản đối việc canh tác này.
4
Tháng 8/2018 ông C có liên hệ với Ủy ban nhân dân xã A và Chi nhánh
Văn phòng đăng ký đất đai huyện M để làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất đối với thửa đất 177 thì Chi nhánh xác định thửa đất đang tranh
chấp H bà C và bà V có đơn đề nghị giải quyết tranh chấp.
Ngày 18/7/2019, Ủy ban nhân dân xã A đã tổ chức hòa giải giữa ông C
với bà C, bà V nhưng không thành. Bà C, bà V tranh chấp cho rằng ông C đã
bán thửa đất 177 cho bà Dương Thị N (là mẹ ruột của bà C, bà V) với giá 17 chỉ
vàng 24K, vì bà Năm chết nên thửa đất này được chia thừa kế cho bà C, bà V.
Đồng thời, bà C, bà V cũng khẳng định sẽ khởi kiện ông C tại Tòa án. Tuy
nhiên, sau đó bà C, bà V không khởi kiện và thửa đất vẫn đang trong tình trạng
có tranh chấp không thể cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông C
được. Do đó, ông C khởi kiện yêu cầu:
Công nhận quyền sử dụng đất cho ông C đối với thửa đất 177, tờ bản đồ
số 3, diện tích 2.343,7m
2
tọa lạc tại ấp A, xã A, huyện M, tỉnh Bến Tre. Buộc bà
Phan Thị C, bà Phan Thị Tuyết V phải trả lại cho ông C toàn bộ thửa đất trên.
Trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn thay đổi một phần yêu cầu
khởi kiện, không yêu cầu bà Phan Thị Tuyết V trả lại đất do bà V không có trực
tiếp canh tác, quản lý đất, chỉ yêu cầu buộc bà C, bà Phan Thị Trúc L, ông Bùi
Văn T là những người đang trực tiếp quản lý đất phải trả lại cho ông C toàn bộ
thửa đất 177, tờ bản đồ số 3.
Đối với trình bày của bị đơn về việc ông C đã bán thửa đất 177 cho bà
Năm với giá 17 chỉ vàng 24K thì nguyên đơn không đồng ý. Nguyên đơn thừa
nhận trước đây có mượn của bà Năm 17 chỉ vàng 24K với điều kiện ông C sẽ
cho bà Năm canh tác thửa đất 177, khi nào ông C lấy lại đất sẽ trả vàng cho bà
Năm, sự việc này được rất nhiều người trong gia đình biết. Trường hợp trong vụ
án này bị đơn có yêu cầu trả lại 17 chỉ vàng 24K thì nguyên đơn đồng ý trả.
Tại Hồ sơ trích đo H trạng sử dụng đất thì phần đất ký hiệu thửa A là
phần đường đi công cộng và phần đất ký hiệu thửa 178A do nguyên đơn chỉ sai
ranh, nguyên đơn xác định không có tranh chấp đối với hai thửa đất này, chỉ yêu
cầu Tòa án giải quyết đối với thửa đất 177, có diện tích 2.343,7m
2
.
Đối với biên bản xem xét thẩm định tại chỗ, đo đạc, định giá tài sản thì
nguyên đơn đồng ý không có ý kiến hay yêu cầu gì.
Theo các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa sơ
thẩm, ông Nguyễn Văn P là người đại diện theo ủy quyền của bị đơn bà Phan
Thị C, bà Phan Thị Tuyết V trình bày:
Bị đơn không đồng ý với yêu cầu của ông C. Phần đất tranh chấp trước
đây thuộc thửa đất 807, tờ bản đồ số 2, sau này ông C yêu cầu đo đạc tách thành
thửa mới là thửa 177, tờ bản đồ số 03 có nguồn gốc của ông, bà ngoại bà C cho
mẹ bà C là bà Dương Thị N trước năm 1975. Đến khoảng năm 1980 thì bà N
5
cho lại bà C phần đất này và bà C quản lý, sử dụng ổn định cho đến nay. Trong
quá trình quản lý, sử dụng bà C có đăng ký kê khai nhưng thời gian cụ thể thì
ông không rõ, khi cho chỉ nói miệng không lập thành văn bản. Thửa đất 177 là
của bà Năm cho riêng bà C nên đây không phải là tài sản chung hay di sản thừa
kế nên đề nghị công nhận thửa đất 177 cho bà C. Bà C xác định trước nay ông V
không có quản lý, canh tác phần đất tranh chấp.
Tại biên bản hòa giải ngày 18/7/2019 của Ủy ban nhân dân xã A bà L, bà
V trình bày đồng ý cho ông C một nền nhà, nay không đồng ý nữa. Đối với phần
17 chỉ vàng 24K thì bà C chỉ nghe bà N nói lại không biết cụ thể việc vay mượn
vàng, không có yêu cầu giải quyết trong vụ án này.
Bà V thống nhất ý kiến bà C, đồng ý công nhận phần đất này cho bà C,
không có yêu cầu gì trong vụ án này.
Bị đơn không đồng ý chia thừa kế trong vụ án này nếu có yêu cầu, do đây
là tài sản riêng của bà C.
Tại Hồ sơ trích đo H trạng sử dụng đất thì phần đất ký hiệu thửa A là
phần đường đi công cộng và phần đất ký hiệu thửa 178A bị đơn xác định không
có tranh chấp, chỉ yêu cầu Tòa án giải quyết đối với thửa đất 177, có diện tích
2.343,7m
2
.
Đối với biên bản xem xét thẩm định tại chỗ, đo đạc, định giá tài sản thì bị
đơn đồng ý không có ý kiến hay yêu cầu gì.
Theo các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa sơ
thẩm, ông Nguyễn Văn P là người đại diện theo ủy quyền của người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan bà Phan Thị Trúc L, ông Bùi Văn T trình bày:
H nay, bà L và ông T đang cùng quản lý thửa đất 177 với bà C. Nguồn
gốc phần đất này là do bà Dương Thị N cho bà C canh tác từ khoảng năm 1980
đến nay. Khoảng năm 2018, ông C tự ý kêu địa chính đến đo đạc phần đất tranh
chấp và làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trong khi phần đất
này bà C đã được tặng cho và trực tiếp canh tác đất nên hai bên xảy ra tranh
chấp. Việc Ủy ban nhân dân xã A xác định ông C có sử dụng đất ổn định là
không đng với thực tế làm ảnh hưởng đến quyền lợi của gia đình bà C. Theo
yêu cầu khởi kiện của ông C thì bà L và ông T không đồng ý nhưng không có
yêu cầu gì trong vụ án này, do phần đất này là của bà C nên do bà C toàn quyền
quyết định. Riêng hoa màu trên đất nếu Tòa án chấp nhận yêu cầu của ai thì bà
L, ông T tự nguyện di dời, không yêu cầu bồi hoàn.
Theo các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị C, ông Dương Văn CA, ông Dương Văn CE,
bà Lê Thị Hồng T (đồng thời là đại diện theo ủy quyền của ông Phan HA, bà
Phan Thị Hồng N), bà Dương Thị H, bà Dương Thị C1 trình bày:
6
Nguồn gốc phần đất tranh chấp là của cụ M2 và cụ Đ. Khi còn sống cụ Đ
đã tặng cho ông C thửa đất này. Do ông C sinh sống và làm việc tại Thành phố
Hồ Chí Minh nên không có trực tiếp canh tác đất. Sau khi cụ Đ cho đất ông C
thì ông B có vào canh tác vài năm, sau đó ông V vào canh tác làm sân bóng
mini, sau khi ông V không canh tác thì bà Năm và bà C vào canh tác. Đến năm
2018 bà Năm chết, bà C và con gái là Trúc L canh tác đất cho đến nay.
Trước đây, có nghe nói lại là ông C có mượn vàng của bà Năm nhưng
mượn bao nhiêu thì không rõ, với điều kiện ông C cho bà Năm canh tác thửa đất
tranh chấp, khi nào ông C trả vàng thì bà N trả đất cho ông C. Không có việc
ông C chuyển nhượng thửa đất này cho bà Năm. Do ông C đã được cụ Đ cho
thửa đất này nên việc ông C yêu cầu bà C trả lại đất là đng. Các ông, bà xác
định không có yêu cầu giải quyết nội dung gì trong vụ án này.
Theo các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan bà Dương Thị B và những người kế thừa quyền và nghĩa vụ
tố tụng của bà Ba trình bày:
Nguồn gốc phần đất tranh chấp là của cụ M2 và cụ Đ, khi còn sống các cụ
chưa phân chia cho các con và khi chết không có để lại di chc định đoạt đối với
phần đất này. Bà Ba xác định không có yêu cầu chia thừa kế trong vụ án này.
Sau khi bà Ba chết, những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của bà Ba
vẫn thống nhất lời trình bày của bà Ba, tuy nhiên không có yêu cầu chia thừa kế
trong vụ này và từ chối nhận di sản nếu có căn cứ chia thừa kế, từ chối tham gia
tố tụng trong vụ án này.
Theo các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan ông Dương Văn B trình bày:
Nguồn gốc phần đất tranh chấp là của cụ M2 và cụ Đ, khi còn sống các cụ
chưa định đoạt cho ai và khi chết không có để lại di chc định đoạt đối với phần
đất này. Sau khi cụ Đ chết, con của bà N là M3 (Hoàng V) canh tác, sau đó đến
bà N canh tác, bà N chết giao lại cho con là bà C và cháu là Trúc L canh tác đất
cho đến nay.
Ngày 08/11/2021 ông có đơn yêu cầu chia thừa kế đối với thửa đất 177, tờ
bản đồ số 03. Tuy nhiên, ngày 05/7/2023 ông đã có đơn rt yêu cầu khởi kiện
đối với yêu cầu này. Mặc dù phần đất này chưa định đoạt nhưng ông đồng ý
giao phần đất này cho ông C, ông không có tranh chấp gì với ông C, không yêu
cầu chia thừa kế, từ chối nhận di sản nếu được chia, chỉ đề nghị các bên giữ
nguyên H trạng đường đi công cộng bên cạnh thửa đất 177 như H nay cho gia
đình ra lộ công cộng.
Kết quả xem xét, thẩm định tại chỗ, đo đạc, định giá tài sản tranh chấp
như sau:

7
- Phần đất các bên tranh chấp thuộc thửa đất 177, tờ bản đồ số 03 (thửa cũ
số 807, tờ bản đồ số 02) tọa lạc tại ấp A, xã A, huyện M, tỉnh Bến Tre. Thửa đất
này chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; Bà Phan Thị C đứng tên
chủ sử dụng trong hồ sơ địa chính (sổ mục kê).
- Về diện tích đất đang tranh chấp: Theo kết quả đo đạc thực tế thể H tại
Hồ sơ trích đo H trạng sử dụng đất ngày 20/05/2021 của Chi nhánh Văn phòng
đăng ký đất đai huyện M thửa đất tranh chấp có diện tích 2.343,7m
2
.
- Về H trạng trên đất và giá trị tài sản:
+ Về giá đất: 2.000.000 đồng/m
2
(bao gồm cây trồng trên đất, không phân
biệt loại đất và vị trí thửa đất).
+ Tài sản trên đất gồm có:
Trên đất không có công trình kiến trúc.
Cây trồng trên đất gồm có: Mít loại 2: 01 cây; Mít mới trồng: 01 cây;
Điều loại 01: 03 cây; Điều loại 03: 01 cây; Chuối: 05 bụi; Sao loại 01: 01 cây.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 59/2024/DS-ST ngày 04/6/2024 của Tòa án
nhân dân huyện M, tnh Bến Tre đã quyết định:
Căn cứ khoản 9 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, Điều 227, Điều 228 Bộ
luật Tố tụng dân sự năm 2015; Các điều 166, 202, 203 Luật Đất đai năm 2013;
Điều 166 Bộ luật Dân sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVWQH14,
ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng
án phí và lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Dương Văn C.
Đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu chia thừa kế của ông Dương Văn B.
Cụ thể tuyên:
1. Không chấp nhận yêu cầu công nhận quyền sử dụng đất cho ông
Dương Văn C đối với thửa đất 177, tờ bản đồ số 3, diện tích 2.343,7m
2
tọa lạc
tại ấp A, xã A, huyện M, tỉnh Bến Tre.
Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Dương Văn C về việc buộc
bà Phan Thị C, bà Phan Thị Trúc L, ông Bùi Văn T phải có nghĩa vụ trả lại cho
ông Dương Văn C thửa đất 177, tờ bản đồ số 3, diện tích 2.343,7m
2
tọa lạc tại ấp
A, xã A, huyện M, tỉnh Bến Tre.
2. Đình chỉ giải quyết yêu cầu chia thừa kế của ông Dương Văn B đối với
thửa đất 177, tờ bản đồ số 3, diện tích 2.343,7m
2
tọa lạc tại ấp A, xã A, huyện
M, tỉnh Bến Tre.
3. Trường hợp các đương sự có yêu cầu chia thừa kế đối với thửa đất 177,
tờ bản đồ số 3, diện tích 2.343,7m
2
tọa lạc tại ấp A, xã A, huyện M, tỉnh Bến Tre
sẽ được khởi kiện trong một vụ án khác.
(Có Hồ sơ trích đo H trạng sử dụng đất kèm theo bản án).

8
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí dân sự sơ thẩm, chi phí tố
tụng, quyền kháng cáo của các đương sự, quyền yêu cầu thi hành án.
Ngày 18/6/2024, nguyên đơn ông Dương Văn C kháng cáo toàn bộ bản án
sơ thẩm, yêu cầu cấp phúc thẩm giải quyết sửa bản án sơ thẩm, chấp nhận yêu
cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông Dương Văn C là ông
Nguyễn Hoàng T có đơn xin xét xử vắng mặt, vẫn giữ nguyên nội dung kháng
cáo và đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn.
Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn là ông Nguyễn Văn P không đồng
ý với kháng cáo của nguyên đơn, yêu cầu giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Kiểm sát viên phát biểu:
Về tố tụng: Hội đồng xét xử phúc thẩm và đương sự đã thực H đầy đủ các
quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ
luật Tố tụng dân sự năm 2015, không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn, giữ
nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số số 59/2024/DS-ST ngày 04/6/2024 của Tòa án
nhân dân huyện M, tỉnh Bến Tre.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm
tra công khai tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, xét kháng
cáo của nguyên đơn, đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa, Hội
đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Đơn kháng cáo của nguyên đơn ông Dương Văn C còn trong thời
hạn luật định nên được Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre tiến hành thụ lý, giải quyết
theo thủ tục phúc thẩm theo quy định tại Điều 285, Điều 293 của Bộ luật Tố
tụng dân sự năm 2015.
[1.2] Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm các ông (bà)
Nguyễn Văn D, Nguyễn Thị N, Nguyễn Văn H, Nguyễn Văn B, Nguyễn Thị K,
Nguyễn Thị C, Dương Thị C1, Dương Văn B, Dương Văn CA vắng mặt tại
phiên tòa, có yêu cầu xét xử vắng mặt; Đối với các ông (bà) Dương Văn CE, Lê
Thị Hồng T, Phan HA, Phan Thị Hồng N, Dương Thị H đã được Tòa án triệu
tập hợp lệ lần thứ hai để tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt không vì sự kiện
bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan và không có đơn yêu cầu xét xử vắng
mặt. Căn cứ quy định tại Điều 296 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến
hành xét xử vụ án vắng mặt các đương sự này.
[2] Về nội dung:
9
[2.1] Ông Dương Văn C khởi kiện yêu cầu công nhận cho ông phần đất
tại thửa đất 177, tờ bản đồ số 3, diện tích 2.343,7m
2
tọa lạc tại ấp A, xã A, huyện
M, tỉnh Bến Tre do cho rằng phần đất này có nguồn gốc của cha mẹ ông là cụ
Dương Văn M2 (chết năm 1962) và cụ T Thị Đ (chết năm 1998), sau khi cụ M2
chết thì cụ Đ tiếp tục quản lý sử dụng đất, đến năm 1979 cụ Đ đã tặng cho thửa
đất này cho ông. H nay phần đất này do bà Phan Thị C, bà Phan Thị Trúc L và
ông Bùi Văn T quản lý, sử dụng.
Theo bà Phan Thị C trình bày, phần đất tranh chấp trước đây thuộc thửa
807, tờ bản đồ số 2 có nguồn gốc của ông, bà ngoại của bà C là cụ M2 và cụ Đ
cho mẹ bà C là bà Dương Thị Nvào trước năm 1975. Năm 1980 bà Năm cho lại
bà C phần đất này và bà C đã quản lý, sử dụng cho đến nay. Quá trình sử dụng
đất, bà C có đăng ký kê khai nhưng không nhớ cụ thể về thời gian. Do đó, với
yêu cầu khởi kiện của ông C thì bà C không đồng ý.
[2.2] Xét các đương sự trình bày thống nhất về nguồn gốc phần đất tranh
chấp tại thửa số 177, tờ bản đồ số 3, diện tích 2.343,7m
2
tọa lạc tại ấp A, xã A,
huyện M, tỉnh Bến Tre là của cụ M2 và cụ Đ chết để lại. Đây là tình tiết không
phải chứng minh theo quy định tại Điều 92 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Do đó,
có cơ sở xác định phần đất tranh chấp có nguồn gốc của cụ M2 và cụ Đ.
[2.3] Về việc đăng ký, kê khai, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất:
Quá trình quản lý, sử dụng đất cụ M2, cụ Đ chưa đăng ký kê khai đối với thửa
đất này. Theo hồ sơ địa chính thể H, khi đo đạc lần đầu vào năm 1994 thì bà
Phan Thị C là người đăng ký kê khai tại sổ mục kê đối với thửa 807, tờ bản đồ
số 2. Năm 2018, ông Dương Văn C xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
thửa 177, tờ bản đồ số 3 (trước đây là thửa 807, tờ bản đồ số 2) nhưng xảy ra
tranh chấp với bà C, bà V nên H nay thửa đất này chưa được cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất cho ai.
[2.4] Ông C cho rằng phần đất tranh chấp trước đây do cụ M2 và cụ Đ
quản lý, sử dụng. Sau khi cụ M2 chết, cụ Đ tiếp tục quản lý, sử dụng đất đến
năm 1979 cụ Đ tặng cho ông C phần đất này. Xét việc tặng cho giữa cụ Đ với
ông C là không có tài liệu, chứng cứ chứng minh; phía bị đơn cũng không thừa
nhận. Mặc dù quá trình giải quyết vụ án, các ông (bà) Nguyễn Thị C, Dương
Văn CA, Dương Văn CE, Lê Thị Hồng T, Phan HA, Phan Thị Hồng N, Dương
Thị H, Dương Thị C1 đều có lời trình bày về việc thửa đất tranh chấp do cụ Đ
tặng cho ông C nhưng điều này các ông, bà chỉ nghe nói, không có tài liệu,
chứng cứ chứng minh. Bên cạnh đó, bà Dương Thị B và ông Dương Văn B xác
định trước đây cụ Đ không có tặng cho ông C phần đất này, H nay phần đất này
vẫn là di sản của cụ M2, cụ Đ để lại chưa chia.
Đối với “Bảng di chc” lập ngày 01/10/1990 do ông C cung cấp cho Tòa
án có nội dung “Tôi tên T Thị Đ, nay tôi làm di chúc này để lại cho con tôi là
10
Dương Văn Út, sinh năm 1950 số đất: công giồng, công rọc, 3 góc vườn, bốn
công ruộng, 1 đất thổ cư do tuổi già nên tôi không canh tác, gì vậy tôi giao toàn
bộ số đất trên cho con Út tôi, kế thừa số đất trên, để tránh tranh chấp nên tôi
lập ra tờ di chúc này làm bằng chứng khi tôi tuổi già”. Xét về hình thức và nội
dung của bảng di chúc này, thấy rằng:
Tại Điều 13 của Pháp lệnh thừa kế ngày 10/9/1990 quy định:
“Điều 13: Nội dung bản di chúc
1- Trong bản di chúc phải ghi rõ: Ngày, thng, năm lập di chúc; họ, tên
và nơi thường trú của người lập di chúc; họ, tên người được hưởng di sản; tên
cơ quan, tổ chức được hưởng di sản; tài sản, quyền về tài sản để lại cho người,
cơ quan tổ chức được hưởng; nơi có tài sản đó...”
2- Trong bản di chúc phải có chữ ký hoặc điểm ch của người lập di chúc”.
Đối chiếu nội dung Bảng di chúc nêu trên với quy định đã viện dẫn thì
Bảng di chúc lập ngày 01/10/1990 là không có đối tượng tài sản cụ thể và nơi có
tài sản. Ông C cho rằng phần đất “công giồng, công rọc, 3 góc vườn” thể H
trong di chúc là thửa đất số 177, tờ bản đồ số 3 mà H nay đang có tranh chấp
nhưng ông C không cung cấp được tài liệu, chứng cứ chứng minh. Ngoài ra, tại
mục “Người thừa kế” có đánh dấu “+” và ghi họ tên T Thị Đ, tại mục “Người
thừa hưởng” có ký tên Út và ghi họ tên Dương Văn Út. Nguyên đơn không có
tài liệu, chứng cứ chứng minh ông Dương Văn C còn có tên gọi khác là Dương
Văn Út. Nguyên đơn cho rằng do cụ Đ không biết chữ nên đánh dấu thập (+)
trong bảng di chc coi như là ký tên nhưng cũng không chứng minh được dấu
thập là chữ ký của cụ Đ.
Xét bảng di chúc nêu trên không có xác nhận, chứng nhận của cơ quan
nhà nước có thẩm quyền, vì vậy, theo quy định tại Điều 17 của Pháp lệnh thừa
kế ngày 10/9/1990 thì “Di chúc viết không có chứng thực, xác nhận … ch được
coi là di chúc hợp pháp, nếu đúng là do người để lại di sản tự nguyện lập trong
khi minh mẫn, không bị lừa dối và không trái với quy định của pháp luật”, tuy
nhiên, nguyên đơn không chứng minh được di chúc do cụ Đ tự nguyện lập trong
khi minh mẫn, không bị lừa dối.
Từ đó thấy rằng, hình thức và nội dung của “Bảng di chc” lập ngày
01/10/1990 do ông C cung cấp là không phù hợp với quy định pháp luật nên
không có giá trị pháp lý.
Về đoạn ghi âm nguyên đơn cung cấp cho rằng đã ghi âm lại lời nói của
cụ Đ về việc tặng cho ông C phần đất thửa số 177, tờ bản đồ số 3, tuy nhiên,
nguyên đơn cũng không chứng minh được lời nói trong đoạn ghi âm là của cụ Đ
nên không có giá trị chứng minh.
Tại “Đơn xin giải quyết đất thừa kế” ngày 01/10/1990, nguyên đơn không
chứng minh được dấu thập (+) tại mục “Người ủy thừa cho con” là chữ ký của

11
cụ Đ. Văn bản này mặc dù có xác nhận của Phòng Y tế Quận 1 – nơi ông C làm
việc lc đó nhưng cơ quan này chỉ xác nhận việc ông C có ký tên vào văn bản
chứ không xác nhận nội dung văn bản; Phòng Y tế Quận 1 cũng không có thẩm
quyền xác nhận nội dung văn bản. Hơn nữa, tại nội dung văn bản này cũng
không thể H việc cụ Đ có tặng cho ông C thửa đất 177, tờ bản đồ số 3.
Xét Biên bản họp nội bộ gia đình về việc tranh chấp đất đai ngày
15/03/2005, Đơn xin sang tên đất ngày 02/6/2008 và Đơn xin xác nhận quyền sử
dụng đất ngày 03/6/2008 do nguyên đơn giao nộp cho Tòa án đều là bản photo,
vì vậy, không được xem là chứng cứ để giải quyết vụ án theo quy định tại Điều
95 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Từ những phân tích trên, xét lời trình bày của nguyên đơn về việc được cụ
M2, cụ Đ tặng cho thửa số 177, tờ bản đồ số 3 là không có căn cứ.
[2.5] Đối với bà Phan Thị C, ban đầu bà C trình bày phần đất tranh chấp
là bà mua của ông C với giá 17 chỉ vàng 24K nhưng tại các biên bản hòa giải, bà
C trình bày nguồn gốc đất tranh chấp là do ông bà ngoại tặng cho mẹ của bà, sau
khi mẹ của bà chết để lại cho bà. Xét thấy, bà C không cung cấp được chứng cứ
chứng minh có việc tặng cho quyền sử dụng đất giữa ông bà ngoại của bà (cụ
M2, cụ Đ) với mẹ của bà là bà Năm cũng như việc tặng cho giữa bà Năm với bà.
Bên cạnh đó, trong thời gian dài quản lý, sử dụng đất bà C cũng không đăng ký
kê khai để được cấp quyền sử dụng đất. Vì vậy, không có cơ sở chấp nhận ý
kiến trình bày của bà C về việc bà cho rằng thửa số 177, tờ bản đồ số 3 là tài sản
riêng của bà.
[2.6] Như vậy, thửa số 177, tờ bản đồ số 3 là di sản của cụ Dương Văn
M2 và cụ T Thị Đ chết để lại chưa được định đoạt bằng di chc nên di sản này
thuộc trường hợp phải chia thừa kế theo quy định của pháp luật. Việc giải quyết
tranh chấp theo yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn sẽ ảnh hưởng đến quyền và
lợi ích hợp pháp của các thừa kế khác. Do đó, không có cơ sở chấp nhận yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn về việc yêu cầu công nhận quyền sử dụng đất thửa đất
177 tờ bản đồ số 3, diện tích 2.343,7m
2
tọa lạc tại ấp A, xã A, huyện M, tỉnh Bến
Tre cho nguyên đơn như cấp sơ thẩm đã giải quyết là phù hợp.
Nguyên đơn kháng cáo nhưng không đưa ra được chứng cứ chứng minh
cho yêu cầu kháng cáo của mình là có căn cứ nên không chấp nhận.
Từ những nhận định và căn cứ trên, không chấp nhận kháng cáo của
nguyên đơn; giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 59/2024/DS-ST ngày
04/6/2024 của Tòa án nhân dân huyện M, tỉnh Bến Tre.
[3] Xét đề nghị của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phù hợp với quan
điểm của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

12
[4] Về án phí dân sự phc thẩm: Người kháng cáo thuộc trường hợp người
cao tuổi, có đơn xin miễn nộp tiền án phí nên được miễn nộp án phí dân sự phc
thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì cc lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn ông Dương Văn C.
Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 59/2024/DS-ST ngày 04/6/2024
của Tòa án nhân dân huyện M, tỉnh Bến Tre.
Áp dụng các Điều 166, 202, 203 Luật Đất đai năm 2013; Điều 166 Bộ luật
Dân sự năm 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVWQH14, ngày 30/12/2016 quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa
án;
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận yêu cầu công nhận quyền sử dụng đất cho ông Dương
Văn C đối với thửa đất 177, tờ bản đồ số 3, diện tích 2.343,7m
2
tọa lạc tại ấp A,
xã A, huyện M, tỉnh Bến Tre.
Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Dương Văn C về việc buộc
bà Phan Thị C, bà Phan Thị Trúc L, ông Bùi Văn T phải có nghĩa vụ trả lại cho
ông Dương Văn C thửa đất 177, tờ bản đồ số 3, diện tích 2.343,7m
2
tọa lạc tại ấp
A, xã A, huyện M, tỉnh Bến Tre.
2. Đình chỉ giải quyết yêu cầu chia thừa kế của ông Dương Văn B đối với
thửa đất 177, tờ bản đồ số 3, diện tích 2.343,7m
2
tọa lạc tại ấp A, xã A, huyện
M, tỉnh Bến Tre.
(Có Hồ sơ trích đo H trạng sử dụng đất lập ngày 20/5/2021 của Chi nhánh
Văn phòng đăng ký đất đai huyện M, tỉnh Bến Tre kèm theo là một phần không
tách rời bản án này).
Trường hợp các đương sự có yêu cầu chia thừa kế đối với thửa đất 177, tờ
bản đồ số 3, diện tích 2.343,7m
2
tọa lạc tại ấp A, xã A, huyện M, tỉnh Bến Tre sẽ
được khởi kiện trong một vụ án khác.
3. Chi phí tố tụng: Ông Dương Văn C phải chịu 4.401.000 (bốn triệu bốn
trăm lẻ một nghìn) đồng và đã nộp xong.
4. Án phí dân sự sơ thẩm: Ông Dương Văn C được miễn toàn bộ án phí
dân sự sơ thẩm.
5. Án phí dân sự phúc thẩm: Ông Dương Văn C được miễn toàn bộ án phí
dân sự phúc thẩm.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành
án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có
13
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 của
Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực H theo quy định tại
Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- TAND cấp cao tại TP.HCM;
- VKSND tỉnh Bến Tre;
- TAND huyện M;
- Chi cục THADS huyện M;
- Các đương sự;
- Lưu: Hồ sơ vụ án, VP, P. KTNV&THA.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TOẠ PHIÊN TOÀ
Lê Minh Đạt
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 25/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 24/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 24/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 21/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 20/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 19/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 18/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 11/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 10/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 10/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 22/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 22/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 21/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 20/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 20/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 19/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 17/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Bản án số 03/2025/DS-ST ngày 17/01/2025 của TAND TX. Thuận An, tỉnh Bình Dương về tranh chấp đất đai
Ban hành: 17/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 17/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm