Bản án số 23/2025/DS-PT ngày 21/02/2025 của TAND tỉnh Đắk Nông về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 23/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 23/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 23/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 23/2025/DS-PT ngày 21/02/2025 của TAND tỉnh Đắk Nông về tranh chấp hợp đồng vay tài sản |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng vay tài sản |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Đắk Nông |
Số hiệu: | 23/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 21/02/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Tranh chấp hợp đồng vay tài sản |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH ĐẮK NÔNG
Bản án số: 23/2025/DS-PT
Ngày 21 - 02 - 2025
V/v tranh chấp hợp đồng vay tài sản.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK NÔNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Võ Văn Vinh
Các Thẩm phán: Bà Nguyễn Thị Hải Âu và ông Nguyễn Anh Ửng
- Thư ký phiên tòa: Ông Nguyễn Vũ Trí - Thư ký viên Tòa án nhân dân
tỉnh Đắk Nông
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông tham gia phiên toà: Bà
Nguyễn Thị Thanh Hòa - Kiểm sát viên.
Ngày 21 tháng 02 năm 2025 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông xét
xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 113/2024/TLPT-DS, ngày 01 tháng 11
năm 2024 về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 24/2024/DS-ST ngày 18-9-2024 của Toà án
nhân dân huyện Krông Nô, tỉnh Đắk Nông bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 121/2024/QĐ-PT ngày
24-12-2024, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Trần Thị T, sinh năm 1960; địa chỉ: Thôn E, xã Đ,
huyện K, tỉnh Đắk Nông; có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt.
2. Bị đơn: Bà Lưu Thị L, sinh năm 1985; địa chỉ: Buôn 9, xã Đ, huyện K,
tỉnh Đắk Nông; có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1. Ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1960; địa chỉ: Thôn E, xã Đ, huyện K,
tỉnh Đắk Nông; có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt.
3.2. Ông Phan Minh T1, sinh năm 1985; địa chỉ: Buôn 9, xã Đ, huyện K,
tỉnh Đắk Nông; có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt.
4. Người kháng cáo: Bà Lưu Thị L là bị đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện, trong quá trình giải quyết và tại phiên tòa nguyên đơn
bà Trần Thị T trình bày:
2
Do có mối quan hệ hàng xóm nên bà Trần Thị T cho bà Lưu Thị L vay tiền
02 lần, cụ thể: Ngày 01-01-2019, bà T cho bà L vay 135.000.000 đồng; ngày 25-
4-2020, bà T tiếp tục cho bà L vay 50.000.000 đồng, tổng cộng hai lần vay
185.000.000 đồng, là tài sản chung của vợ chồng bà T và ông Nguyễn Văn H.
Lãi suất các bên thỏa thuận 20.000 đồng/tháng/triệu, tuy nhiên không ghi vào
giấy mượn tiền. Thời hạn trả thỏa thuận khi nào bà T cần thì bà L phải trả. Sau
khi nhận tiền thì bà L có viết giấy mượn tiền và có ký tên.
Đến ngày 29-3-2022, chồng bà L là ông Phan Minh T1 trả được tiền gốc
50.000.000 đồng. Ngày 28-4-2022, ông T1 tiếp tục trả số tiền gốc 135.000.000
đồng. Mỗi lần trả ông T1 có gạch phần vay ở trên sổ do bà L ghi, sau đó ông T1
ghi vào sổ nội dung đã trả nợ gốc. Tuy nhiên, vợ chồng bà L, ông T1 đều không
trả lãi cho hai khoản vay này. Bà T nhiền lần yêu cầu bà L trả tiền lãi với mức
lãi suất 20.000 đồng/tháng/triệu nhưng bị đơn không thực hiện. Đối với số tiền
14.000.000 đồng bị gạch đi trong giấy mượn tiền, đây là số tiền lãi bà L trả
khoản vay 35.000.000 đồng trước đây vay ngày 03-11-2019 đến ngày 15-10-
2020, các bên thỏa thuận lãi suất 20.000 đồng/tháng/triệu, không thỏa thuận thời
hạn trả nợ và không liên quan đến số tiền lãi của các khoản vay 135.000.000
đồng và 50.000.000 đồng.
Nay bà Trần Thị T yêu cầu bà Lưu Thị L, ông Phan Minh T1 trả số tiền lãi
đối với số tiền 135.000.000 đồng đã vay ngày 01-01-2019 với mức lãi suất
20%/năm = 1,66%/tháng tính từ ngày 02-01-2019 đến ngày 28-4-2022 là 39
tháng 26 ngày = 135.000.000 đồng x 1,66%/tháng x 39 tháng 26 ngày =
89.191.000 đồng; số tiền lãi của số tiền 50.000.000 đồng đã vay ngày 25-4-2020
với mức lãi suất 20%/năm = 1,66%/tháng tính từ ngày 26-4-2020 đến ngày 29-
3-2022 là 23 tháng 28 ngày = 50.000.000 đồng x 1,66%/tháng x 23 tháng 28
ngày = 19.864.000 đồng. Tổng tiền lãi bà Lưu Thị L, ông Phan Minh T1 phải trả
là 109.055.000 đồng.
Tại phiên tòa sơ thẩm, bà Trần Thị T trình bày: Số tiền 14.000.000 đồng bị
gạch đi trong giấy mượn tiền là tổng tiền lãi của các khoản vay trước đây, trong
đó có một phần là tiền lãi của khoản vay gốc 35.000.000 đồng vay từ ngày 03-11-
2019 đến 15-10-2020, các bên thỏa thuận lãi suất 20.000 đồng/tháng/triệu, không
thỏa thuận thời hạn trả nợ và không liên quan đến số tiền lãi của các khoản vay
135.000.000 đồng và 50.000.000 đồng mà bà Trần Thị T khởi kiện. Đề nghị Hội
đồng xét xử xem xét lại thời gian tính tiền lãi của hai khoản nợ trên cho đúng vì
thực tế bà nhờ người khác làm hộ đơn khởi kiện nên không biết tính toán số thời
gian chịu lãi suất đã đúng hay chưa, vì vậy đề nghị Hội đồng xét xử tính toán lại.
Còn về lãi suất của hai khoản nợ thì vẫn yêu cầu là 1,66%/tháng và thời gian tính
đối với số nợ gốc 135.000.000 đồng thì tính từ ngày 02-01-2019 đến ngày 28-4-
3
2022; đối với số tiền gốc 50.000.000 đồng thì tính lãi suất từ ngày 26-4-2020 đến
ngày 29-3-2022.
Trong quá trình giải quyết vụ án bị đơn bà Lưu Thị L trình bày: Bà L thừa
nhận, do có mối quan hệ hàng xóm nên vào ngày 01-01-2019 bà L có vay của bà
Trần Thị T số tiền 135.000.000 đồng, không thỏa thuận thời hạn trả, về lãi suất
cũng không thỏa thuận vì trước đây bà L đã vay tiền của bà T với lãi suất 20.000
đồng/triệu/tháng nên ngầm hiểu lãi suất như vậy mà không ghi vào giấy. Đến
ngày 25-4-2020, bà L tiếp tục vay bà Trần Thị T số tiền 50.000.000 đồng, không
thỏa thuận thời hạn trả và không thỏa thuận lãi suất cụ thể, bà L đề nghị trả theo
lãi suất ngân hàng khoảng 12%/năm. Tổng cộng bà L đã vay của bà T
185.000.000 đồng, mục đích dùng vào việc đầu tư kinh doanh chung của vợ
chồng bà L và ông T1. Sau khi nhận tiền, bà L có viết và ký tên trong giấy mượn
tiền. Hàng tháng bà L vẫn trả tiền lãi 2.700.000 đồng đối với số tiền gốc
135.000.000 đồng cho bà T, đến ngày 28-4-2022 thì ông Phan Minh T1 (chồng
bà L) đã trả tiền gốc. Tuy nhiên do quen biết với nhau và hay vay mượn của bà
T nên khi trả lãi bà L chỉ đưa tiền mặt cho bà T, không có ghi chép gì.
Đối với số tiền 50.000.000 đồng thì không trả lãi hàng tháng mà vào ngày
29-3-2022 ông T1 đã trả tiền gốc, mấy ngày sau bà L có trả tiền lãi là
14.000.000 đồng với mức lãi suất là 12%/năm, bà T có ghi vào giấy mượn tiền
về việc trả lãi 14.000.000 đồng nhưng sau đó đã gạch đi. Như vậy thì tính đến
thời điểm hiện tại bà L không còn nợ gì bà T về tiền gốc và tiền lãi. Do đó, bà L
không đồng ý yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Trần Thị T.
Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan ông Nguyễn Văn H trình bày: Ông Nguyễn Văn H là chồng nguyên
đơn bà Trần Thị T và có mối quan hệ hàng xóm với bị đơn bà Lưu Thị L và
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Phan Minh T1. Bà Lưu Thị L vay bà
Trần Thị T tổng cộng 185.000.000 đồng, đây là tài sản chung của vợ chồng ông
Nguyễn Văn H và bà Trần Thị T, cụ thể như sau:
Ngày 01-01-2019, vợ chồng ông Nguyễn Văn H và bà Trần Thị T cho bà Lưu
Thị L và ông Phan Minh T1 vay số tiền 135.000.000 đồng. Đến ngày 25-4-2020,
bà Lưu Thị L vay tiếp bà Trần Thị T số tiền 50.000.000 đồng. Cả hai lần vay các
bên đều thỏa thuận lãi suất 20.000 đồng/tháng/triệu, không ghi vào giấy mượn tiền,
ngoài ra không thỏa thuân thời hạn trả nợ, khi nào bà T đòi thì bà L, ông T1 phải
trả. Đến ngày 28-4-2022, ông T1 chồng bà L đã trả được 135.000.000 đồng tiền
gốc. Ngày 29-3-2022, ông T1 tiếp tục trả được 50.000.000 đồng tiền gốc. Tuy
nhiên cho đến nay vợ chồng bà L và ông T1 không trả lãi cho vợ chồng bà ông. Do
đó, ông H đồng ý yêu cầu khởi kiện của bà T.
4
Trong quá trình giải quyết vụ án người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
ông Phan Minh T1 trình bày: Ông Phan Minh T1 là chồng bị đơn bà Lưu Thị L
và có mối quan hệ hàng xóm với nguyên đơn bà Trần Thị T và người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Văn H.
Ông Phan Minh T1 thừa nhận, vào ngày 01-01-2019, bà Lưu Thị L vợ ông
Phan Minh T1 có vay của bà Trần Thị T số tiền 135.000.000 đồng, không thỏa
thuận thời hạn trả, về lãi suất cũng không thỏa thuận vì trước đây bà L đã vay
tiền của bà T với lãi suất 20.000 đồng/triệu/tháng nên ngầm hiểu lãi suất như
vậy mà không ghi vào giấy mượn. Đến ngày 25-4-2020, bà L có vay tiếp số tiền
50.000.000 đồng, không thỏa thuận thời hạn trả nợ và không thỏa thuận lãi suất
cụ thể, hai bên thỏa thuận trả theo lãi suất ngân hàng. Tổng cộng bà L vay bà T
số tiền 185.000.000 đồng, mục đích vay dùng vào việc đầu tư kinh doanh chung
của vợ chồng bà L và ông T1.
Sau khi thỏa thuận vay hàng tháng vợ chồng ông T1, bà L vẫn trả tiền lãi
2.700.000 đồng đối với số tiền 135.000.000 đồng cho bà T, trả từ ngày vay 01-
02-2019 đến ngày 28-4-2022 thì ông T1 trả tiền gốc. Tuy nhiên do hàng xóm
quen biết với nhau và hay vay mượn của bà T nên khi trả lãi thì bà L chỉ đưa cho
bà T tiền mặt, không có ghi chép gì. Đối với số tiền vay 50.000.000 đồng thì
không trả lãi hàng tháng mà ngày 29-3-2022 ông T1 đã trả tiền gốc, mấy ngày
sau bà L đã trả tiền lãi 14.000.000 đồng, với mức lãi suất khoảng 12.000
đồng/triệu/tháng. Như vậy, tính đến thời điểm hiện tại bà L và ông T1 không
còn nợ gì bà T cả tiền gốc và tiền lãi nữa. Do đó, ông T1 không đồng ý yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn bà T.
Bản án dân sự sơ thẩm số 24/2024/DS-ST ngày 18-9-2024 của Toà án nhân
dân huyện Krông Nô, quyết định: Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều
35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 144, Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 271
và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; áp dụng Điều 463, Điều 466, Điều 468
và Điều 469 của Bộ luật Dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30-
12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu,
nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Trần
Thị T.
1. Buộc ông Phan Minh T1, bà Lưu Thị L phải trả cho ông Nguyễn Văn H,
bà Trần Thị T số tiền lãi đối với khoản vay 135.000.000 đồng từ ngày 02-01-
2019 đến ngày 28-4-2022 là 39 tháng 26 ngày = 135.000.000 đồng x 1,66% x 39
tháng 26 ngày = 89.341.200đ (tám mươi chín triệu ba trăm bốn mươi mốt nghìn
hai trăm đồng).
5
2. Không chấp nhận yêu cầu tính lãi suất của bà Trần Thị T đối với số tiền gốc
50.000.000 đồng đã vay ngày 25-4-2020 với mức lãi suất 20%/năm = 1,66%/tháng
tính từ ngày 26-4-2020 đến ngày 29-3-2022 là 23 tháng 03 ngày = 50.000.000 đồng
x 1,66%/tháng x 23 tháng 03 ngày = 19.173.000đ (mười chín triệu một trăm bảy
mươi ba nghìn đồng).
Kể từ có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án, nếu người phải
thi hành án không thi hành khoản tiền trên thì hàng tháng người phải thi hành án
còn phải chịu khoản tiền lãi đối với số tiền chậm thi hành án theo quy định tại
khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự tương ứng với thời gian chậm thi hành án.
Ngoài ra, Toà án cấp sơ thẩm còn tuyên về nghĩa vụ chịu án phí dân sự sơ
thẩm và quyền kháng cáo của các đương sự.
Ngày 03-10-2024, bà Lưu Thị L kháng cáo một phần bản án sơ thẩm yêu
cầu Tòa án cấp phúc thẩm: Huỷ một phần bản án sơ thẩm theo hướng huỷ phần
quyết định buộc ông Phan Minh T1, bà Lưu Thị L phải trả cho ông Nguyễn Văn
H, bà Trần Thị T số tiền lãi đối với khoản vay 135.000.000 đồng từ ngày 02-01-
2019 đến ngày 28-4-2022 là 39 tháng 26 ngày = 135.000.000 đồng x 1,66% x 39
tháng 26 ngày = 89.341.200 đồng.
Trước khi mở phiên tòa phúc thẩm, các đương sự tự nguyện thỏa thuận với
nhau về việc giải quyết vụ án, cụ thể: bà L, ông T1 chấp nhận trả cho bà T, ông
H số tiền lãi là 35.000.000 đồng trên số tiền vay 135.000.000 đồng và bà T, ông
H đồng ý. Về án phí mỗi bên chịu ½ án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của
pháp luật.
Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông:
- Về tố tụng: Thẩm phán Chủ tọa phiên tòa, các Thẩm phán tham gia và Thư
ký Tòa án đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự trong quá
trình giải quyết vụ án tại Tòa án cấp phúc thẩm.
- Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 300 của Bộ luật Tố tụng
dân sự, sửa một phần bản án sơ thẩm, công nhận sự thỏa thuận của các đương sự,
cụ thể: Bà Trần Thị T, ông Nguyễn Văn H yêu cầu bà Lưu Thị L, ông Phan Minh
T1 trả cho bà Trần Thị T, ông Nguyễn Văn H số tiền lãi là 35.000.000đ (ba mươi
lăm triệu đồng) trên số tiền vay 135.000.000đ (một trăm ba mươi lăm triệu đồng)
và bà Lưu Thị L, ông Phan Minh T1 đồng ý. Bà Lưu Thị L, ông Phan Minh T1 đã
giao cho bà Trần Thị T, ông Nguyễn Văn H số tiền 35.000.000đ (ba mươi lăm triệu
đồng) và các đương sự đã lập biên bản giao nhận tiền. Các quyết định khác của bản
án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết
thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

6
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1]. Trước khi mở phiên tòa, Tòa án đã tiến hành hòa giải, kết quả các
đương sự đã thỏa thuận với nhau về việc giải quyết một phần bản án sơ thẩm đã
bị kháng cáo, cụ thể: Bà Trần Thị T, ông Nguyễn Văn H yêu cầu bà Lưu Thị L,
ông Phan Minh T1 trả cho bà Trần Thị T, ông Nguyễn Văn H số tiền lãi là
35.000.000đ (ba mươi lăm triệu đồng) trên số tiền vay 135.000.000đ (một trăm
ba mươi lăm triệu đồng) và bà Lưu Thị L, ông Phan Minh T1 đồng ý. Bà Lưu
Thị L, ông Phan Minh T1 đã giao cho bà Trần Thị T, ông Nguyễn Văn H số tiền
35.000.000đ (ba mươi lăm triệu đồng). Các đương sự đã lập biên bản giao nhận
tiền và làm đơn xin xét xử vắng mặt. Căn cứ khoản 2 Điều 296 của Bộ luật Tố
tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bà Trần Thị T, ông
Nguyễn Văn H, bà Lưu Thị L và ông Phan Minh T1.
Xét thấy sự thỏa thuận của các đương sự là hoàn toàn tự nguyện, không vi
phạm điều cấm của luật và không trái đạo đức xã hội nên căn cứ Điều 300 của
Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm, công
nhận sự thỏa thuận của các đương sự nêu trên.
[2]. Xét quan điểm đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ nên Hội
đồng xét xử chấp nhận.
[3]. Về án phí:
- Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Trần Thị T và bà Lưu Thị L mỗi người chịu
50% án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật là 875.000 đồng. Bà
Trần Thị T là người cao tuổi có đơn xin miễn tiền án phí, vì vậy miễn án phí dân
sự sơ thẩm cho bà Trần Thị T.
- Về án phí dân sự phúc thẩm: Do tại phiên tòa phúc thẩm, các đương sự
thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết một phần bản án sơ thẩm đã bị
kháng cáo nên bà Lưu Thị L là người kháng cáo phải chịu án phí dân sự phúc
thẩm theo quy định của pháp luật.
[4]. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng
nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ Điều 300, khoản 2 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự; áp dụng
khoản 5 Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy
ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và
sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, tuyên xử:

7
1. Sửa một phần Bản án dân sự sơ thẩm số 24/2024/DS-ST ngày 18-9-2024
của Toà án nhân dân huyện Krông Nô, tỉnh Đắk Nông, công nhận sự thỏa thuận
của các đương sự tại phiên tòa, cụ thể như sau:
- Bà Lưu Thị L, ông Phan Minh T1 chấp nhận trả cho bà Trần Thị T, ông
Nguyễn Văn H số tiền lãi là 35.000.000đ (ba mươi lăm triệu đồng) trên số tiền
vay 135.000.000đ (một trăm ba mươi lăm triệu đồng) theo yêu cầu của bà Trần
Thị T, ông Nguyễn Văn H.
- Bà Lưu Thị L, ông Phan Minh T1 đã giao cho bà Trần Thị T, ông Nguyễn
Văn H số tiền 35.000.000đ (ba mươi lăm triệu đồng) và đã lập biên bản giao
nhận tiền.
2. Về án phí:
2.1. Án phí dân sự sơ thẩm: Buộc Ông Phan Minh T1 và bà Lưu Thị L phải
chịu 875.000đ (tám trăm bảy mươi lăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm.
Miễn án phí dân sự sơ thẩm cho bà Trần Thị T, hoàn trả cho bà Trần Thị T số
tiền tạm ứng án phí đã nộp 2.726.000đ (hai triệu bảy trăm hai mươi sáu nghìn
đồng) theo Biên lai số 0008042 ngày 23-7-2024 của Chi cục Thi hành án dân sự
huyện K.
2.2. Án phí dân sự phúc thẩm: Buộc bà Lưu Thị L phải chịu 300.000đ (ba
trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự phúc thẩm, được trừ số tiền 300.000đ (ba trăm
nghìn đồng) đã nộp tạm ứng tại Biên lai số 0008155 ngày 15-10-2024 của Chi cục
Thi hành án dân sự huyện K.
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị
có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- TANDCC tại Tp. H;
- VKSND tỉnh Đắ k Nông;
- TAND huyện Krông Nô;
- Chi cục THADS huyện K;
- Các đương sự;
- Lưu: HS, Tổ HCTP.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(đã ký và đóng dấu)
Võ Văn Vinh
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 21/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 14/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 14/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 11/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 07/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 05/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 04/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 28/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 27/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 27/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 27/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 27/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 27/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 27/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 26/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 26/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 26/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 25/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 25/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 25/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm