Bản án số 31/2025/DS-PT ngày 14/02/2025 của TAND tỉnh Vĩnh Long về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 31/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 31/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 31/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 31/2025/DS-PT ngày 14/02/2025 của TAND tỉnh Vĩnh Long về tranh chấp hợp đồng vay tài sản |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng vay tài sản |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Vĩnh Long |
Số hiệu: | 31/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 14/02/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn. Chấp nhận kháng cáo của bị đơn. Sửa bản án sơ thẩm. Tranh chấp hợp đồng vay, biên nhận lãi thành gốc. |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỈNH VĨNH LONG Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Bản án số: 31/2025/DS-PT
Ngày: 14 - 02 - 2025
V/v tranh chấp hợp đồng vay tài sản.
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH VĨNH LONG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Bà Sơn Nữ Phà Ca
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Văn Dũng
Bà Đặng Thị Ánh Bình
- Thư ký phiên tòa: Bà Cao Ngọc Quí – Thư ký của Tòa án nhân dân tỉnh
Vĩnh Long.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Long: Bà Lữ Thị Tuyết
Lan - Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.
Ngày 14 tháng 02 năm 2025 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long
xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 317/2024/TLPT-DS ngày 31 tháng
10 năm 2024 về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 143/2024/DS-ST ngày 19 tháng 9 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Vĩnh Long bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 407/2024/QĐ-PT
ngày 03 tháng 12 năm 2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Anh Trần Quốc H (tên gọi khác Bi); Địa chỉ: Số F, đường
T, Phường D, Thành phố V, tỉnh Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn anh Trần Quốc
H: Luật sư Nguyễn Thành T – Công ty L thuộc Đoàn Luật sư thành phố H.
- Bị đơn:
1. Bà Trần Hoàng Phi P.
2. Ông Trương Hoàng H1.
2
Cùng địa chỉ: số G, ấp L, xã T, huyện L, tỉnh Vĩnh Long.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn bà Trần Hoàng Phi P:
Luật sư Hà Văn V – Văn phòng Luật sư Hà Văn V thuộc Đoàn Luật sư tỉnh V.
Người kháng cáo: Nguyên đơn anh Trần Quốc H, Bị đơn bà Trần Hoàng
Phi P.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo Đơn khởi kiện ngày 25/5/2024 và trong quá trình giải quyết vụ án,
nguyên đơn anh Trần Quốc H có người đại diện theo ủy quyền là ông Nguyễn
Văn H2 trình bày:
Do quen biết làm ăn, vào ngày 16/6/2022 đến ngày 27/02/2024 vợ chồng
bà Trần Hoàng Phi P và ông Trương Hoàng H1 có hỏi vay của anh Trần Quốc H
12 lần tiền, mục đích vay kinh doanh, 12 lần vay tiền đều có lập biên nhận mượn
tiền do bà P ký nhận với tổng số tiền vay 8.088.600.000 đồng, khi vay mượn hai
bên có thỏa thuận miệng lãi suất 3%/tháng. Thời gian hoàn trả vốn và lãi là 03
tháng của các biên nhận. Trong quá trình vay mượn, bên phía bị đơn bà P và ông
H1 đã thực hiện nghĩa vụ đóng lãi cho phía nguyên đơn tổng cộng 08 tháng tiền
lãi với số tiền 248.600.000 đồng từ tháng 10/2023 đến tháng tháng 05/2024. Bà
P, ông H1 đóng lãi không đầy đủ, anh H thường xuyên nhắc nhở. Nay anh H yêu
cầu bà P và ông H1 có nghĩa vụ hoàn trả cho anh H số tiền gốc của 12 biên nhận
là 8.088.600.000 đồng và tiền lãi với mức lãi suất là 1,66%/tháng, của từng biên
nhận như sau:
- Lần vay thứ nhất, ngày 17/6/2023 với số tiền gốc là 120.000.000 đồng,
lãi suất là 1,66%/tháng tính từ ngày 17/6/2023 đến ngày 25/5/2024 là 11 tháng 8
ngày với số tiền lãi là 22.443.200 đồng. Tổng cộng vốn và lãi là 142.443.200
đồng;
- Lần vay thứ hai, ngày 08/8/2023 với số tiền gốc là 500.000.000 đồng với
lãi suất là 1,66%/tháng tính từ ngày 08/8/2023 đến ngày 25/5/2024 là 9 tháng 17
ngày với số tiền lãi là 79.403.330 đồng. Tổng cộng vốn và lãi là 579.403.330
đồng;
- Lần vay thứ ba, ngày 11/8/2023 với số tiền gốc là 2.000.000.000 đồng với
lãi suất là 1,66%/tháng tính từ ngày 11/8/2023 đến ngày 25/5/2024 là 9 tháng 14
3
ngày với số tiền lãi là 314.293.300 đồng. Tổng cộng vốn và lãi là 2.314.293.300
đồng;
- Lần vay thứ tư, ngày 17/8/2023 với số tiền gốc là 2.000.000.000 đồng với
lãi suất là 1,66%/tháng tính từ ngày 17/8/2023 đến ngày 25/5/2024 là 09 tháng
08 ngày với số tiền lãi là 307.653.300 đồng. Tổng cộng vốn và lãi là
2.307.653.300 đồng;
- Lần vay thứ năm, ngày 23/8/2023 với số tiền gốc là 200.000.000 đồng với
lãi suất là 1,66%/tháng tính từ ngày 23/8/2023 đến ngày 25/5/2024 là 09 tháng
02 ngày với số tiền lãi là 30.301.330 đồng. Tổng cộng vốn và lãi là 230.301.330
đồng;
- Lần vay thứ sáu, ngày 25/8/2023 với số tiền gốc là 2.000.000.000 đồng
với lãi suất là 1,66%/tháng tính từ ngày 25/8/2023 đến ngày 25/5/2024 là 09
tháng với số tiền lãi là 298.800.000 đồng. Đối với biên nhận này, bà P đã thực
hiện nghĩa vụ trả tiền lãi được 248.600.000 đồng nên phần tiền lãi của biên nhận
này là 50.200.000 đồng. Tổng cộng vốn và lãi là 2.050.200.000 đồng;
- Lần vay thứ bảy, ngày 30/8/2023 với số tiền gốc là 195.000.000 đồng với
lãi suất là 1,66%/tháng tính từ ngày 30/8/2023 đến ngày 25/5/2024 là 08 tháng
25 ngày với số tiền lãi là 28.593.500 đồng. Tổng cộng vốn và lãi là 223.593.500
đồng;
- Lần vay thứ tám, ngày 29/9/2023 với số tiền gốc là 213.600.000 đồng với
lãi suất là 1,66%/tháng tính từ ngày 29/9/2023 đến ngày 25/5/2024 là 07 tháng
26 ngày với số tiền lãi là 27.893.310 đồng. Tổng cộng vốn và lãi là 241.498.320
đồng;
- Lần vay thứ chín, ngày 28/10/2023 với số tiền gốc là 180.000.000 đồng
với lãi suất là 1,66%/tháng tính từ ngày 28/10/2023 đến ngày 25/5/2024 là 06
tháng 27 ngày với số tiền lãi là 20.617.200 đồng. Tổng cộng vốn và lãi là
200.617.200 đồng;
- Lần vay thứ mười, ngày 30/11/2023 với số tiền gốc là 180.000.000 đồng
với lãi suất là 1,66%/tháng tính từ ngày 30/11/2023 đến ngày 25/5/2024 là 05
tháng 25 ngày với số tiền lãi là 17.430.000 đồng. Tổng cộng vốn và lãi là
197.430.000 đồng;
- Lần vay thứ mười một, ngày 29/12/2023 với số tiền gốc là 200.000.000
đồng với lãi suất là 1,66%/tháng tính từ ngày 29/12/2023 đến ngày 25/5/2024 là
4
04 tháng 26 ngày với số tiền lãi là 16.157.330 đồng. Tổng cộng vốn và lãi là
216.157.330 đồng;
- Lần vay thứ mười hai, ngày 27/02/2024 với số tiền gốc là 300.000.000
đồng với lãi suất là 1,66%/tháng tính từ ngày 27/02/2024 đến ngày 25/5/2024 là
02 tháng 28 ngày với số tiền lãi là 14.608.000 đồng. Tổng cộng vốn và lãi là
929.593.800 đồng.
Tổng cộng anh H yêu cầu trả vốn và lãi là 9.018.193.800 đồng. Trong đó,
vốn là 8.088.600.000 đồng, nợ lãi tạm tính đến ngày 25/5/2024 là 929.593.800
đồng và yêu cầu tiếp tục tính lãi đến ngày xét xử sơ thẩm. Ngoài ra không yêu
cầu gì khác.
Đối với Đơn yêu cầu phản tố của bị đơn bà Trần Hoàng Phi P, nguyên
đơn anh H có ý kiến như sau: 06 biên nhận bà P cho rằng lãi nhập vốn thì anh H
khẳng định đây là vốn vay, không phải lãi nhập vốn.
Đối với các biên nhận bị đơn nạy ra 06 biên nhận vay các ngày
17/02/2022, 25/7/2022, 11/8/2022, 23/8/2022, 08/12/2022, 27/02/2023 thì
nguyên đơn và bị đơn đã quyết toán xong, không liên quan đến 12 biên nhận
nguyên đơn anh H khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc bị đơn bà P trả từ ngày
17/6/2023 đến ngày 27/02/2024 với tổng số tiền vốn là 8.088.600.000 đồng.
Theo Đơn yêu cầu phản tố và trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn bà
Trần Hoàng Phi P trình bày:
Do quen biết với anh H nên bà P đã vay tiền từ anh H tổng số tiền
7.000.000.000 đồng với 06 lần vay lần lượt như sau:
- Lần vay thứ 01: Ngày 17/02/2022, vay số tiền 2.000.000.000 đồng, vay
không thời hạn, có làm biên nhận, lãi suất 3%/tháng, tính từ ngày 17/02/2022
đến tháng 12/2023 (22 tháng) thì bà P đã đóng lãi được 16 tháng với tổng tiền lãi
là 960.000.000 đồng. Khoản vay này bà P vay giúp cho ông Trần Hoàng D.
Khoản vay này đến khi chưa trả lãi hết anh H kêu đổi biên nhận thành biên nhận
ngày 17/8/2023.
Nếu tính mức lãi suất 1,66%/tháng từ ngày 17/02/2022 đến ngày
07/8/2024 (ngày hoà giải) (30 tháng) thì tổng tiền lãi phải trả là 996.000.000
đồng. Sau khi khấu trừ số tiền lãi 960.000.000 đồng bà P đã trả cho anh H thì bà
P còn nợ anh H tiền vốn là 2.000.000.000 đồng và tiền lãi là 36.000.000 đồng.
- Lần vay thứ 02: Ngày 25/7/2022, vay số tiền 2.000.000.000 đồng, vay
5
không thời hạn, có làm biên nhận, lãi suất 3%/tháng, tính từ ngày 17/02/2022
đến tháng 12/2023 (17 tháng) thì bà P đã đóng lãi được 12 tháng với tổng tiền lãi
là 720.000.000 đồng. Khoản vay này bà P vay giúp cho ông Trần Hoàng D số
tiền 500.000.000 đồng với mục đích trả tiền nhân công và mua xe cuốc; vay
giúp cho ông Trương Hoàng N số tiền 1.500.000.000 đồng với mục đích mua xe
cuốc và xà lang để làm công trình đoạn sông C; Khoản vay này do chưa đóng lãi
nên anh H kêu đổi thành biên nhận ngày 25/8/2023.
Nếu tính mức lãi suất 1,66%/tháng từ ngày 25/7/2022 đến ngày 07/8/2024
(ngày hoà giải) (24 tháng) thì tổng tiền lãi phải trả là 796.800.000 đồng. Sau khi
khấu trừ số tiền lãi 720.000.000 đồng bà P đã trả cho anh H thì bà P còn nợ anh
H tiền vốn là 2.000.000.000 đồng và tiền lãi là 76.800.000 đồng.
- Lần vay thứ 03: Ngày 11/8/2022, vay số tiền 2.000.000.000 đồng, vay
không thời hạn, có làm biên nhận, lãi suất 3%/tháng, tính từ ngày 11/8/2022 đến
tháng 12/2023 (16 tháng) thì bà P đã đóng lãi được 10 tháng với tổng tiền lãi là
600.000.000 đồng. Khoản vay này bà P vay giúp cho ông Trần Hoàng D số tiền
1.000.000.000 đồng với mục đích mua vật tư hoàn thành xưởng; vay giúp cho bà
Nguyễn Thị C số tiền 1.000.000.000 đồng mục đích ươm cây giống và kinh
doanh. Khoản vay này anh H yêu cầu đổi thành biên nhận ngày 11/8/2023.
Nếu tính mức lãi suất 1,66%/tháng từ ngày 11/8/2022 đến ngày 07/8/2024
(ngày hoà giải) (24 tháng) thì tổng tiền lãi phải trả là 796.800.000 đồng. Sau khi
khấu trừ số tiền lãi 600.000.000 đồng bà P đã trả cho anh H thì bà P còn nợ anh
H tiềnvốn là 2.000.000.000 đồng và tiền lãi là 196.800.000 đồng.
- Lần vay thứ 04: Ngày 23/8/2022, vay số tiền 200.000.000 đồng, vay
không thời hạn, có làm biên nhận, lãi suất 3%/tháng, tính từ ngày 23/8/2022 đến
tháng 12/2023 (16 tháng) thì bà P đã đóng lãi được 13 tháng với tổng tiền lãi là
78.000.000 đồng. Khoản vay này anh H yêu cầu đổi thành biên nhận ngày
23/8/2023.
Nếu tính mức lãi suất 1,66%/tháng từ ngày 23/8/2022 đến ngày 07/8/2024
(ngày hoà giải) (23 tháng) thì tổng tiền lãi phải trả là 76.360.000 đồng. Sau khi
khấu trừ số tiền lãi 78.000.000 đồng bà P đã trả cho anh H thì bà P còn nợ anh H
tiền vốn và lãi là 198.360.000 đồng.
- Lần vay thứ 05: Ngày 08/12/2022, vay số tiền 500.000.000 đồng, vay
không thời hạn, có làm biên nhận, lãi suất 3%/tháng, tính từ ngày 08/12/2022
đến tháng 12/2023 (12 tháng) thì bà P đã đóng lãi được 10 tháng với tổng tiền lãi
6
là 150.000.000 đồng. Khoản vay này anh H yêu cầu đổi thành biên nhận ngày
08/8/2023.
Nếu tính mức lãi suất 1,66%/tháng từ ngày 08/12/2022 đến ngày
07/8/2024 (ngày hoà giải) (20 tháng) thì tổng tiền lãi phải trả là 166.000.000
đồng. Sau khi khấu trừ số tiền lãi 150.000.000 đồng bà P đã trả cho anh H thì bà
P còn nợ anh H tiền vốn là 500.000.000 đồng và tiền lãi là 16.000.000 đồng.
- Lần vay thứ 06: Ngày 27/02/2023, vay số tiền 300.000.000 đồng, vay
không thời hạn, có làm biên nhận, lãi suất 3%/tháng, tính từ ngày 27/02/2023
đến tháng 12/2023 (10 tháng) thì bà P đã đóng lãi được 07 tháng với tổng tiền lãi
là 63.000.000 đồng. Khoản vay này anh H yêu cầu đổi thành biên nhận ngày
27/02/2024.
Nếu tính mức lãi suất 1,66%/tháng từ ngày 27/02/2023 đến ngày
07/8/2024 (ngày hoà giải) (17 tháng) thì tổng tiền lãi phải trả là 84.660.000
đồng. Sau khi khấu trừ số tiền lãi 63.000.000 đồng bà P đã trả cho anh H thì bà
P còn nợ anh H tiền vốn là 300.000.000 đồng và tiền lãi là 21.660.000 đồng.
Đối chiếu với 06 lần vay trên, bà P đã trả lãi cho anh H tổng tiền lãi là
2.571.000.000 đồng. Nay bà P đồng ý trả cho nguyên đơn anh H số tiền vốn
7.000.000.000 đồng và tiền lãi với mức lãi suất 1,66%/tháng của 06 biên nhận
ngày 17/02/2022, 25/7/2022, 11/8/2022, 23/8/2022, 08/12/2022, 27/02/2023 tính
đến ngày 16/9/2024 là 3.069.506.412 đồng, sau khi khấu trừ tổng tiền lãi
2.747.400.000 đồng bà đã đóng lãi cho anh H, còn lại tiền lãi là 322.106.412
đồng, trừ đi số tiền 19.800.000 đồng số tiền lãi của 06 biên nhận bà yêu cầu vô
hiệu. Bà P đồng ý trả cho anh H tổng số tiền 7.302.306.412 đồng bao gồm tiền
vốn vay 7.000.000.000 đồng và tiền lãi 302.306.412 đồng.
Đối với 12 biên nhận mà nguyên đơn anh H đã nêu thì bà P không đồng ý,
bà yêu cầu vô hiệu 12 biên nhận vì bà P cho rằng đó là biên nhận lãi không phải
biên nhận vốn và là biên nhận viết lại. Bà P yêu cầu anh H phải trả lại cho bà số
tiền lãi bà đã đóng của 06 biên nhận.
Biên nhận ngày 29/12/2023 với số tiền 200.000.000 đồng. Vì 06 biên
nhận này là tiền lãi của 06 biên nhận nợ gốc các biên nhận gốc năm 2022, đã trả
tiền lãi 2.571.000 đồng, thời điểm này lãi 3%/tháng, nhưng đến nay là lãi phải
trả là 1,66% = 2.916.620 đồng, trừ lại bà P phải trả vốn và lãi là 7.345.620.000
đồng và tiền lãi của biên nhận ngày 17/6/2023 với số tiền là 120.000.000 đồng,
biên nhận ngày 28/10/2023 số tiền 180.000.000 đồng, và biên nhận ngày
7
30/11/2023 số tiền 180.000.000 đồng.
Yêu cầu anh Hoàn T1 cho bà P số tiền đã đóng lãi của 06 biên nhận từ
ngày 17/6/2023 đến biên nhận ngày 29/12/2023 là 19.800.000 đồng.
Nay bà P đồng ý trả cho anh H số tiền gốc và lãi là 7.345.620.000 đồng,
được bù trừ 19.800.000 đồng, bà P đồng ý trả cho anh H 7.325.820.000 đồng.
Yêu cầu hủy 12 biên nhận của anh H cung cấp.
Trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn ông Trương Hoàng H1 có bản
khai trình bày:
Ông Trương Hoàng H1 có đơn xin vắng mặt nhưng có nộp bản khai ý
kiến trình bày về sự việc này và ý kiến của ông H1 cho rằng đây là số tiền vay
cá nhân của bà P, không phải là tài sản chung nên không đồng ý cùng bà P trả số
tiền cho phía nguyên đơn. Ông H1 xin vắng mặt tại tất cả phiên hòa giải và
phiên tòa xét xử.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 143/2024/DS-ST ngày 19 tháng 9 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Vĩnh Long đã quyết định:
Căn cứ các Điều 26, 35, 39, 147, khoản 1 Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng
dân sự năm 2015; Căn cứ các Điều 117, 123, 463, 468, 469 Bộ luật dân sự năm
2015; Căn cứ Điều 45 Luật hôn nhân gia đình năm 2014; Căn cứ khoản 4 Điều
26 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về quy định mức thu,
miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn anh Trần Quốc
H.
Buộc bà Trần Hoàng Phi P có nghĩa vụ phải thanh toán cho anh Trần
Quốc H số tiền vay chưa trả vốn và lãi là 7.563.819.331 đồng (Bảy tỷ năm trăm
sáu mươi ba triệu tám trăm mười chín ngàn ba trăm ba mươi mốt đồng), trong
đó: tiền gốc là 7.000.000.000 đồng (Bảy tỷ đồng) và tiền lãi là 563.819.331
đồng (Năm trăm sáu mươi ba triệu tám trăm mười chín ngàn ba trăm ba mươi
mốt đồng).
2. Không chấp nhận của anh H yêu cầu ông Trương Hoàng H1 liên đới
cùng bà P trả cho anh H số tiền 9.530.370.917 đồng.
3. Không chấp nhận anh H yêu cầu bà P trả số tiền là 1.966.551.586 đồng
(Một tỷ chín trăm sáu mươi sáu triệu năm trăm năm mươi mốt ngàn năm trăm
8
tám mươi sáu đồng), trong đó tiền gốc là 1.088.600.000 đồng (Một tỷ không
trăm tám mươi tám triệu sáu trăm ngàn đồng) và tiền lãi là 877.951.586 đồng
(T2 trăm bảy mươi bảy triệu chín trăm năm mươi mốt ngàn năm trăm tám mươi
sáu đồng).
4. Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của bà Trần Hoàng Phi P. Vô hiệu
06 biên nhận cụ thể như sau: Biên nhận ngày 17/6/2023 vay 120.000.000 đồng;
Biên nhận ngày 30/8/2023 vay 195.000.000 đồng; Biên nhận ngày 29/9/2023
vay 213.600.000 đồng; Biên nhận ngày 28/10/2023 vay 180.000.000 đồng; Biên
nhận ngày 30/11/2023 vay 180.000.000 đồng; Biên nhận ngày 29/12/2023 vay
200.000.000 đồng.
Ngoài ra, bản án còn tuyên về án phí; nghĩa vụ thi hành án và quyền
kháng cáo của đương sự theo luật định.
Ngày 01 tháng 10 năm 2024, nguyên đơn anh Trần Quốc H có đơn kháng
cáo với nội dung: Anh Trần Quốc H không đồng ý với Quyết định của Bản án sơ
thẩm về buộc bà Trần Hoàng P1 P trả cho anh số tiền vốn và lãi là
7.563.819.331 đồng. Lý do kháng cáo: Toà án cấp sơ thẩm không xem xét, đánh
giá một cách đầy đủ, toàn diện, khách quan các chứng cứ do nguyên đơn cung
cấp. Yêu cầu Toà án cấp phúc thẩm sửa Bản án sơ thẩm theo hướng buộc bà
Trần Hoàng Phi P và ông Trương Hoàng H1 trả cho anh Trần Quốc H số tiền
vốn và lãi là 9.530.310.917 đồng, trong đó vốn là 8.088.600.000 đồng và tiền lãi
là 1.441.770.917 đồng.
Ngày 02 tháng 10 năm 2024, bị đơn bà Trần Hoàng Phi P có đơn kháng
cáo với nội dung: Bà Trần Hoàng Phi P không đồng ý một phần Bản án sơ thẩm
về phần nhận định và tuyên xử bù trừ tiền lãi của bà đã trả, buộc bà phải có
nghĩa vụ trả vốn lãi cho anh H là 7.563.819.331 đồng là thiệt hại cho bà.
Yêu cầu Toà án cấp phúc thẩm sửa Bản án sơ thẩm, ghi nhận lại cho đúng
chứng cứ tài khoản anh H nhận tiền lãi của bà tại Ngân hàng A và V1.
Chấp nhận cho bà được bù trừ thêm số tiền chuyển khoản 11.000.000
đồng và số tiền mặt là 240.000.000 đồng, cộng chung với số tiền trả lãi
2.516.200.000 đồng đã được cấp sơ thẩm chấp nhận bằng 2.767.200.000 đồng
để bù trừ số tiền lại bà P phải trả cho anh H 1,66%/tháng, tính từ ngày vay đến
ngày xét xử sơ thẩm là 3.080.819.333 đồng, bà P còn phải trả cho anh H tiền lãi
312.819.333 đồng, cộng với tiền vốn vay gốc là 7.000.000.000 đồng bằng
7.312.819.333 đồng.
9
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Nguyên đơn anh H vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo. Anh H yêu cầu
chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của anh. Buộc bà P, ông H1 có nghĩa vụ
liên đới trả cho anh nợ vốn là 8.088.600.000 đồng và tiền lãi là 1.441.770.917
đồng. Tổng cộng vốn, lãi là 9.530.310.917 đồng. Anh H thừa nhận 06 biên nhận
từ ngày 17/02/2022, ngày 25/7/2022, ngày 11/8/2022, ngày 23/8/2022, ngày
08/12/2022 và ngày 27/02/2023 tổng cộng số tiền 7.000.000.000 đồng bà P, ông
H1 đã trả xong vốn, lãi cho anh trước ngày 17/6/2023 và không liên quan số tiền
vay 8.088.600.000 đồng anh khởi kiện trong vụ án này.
Bị đơn bà P vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo. Bà xác định chỉ vay và
còn nợ anh H số tiền vốn 7.000.000.000 đồng theo 06 biên nhận vay từ ngày
17/02/2022, ngày 25/7/2022, ngày 11/8/2022, ngày 23/8/2022, ngày 08/12/2022
và ngày 27/02/2023. Còn lại 12 biên nhận vay anh H khởi kiện trong vụ án này
số tiền 8.088.600.000 đồng, gồm: 06 biên nhận vốn đổi lại số tiền 7.000.000.000
đồng và tiền nợ lãi nhập vốn anh H yêu cầu bà viết biên nhận vay số tiền
1.088.600.000 đồng. Vì vậy bà P yêu cầu khấu trừ số tiền lãi bà đã đóng cho anh
H từ ngày 17/02/2022 đến khi tranh chấp vào tiền vốn, lãi theo quy định. Sau
khi khấu trừ, bà còn phải trả cho anh H tiền lãi 312.819.333 đồng, cộng với tiền
vốn vay gốc là 7.000.000.000 đồng. Tổng cộng bà đồng ý trả là 7.312.819.333
đồng. Số tiền vay trên bà vay cá nhân không sử dụng chung vào gia đình nên
không đồng ý với yêu cầu kháng cáo anh H buộc bà và ông H1 liên đới trả số
tiền vốn lãi bằng 9.530.310.917 đồng.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn anh Trần Quốc
H - Luật sư Nguyễn Thành T đề nghị: Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu
cầu khởi kiện, yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn anh H. Bác toàn bộ yêu cầu
kháng cáo của bị đơn bà P. Sửa Bản án dân sự sơ thẩm. Buộc bà P, ông H1 có
nghĩa vụ liên đới trả cho anh H nợ vốn là 8.088.600.000 đồng và tiền lãi là
1.441.770.917 đồng. Tổng cộng vốn, lãi là 9.530.310.917 đồng. Tất cả 12 biên
nhận nguyên đơn khởi kiện, bị đơn thừa nhận do bị đơn viết, ký tên và nội dung
các biên nhận đều không thể hiện tiền lãi nhập vốn. Ông H1 là chồng bà P vay
tiền phát sinh trong thời kỳ hôn nhân nên căn cứ quy định Luật Hôn nhân gia
đình thì ông H1 phải có trách nhiệm liên đới trả tiền cho anh H là đúng quy
định.
10
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn bà Trần Hoàng Phi P -
Luật sư Hà Văn V đề nghị: Chấp toàn bộ yêu cầu kháng cáo của bị đơn bà P.
Bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện, yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn anh H. Sửa
Bản án dân sự sơ thẩm. Yêu cầu khấu trừ số tiền lãi bà P đã đóng cho anh H từ
ngày 17/02/2022 đến khi tranh chấp vào tiền vốn, lãi bà P có nghĩa vụ trả cho
anh H theo quy định. Sau khi khấu trừ, bà P còn phải trả cho anh H tiền lãi
312.819.333 đồng, cộng với tiền vốn vay gốc là 7.000.000.000 đồng. Tổng cộng
vốn, lãi là 7.312.819.333 đồng. Bà P vay anh H số tiền 7.000.000.000 đồng là
vay cá nhân bà P, không sử dụng chung vào gia đình nên án sơ thẩm không buộc
ông H1 liên đới trả vốn, lãi là có căn cứ.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Long phát biểu ý kiến:
Về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và người
tham gia tố tụng: Tất cả đều tuân thủ đúng quy định của pháp luật từ khi thụ lý
vụ án đến khi xét xử phúc thẩm.
Về việc giải quyết vụ án: Căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự
năm 2015; khoản 2 Điều 29 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
- Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của anh Trần Quốc H; Chấp nhận
một phần kháng cáo của bà Trần Hoàng Phi P.
- Sửa Bản án dân sự sơ thẩm. Buộc bà Trần Hoàng Phi P có nghĩa vụ trả
cho anh Trần Quốc H tổng số tiền gốc và lãi là 7.552.819.331 đồng (trong đó,
tiền gốc là 7.000.000.000 đồng, tiền lãi 552.819.331 đồng).
- Về án phí: Do sửa án nên phần án phí được xác định lại:
+ Anh H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm số tiền 71.326.530 đồng.
+ Bà P phải chịu án phí dân sự sơ thẩm số tiền 115.552.819 đồng.
+ Về án phí phúc thẩm: Các đương sự kháng cáo không phải chịu án phí
phúc thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về tố tụng: Bị đơn ông Trương Hoàng H1 đã được triệu tập hợp lệ lần
hai nhưng có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt tại cấp phúc thẩm. Căn cứ Điều
296 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Toà án xét xử vắng mặt ông Trương
11
Hoàng H1.
[2] Xét yêu cầu kháng cáo anh H cho rằng từ ngày 17/6/2023 đến ngày
27/02/2024 anh có cho bà P, ông H1 vay tổng cộng 12 lần bằng số tiền
8.088.600.000 đồng, vay có biên nhận do cá nhân bà P viết, lãi suất thỏa thuận
3%/tháng. Cụ thể gồm: Biên nhận ngày 17/6/2023, số tiền 120.000.000 đồng;
Biên nhận ngày 08/8/2023, số tiền 500.000.000 đồng; Biên nhận ngày
11/8/2023, số tiền 2.000.000.000 đồng; Biên nhận ngày 17/8/2023, số tiền
2.000.000.000 đồng; Biên nhận ngày 23/8/2023, số tiền 200.000.000 đồng; Biên
nhận ngày 25/8/2023, số tiền 2.000.000.000 đồng; Biên nhận ngày 30/8/2023, số
tiền 195.000.000 đồng; Biên nhận ngày 29/9/2023, số tiền 213.600.000 đồng;
Biên nhận ngày 28/10/2023, số tiền 180.000.000 đồng; Biên nhận ngày
30/11/2023, số tiền 180.000.000 đồng; Biên nhận ngày 29/12/2023, số tiền
200.000.000 đồng; Biên nhận ngày 27/02/2024, số tiền 300.000.000 đồng.
Còn bà P thì không thừa nhận và cho rằng từ 17/02/2022 đến ngày
27/02/2023 bà P có vay anh H 06 lần bằng số tiền 7.000.000.000 đồng, lãi suất
3%/tháng, bà P đóng lãi cho ông H nhiều lần bằng hình thức trả tiền mặt và
chuyển khoản cho anh H tổng cộng số tiền là 2.747.400.000 đồng. Riêng những
tháng do bà không có tiền đóng lãi nên anh H buộc bà ghi biên nhận nợ cho anh
H gồm 06 biên nhận, tổng cộng số tiền là 1.088.600.000 đồng, Cụ thể: biên nhận
ngày 17/6/2023 số tiền 120.000.000 đồng; ngày 30/8/2023, số tiền 195.000.000
đồng; ngày 29/9/2023, số tiền 213.600.000 đồng; ngày 28/10/2023, số tiền
180.000.000 đồng; ngày 30/11/2023, số tiền 180.000.000 đồng; ngày
29/12/2023, số tiền 200.000.000 đồng. Còn lại, 06 biên nhận số tiền
7.000.000.000 đồng từ ngày 08/8/2023 đến ngày 27/02/2024 theo yêu cầu của
anh H bà viết lại của 06 biên nhận vay các ngày từ 17/02/2022 đến ngày
27/02/2023. Cụ thể:
- Vay ngày 17/02/2022, số tiền 2.000.000.000 đồng, sau đổi ghi lại biên
nhận mới ngày 17/8/2023;
- Vay ngày 25/7/2022, số tiền 2.000.000.000 đồng, sau đổi ghi lại biên
nhận mới ngày 25/8/2023;
- Vay ngày 11/8/2022, số tiền 2.000.000.000 đồng, sau đổi ghi lại biên
nhận mới ngày 11/8/2023;
- Vay ngày 23/8/2022, số tiền 200.000.000 đồng, sau đổi ghi lại biên nhận
mới ngày 23/8/2023;
12
- Vay ngày 08/02/2022, số tiền 500.000.000 đồng, sau đổi ghi lại biên
nhận mới ngày 08/8/2023.
- Vay ngày 27/02/2023, số tiền 300.000.000 đồng, sau đổi ghi lại biên
nhận mới ngày 27/02/2024.
Xét anh H kháng cáo cho rằng 06 biên nhận vay từ 17/02/2022 đến ngày
27/02/2023 số tiền 7.000.000.000 đồng bà P, ông H1 đã trả xong vốn, lãi cho
anh H trước ngày 17/6/2023 và không liên quan gì đến 12 biên nhận anh khởi
kiện bà P, ông H1 số tiền 8.088.600.000 đồng từ ngày 17/6/2023 đến ngày
27/02/2024. Anh H cho rằng đến thời điểm trước ngày 17/6/2023 bà P đã trả
xong vốn, lãi các khoản vay trước đó. Đến ngày 17/6/2023 bà P vay lại số tiền
120.000.000 đồng, hai bên thỏa thuận lãi suất 3%/tháng và đến ngày 08/8/2023,
bà P, vay tiếp số tiền 500.000.000 đồng, lãi suất thỏa thuận 3%/tháng, hai bên
thỏa thuận bà P trả lãi khi đến hết 30 ngày kể từ ngày viết biên nhận vay. Tuy
nhiên, căn cứ các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thể hiện: Tính từ ngày
24/6/2023 đến ngày 20/7/2023 bà P chuyển khoản cho anh H thông qua các số
tài khoản của anh Trần Quốc H tại Ngân hàng N1 (A) với số tài khoản
7301205058226 bằng số tiền 213.600.000 đồng. Nội dung các lần chuyển khoản
bà P đều ghi “Tran Phi P2 ck tiền lãi”.
Ngoài ra, theo hồ sơ thể hiện từ ngày 26/7/2023 đến ngày 31/5/2024 bà P
tiếp tục chuyển khoản cho anh H tại Ngân hàng N1 (A) với số tài khoản
7301205058226 và Ngân hàng TMCP N2 (V1) với số tài khoản 1033405514,
với tổng số tiền lãi là 2.313.600.000 đồng. Tại phiên tòa, anh H thừa nhận các số
tài khoản trên của anh và anh thừa nhận trong khoản thời gian trên có nhận số
tiền 2.527.200.000 đồng do bà P chuyển khoản nhưng do lâu quá anh không nhớ
tiền trên bà P chuyển nhằm mục đích gì. Còn bà P thì cho rằng số tiền lãi bà
chuyển khoản cho anh H từ ngày 24/6/2023 đến tháng 5/2024 là bà đóng cho số
tiền nợ vốn 7.000.000.000 đồng của 06 biên nhận vay từ 17/02/2022 đến ngày
27/02/2023.
Xét Biên bản lấy lời khai ngày 29/7/2024 của anh Trần Quốc H (BL 271-
273), anh H thừa nhận năm 2022 có cho bà P vay rất nhiều lần và nhận lãi từ bà
P thông qua hình thức chuyển khoản, các khoản vay đều đã được trả xong. Tuy
nhiên, xét các Biên nhận gốc anh H cho bà P vay từ ngày 05/11/2021 đến
15/4/2022 (BL 437-441), các biên nhận này được bà P cung cấp là các khoản nợ
mà bà đã tất toán với anh H và các biên nhận đều có chữ ký và ghi chữ “nhận
13
đủ” của anh H. So với các biên nhận của 06 khoản vay mà bà P thừa nhận (BL
340-345) thì không có dấu hiệu thể hiện bà P đã trả hết, chính bà P cũng thừa
nhận bà trả các khoản này từ năm 2022 đến năm 2024 thì anh H khởi kiện bà tại
Toà án. Đồng thời, như đã phân tích, các chứng từ chuyển khoản tiền lãi của bà
P năm 2022 đều khớp về vốn vay gốc và lãi suất với 06 khoản vay năm 2022
phát sinh tại thời điểm chuyển lãi trên số tiền gốc theo lời trình bày của bà P.
Ngoài ra, theo các chứng từ và bảng kê (BL 37-192) bà P cung cấp tại cấp
sơ thẩm, Hội đồng xét xử nhận thấy các chứng từ và bảng kê do bà P cung cấp
thể hiện đúng diễn biến quá trình trả lãi của bà P phát sinh trên dư nợ gốc như
lời trình bày của bà P như khớp thời gian, mức lãi suất 3%/tháng cho mỗi khoản
vay và số tiền chuyển khoản trả lãi khi đến hạn hoặc không chuyển khoản thì bà
P ghi biên nhận nợ mới đối với tiền lãi phát sinh.
Như vậy, có căn cứ xác định 06 biên nhận vay từ 17/02/2022 đến ngày
27/02/2023 số tiền 7.000.000.000 đồng và 12 biên nhận từ ngày 17/6/2023 đến
ngày 27/02/2024, số tiền 8.088.600.000 đồng là có liên quan nhau. Cụ thể: 06
biên nhận số tiền vay 7.000.000.000 đồng mà bà P cung cấp là biên nhận gốc,
gồm: Biên nhận ngày 17/02/2022, số tiền 2.000.000.000 đồng; Biên nhận ngày
25/7/2022, số tiền 2.000.000.000 đồng; Biên nhận ngày 11/8/2022, số tiền
2.000.000.000 đồng; Biên nhận ngày 23/8/2022, số tiền 200.000.000 đồng; Biên
nhận ngày 08/12/20222, số tiền 500.000.000 đồng; Biên nhận ngày 25/02/2023,
số tiền 300.000.000 đồng và các biên nhận trên bà P chưa trả vốn, bà P đóng lãi
từ ngày vay đến ngày 31/5/2024. Sáu (06) biên nhận do anh H cung cấp gồm:
Biên nhận ngày 08/8/2023 với số tiền gốc là 500.000.000 đồng; Biên nhận ngày
11/8/2023 với số tiền gốc là 2.000.000.000 đồng; Biên nhận ngày 17/8/2023 với
số tiền gốc là 2.000.000.000 đồng; Biên nhận ngày 23/8/2023 với số tiền gốc là
200.000.000 đồng; Biên nhận ngày 25/8/2023 với số tiền gốc là 2.000.000.000
đồng; Biên nhận ngày 27/02/2024 với số tiền gốc là 300.000.000 đồng. Tổng
cộng 7.000.000.000 đồng là các biên nhận bà P viết đổi lại của 06 biên nhận vay
trước đó số tiền 7.000.000.000 đồng từ ngày 17/02/2022 đến ngày 27/02/2023.
Và 06 biên nhận còn lại gồm: Biên nhận ngày 17/6/2023, số tiền 120.000.000
đồng; Biên nhận ngày 30/8/2023, số tiền 195.000.000 đồng; Biên nhận ngày
29/9/2023, số tiền 213.600.000 đồng; Biên nhận ngày 28/10/2023, số tiền
180.000.000 đồng; Biên nhận ngày 30/11/2023, số tiền 180.000.000 đồng và
biên nhận ngày 29/12/2023, số tiền 200.000.000 đồng là tiền lãi phát sinh của số
14
tiền vay 7.000.000.000 đồng của 06 biên nhận vay từ ngày 17/02/2022 đến ngày
27/02/2023 nhưng khi đến hạn trả lãi bà P không có tiền đóng anh H buộc ghi
biên nhận nợ. Cụ thể:
- Biên nhận ngày 17/6/2023, số tiền 120.000.000 đồng là nợ tiền lãi tháng
6 năm 2023 gồm: 60.000.000 đồng lãi biên nhận 17/02/2022; lãi 60.000.000
đồng biên nhận 11/8/2022.
- Biên nhận ngày 30/8/2023, số tiền 195.000.000 đồng là tiền nợ lãi tháng
8 năm 2023 gồm: 60.000.000 đồng lãi biên nhận 17/02/2022; 60.000.000 đồng
lãi biên nhận ngày 25/7/2022; 60.000.000 đồng lãi biên nhận ngày 11/8/2022;
6.000.000 đồng lãi biên nhận ngày 23/8/2022; 9.000.000 đồng lãi biên nhận
ngày 27/02/2023.
- Biên nhận ngày 29/9/2023, số tiền 213.600.000 đồng là tiền nợ lãi tháng
9 năm 2023 gồm: 60.000.000 đồng lãi biên nhận 17/02/2022; 60.000.000 đồng
lãi biên nhận ngày 25/7/2022; 60.000.000 đồng lãi biên nhận ngày 11/8/2022;
6.000.000 đồng lãi biên nhận ngày 23/8/2022; 15.000.000 đồng lãi biên nhận
ngày 08/12/2022; 9.000.000 đồng lãi biên nhận ngày 27/02/2023; 3.600.000
đồng lãi biên nhận ngày 17/6/2023.
- Biên nhận ngày 28/10/2023, số tiền 180.000.000 đồng là tiền nợ lãi
tháng 10 năm 2023 gồm: 60.000.000 đồng lãi biên nhận 17/02/2022; 60.000.000
đồng lãi biên nhận ngày 25/7/2022; 60.000.000 đồng lãi biên nhận ngày
11/8/2022.
- Biên nhận ngày 30/11/2023, số tiền 180.000.000 đồng là tiền nợ lãi
tháng 11 năm 2023 gồm: 60.000.000 đồng lãi biên nhận 17/02/2022; 60.000.000
đồng lãi biên nhận ngày 25/7/2022; 60.000.000 đồng lãi biên nhận ngày
11/8/2022.
- Biên nhận ngày 29/12/2023, số tiền 200.000.000 đồng là tiền nợ lãi
tháng 12 năm 2023 của các biên nhận ngày 17/02/2022, ngày 25/7/2022, ngày
11/8/2022, ngày 23/8/2022, ngày 08/12/2022, ngày 27/02/2023, ngày 17/6/2023,
ngày 28/10/2023 và ngày 30/11/2023 tổng số tiền theo biên nhận là
7.480.000.000 đồng x 3% = 224.400.000 đồng, được khấu trừ số tiền đã chuyển
khoản đóng 3.600.000 đồng lãi ngày 21/12/2023 + 5.000.000 đồng lãi ngày
26/12/2023 + 5.000.000 đồng lãi ngày 05/01/2024 + 10.800.000 đồng lãi ngày
12/01/2024 = 24.400.000 đồng. (kèm giấy chuyển tiền).
Ngoài ra, bà P cho rằng bà đóng lãi tiền mặt cho anh H số tiền
15
240.000.000 đồng nhưng anh H không thừa nhận nên không có căn cứ chấp
nhận lời trình bày về số tiền lãi đóng tiền mặt của bà P.
Do đó, cấp sơ thẩm chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông H và
xác định bà P chỉ nợ vốn ông H từ ngày 17/02/2022 đến ngày 27/02/2024 tổng
cộng là 7.000.000.000 đồng. Đồng ý khấu trừ tiền lãi bà P đã đóng từ ngày
24/6/2023 đến ngày 31/5/2024 tổng số tiền 2.527.200.000 đồng vào tiền gốc, lãi
là có căn cứ. Vì vậy, không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông H về việc
buộc bà P, ông H1 trả tiền vốn 12 biên nhận số tiền 8.088.600.000 đồng.
[3] Xét yêu cầu kháng cáo bà P về số tiền lãi: Ông H yêu cầu tính lãi suất
1.66%/tháng trên số tiền gốc 8.088.600.000 đồng bằng số tiền 1.441.770.917
đồng. Như đã phân tích, số tiền gốc thực tế anh H cho bà P vay dựa trên 06 biên
nhận ngày 17/2/2022; ngày 25/7/2022; ngày 11/8/2022; ngày 23/8/2022; ngày
08/12/2022; ngày 27/02/2023 tổng cộng là 7.000.000.000 đồng. Theo đó, số tiền
lãi tính từ ngày vay của các biên nhận trên đến ngày xét xử sơ thẩm với mức lãi
suất 1,66%/tháng được cấp sơ thẩm đã tính là 3.080.019.331 đồng.
Xét các chứng từ, bảng kê và diễn biến quá trình trả lãi của 06 biên nhận
vay năm 2022 mà bà P cung cấp tại cấp sơ thẩm, các khoản lãi mà bà P đã trả.
Cụ thể:
- Biên nhận ngày 17/02/2022, số tiền vay 2.000.000.000 đồng. Bà P đã
đóng lãi với tổng số tiền 780.000.000 đồng thể hiện qua các chứng từ chuyển
tiền lãi 60.000.000 đồng mỗi tháng qua Ngân hàng lần lượt các ngày 19/5/2022;
17/6/2022; 17/7/2022; 19/8/2022; 19/9/2022; 18/10/2022; 18/11/2022;
23/12/2022; 18/01/2023; 18/02/2023; 21/4/2023; 19/5/2023. Xét khoản lãi
120.000.000 đồng bà P trình bày là bà trả lãi bằng tiền mặt cho anh H cho tháng
3 và tháng 4 năm 2022, cấp phúc thẩm nhận thấy ngoài lời trình bày về việc trả
lãi số tiền 120.000.000 đồng này thì bà P không cung cấp được tài liệu, chứng
cứ chứng minh cho lời trình bày của mình. Do đó, với biên nhận ngày
17/02/2022, toà cấp phúc thẩm có căn cứ xác định bà P đã đóng lãi cho anh H số
tiền 780.000.000 đồng.
- Biên nhận vay ngày 25/7/2022, số tiền vay 2.000.000.000 đồng. Bà P đã
đóng lãi với tổng số tiền 600.000.000 đồng thể hiện qua các chứng từ chuyển
tiền lãi 60.000.000 đồng mỗi tháng qua Ngân hàng lần lượt các ngày 26/8/2022;
27/9/2022; 26/10/2022; 28/11/2022; 27/12/2022; 02/02/2023; 27/02/2023;
26/3/2023; 26/4/2023; 27/5/2023.
16
- Biên nhận vay ngày 11/8/2022, số tiền vay 2.000.000.000 đồng. Bà P đã
đóng lãi với tổng số tiền 420.000.000 đồng thể hiện qua các chứng từ chuyển
tiền lãi 60.000.000 đồng mỗi tháng qua Ngân hàng lần lượt các ngày
12/11/2022; 13/12/2022; 12/01/2023; 11/02/2023; 11/3/2023; 13/4/2023;
11/5/2023. Xét khoản lãi 120.000.000 đồng bà P trình bày là bà trả lãi bằng tiền
mặt cho anh H cho tháng 9 và tháng 10 năm 2022, cấp phúc thẩm nhận thấy
ngoài lời trình bày về việc trả lãi số tiền 120.000.000 đồng này thì bà P không
cung cấp được tài liệu, chứng cứ chứng minh cho lời trình bày của mình. Do đó,
với biên nhận ngày 11/8/2022, toà cấp phúc thẩm có căn cứ xác định bà P đã
đóng lãi cho anh H số tiền 420.000.000 đồng.
- Biên nhận vay ngày 23/8/2022, số tiền vay 200.000.000 đồng. Bà P đã
đóng lãi với tổng số tiền 54.000.000 đồng thể hiện qua các chứng từ chuyển tiền
lãi 6.000.000 đồng mỗi tháng qua Ngân hàng lần lượt các ngày 26/9/2022;
26/10/2022; 25/11/2022; 26/12/2022; 02/02/2023; 27/02/2023; 25/3/2023;
26/4/2023; 25/5/2023.
- Biên nhận vay ngày 08/12/2022, số tiền vay 500.000.000 đồng. Bà P đã
đóng lãi với tổng số tiền 90.000.000 đồng thể hiện qua các chứng từ chuyển tiền
lãi 15.000.000 đồng mỗi tháng qua ngân hàng lần lượt các ngày 11/01/2023;
09/02/2023; 10/3/2023; 10/4/2023; 10/5/2023; 13/6/2023.
- Biên nhận vay ngày 27/02/2023, số tiền vay 300.000.000 đồng. Bà P đã
đóng lãi với tổng số tiền 27.000.000 đồng thể hiện qua các chứng từ chuyển tiền
lãi 9.000.000 đồng mỗi tháng qua Ngân hàng lần lượt các ngày 30/3/2023;
29/4/2023; 29/5/2023.
Ngoài ra, bà P đã chuyển khoản cho anh H tiền lãi từ ngày 24/6/2023 đến
ngày 31/5/2024, tổng cộng số tiền 556.200.000 đồng.
Như vậy, bà P đã trả lãi cho anh H tổng số tiền là 2.527.200.000 đồng. Số tiền
này sẽ được cấn trừ với số tiền lãi được tính lại tại cấp sơ thẩm 3.080.019.331
đồng (lãi suất 1,66%/tháng). Do đó, bà P có trách nhiệm trả cho anh H số tiền lãi
còn lại cho anh H là 552.819.331 đồng (= 3.080.019.331 đồng – 2.527.200.000
đồng). Vì vậy, chấp nhận một phần kháng cáo của bà P.
[4] Về việc anh H yêu cầu bà P và ông H1 liên đới trả tiền vay: Xét Bản
tự khai của ông Trương Hoàng H1 trình bày rằng ông H1 hoàn toàn không biết
việc bà P vay tiền của anh H và số tiền vay không được sử dụng vào việc sinh
hoạt gia đình hay việc làm ăn chung của vợ chồng ông. Ông H1 cũng xác định
17
rằng bà P có tài sản riêng trong thời kỳ hôn nhân nên bà P tự chịu trách nhiệm
bằng tài sản riêng đối với việc vay mượn này. Trong suốt quá trình giải quyết vụ
án, bà P cũng khẳng định rằng việc bà P vay tiền của anh H hoàn toàn không
liên quan đến ông H1, ông H1 hoàn toàn không biết mục đích bà P vay tiền của
anh H. Đồng thời, bà P có trình bày rằng số tiền bà P vay của anh H là vay dùm
cho người quen là ông Trần Hoàng D số tiền 3.500.000.000 đồng (BL 335, 339-
340); bà Nguyễn Thị C số tiền 1.000.000.000 đồng (BL 337) và ông Trương
Hoàng N số tiền 1.500.000.000 đồng (BL 336). Ông D, bà C và ông N đều thừa
nhận việc nhờ bà P vay tiền dùm từ anh H. Anh H cho rằng khi cho vay anh cho
bà P, ông H1 vay tiền nhưng các biên nhận vay chỉ có cá nhân bà P ký tên, và
anh H cho rằng bà P vay tiền để sử dụng sinh hoạt gia đình của vợ chồng ông
H1, bà P, nhưng ngoài lời trình bày thì anh H không cung cấp được tài liệu
chứng cứ chứng minh lời trình bày của mình. Xét các biên nhận vay tiền chỉ có
cá nhân bà P viết, ký tên, hoàn toàn không có chữ ký của ông H1, các biên nhận
vay của không ghi rõ mục đích vay tiền và chỉ có bà P là người trả lãi cho anh H
từ khi hai bên xác lập quan hệ vay tài sản, thể hiện qua chứng từ chuyển khoản
mà bà P cung cấp cho Toà án. Như vậy, không có tài liệu, chứng cứ thể hiện
việc ông Trương Hoàng H1 biết việc bà Trần Hoàng Phi P vay tiền của anh Trần
Quốc H, đồng thời không có căn cứ để xác định bà Trần Hoàng Phi P vay tiền
của anh Trần Quốc H nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của gia đình
theo quy định tại Điều 27, khoản 2 Điều 37 Luật Hôn nhân và Gia đình năm
2014. Do đó, cấp sơ thẩm xác định số tiền vay của anh H là nợ riêng của bà P,
không chấp nhận yêu cầu của anh H yêu cầu bà P và ông H1 liên đới trả tiền vay
là có căn cứ, đúng pháp luật.
Từ những phân tích trên, cấp phúc thẩm nhận thấy yêu cầu kháng cáo của
anh H yêu cầu ông Trương Hoàng H1 và bà Trần Hoàng Phi P liên đới trả cho
anh H số tiền gốc 8.088.600.000 đồng và tiền lãi là 1.441.770.917 đồng là không
có căn cứ. Yêu cầu kháng cáo của bà P là có căn cứ chấp nhận một phần đối với
số tiền tại các chứng bà P trả lãi ngày 29/6/2022; ngày 17/4/202; ngày
08/5/2024; ngày 12/5/2024 vào tài khoản Ngân hàng mà anh H dùng để nhận
tiền lãi chuyển khoản từ bà P là tại Ngân hàng A và V1.
[5] Về án phí dân sự sơ thẩm:
Anh Trần Quốc H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trên số tiền bị bác yêu
cầu khởi kiện là 1.977.551.586 đồng (Một tỷ chín trăm bảy mươi bảy triệu năm
18
trăm năm mươi mốt ngàn năm trăm tám mươi sáu đồng), trong đó tiền gốc là
1.088.600.000 đồng (Một tỷ không trăm tám mươi tám triệu sáu trăm ngàn
đồng) và tiền lãi là 888.951.586 đồng (T2 trăm tám mươi tám triệu chín trăm
năm mươi mốt ngàn năm trăm tám mươi sáu đồng) là: 36.000.000 đồng + 3%
(1.977.551.586 đồng – 800.000.000 đồng) = 71.326.548 đồng. (Làm tròn là
71.326.500 đồng).
Bà P phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trên số tiền buộc trả cho anh Trần
Quốc H 7.552.819.331 đồng (Bảy tỷ năm trăm năm mươi hai triệu tám trăm
mười chín ngàn ba trăm ba mươi mốt đồng), trong đó: tiền gốc là 7.000.000.000
đồng (Bảy tỷ đồng) và tiền lãi là 552.819.331 đồng (Năm trăm năm mươi hai
triệu tám trăm mười chín ngàn ba trăm ba mươi mốt đồng) là: 112.000.000 đồng
+ 0,1% (7.552.819.331 đồng – 4.000.000.000 đồng) = 115.552.819 đồng. (Làm
tròn là 115.552.800 đồng).
Về án phí dân sự phúc thẩm: Các đương sự không phải chịu án phí dân sự
phúc thẩm.
[6] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm về chấp nhận một phần yêu cầu
phản tố của bà Trần Hoàng Phi P. Vô hiệu 06 biên nhận cụ thể như sau: Biên
nhận ngày 17/6/2023 vay 120.000.000 đồng; Biên nhận ngày 30/8/2023 vay
195.000.000 đồng; Biên nhận ngày 29/9/2023 vay 213.600.000 đồng; Biên nhận
ngày 28/10/2023 vay 180.000.000 đồng; Biên nhận ngày 30/11/2023 vay
180.000.000 đồng; Biên nhận ngày 29/12/2023 vay 200.000.000 đồng không có
kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo,
kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 2 Điều 308, Bộ luật Tố tụng dân sự 2015; khoản 2 Điều 26,
Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy
định về mức, thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của anh Trần Quốc H. Chấp nhận
yêu cầu kháng cáo của bà Trần Hoàng Phi P. Sửa Bản án dân sự sơ thẩm số
143/2024/DS-ST ngày 19/9/2024 của Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Vĩnh Long.
19
Căn cứ các Điều 26, 35, 39, 147, khoản 1 Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố
tụng dân sự năm 2015; Căn cứ các Điều 117, 123, 463, 468, 469 Bộ luật dân sự
năm 2015; Căn cứ Điều 27, khoản 2 Điều 37, Điều 45 Luật Hôn nhân gia đình
năm 2014.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn anh Trần Quốc
H (tên gọi khác B).
Buộc bà Trần Hoàng Phi P có nghĩa vụ phải trả cho anh Trần Quốc H (tên
gọi khác B) số tiền vốn và lãi là 7.552.819.331 đồng (Bảy tỷ năm trăm năm
mươi hai triệu tám trăm mười chín ngàn ba trăm ba mươi mốt đồng). Trong đó:
tiền vốn là 7.000.000.000 đồng (Bảy tỷ đồng) và tiền lãi là 552.819.331 đồng
(Năm trăm năm mươi hai triệu tám trăm mười chín ngàn ba trăm ba mươi mốt
đồng).
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật cho đến khi thi hành án xong, bên
phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án
theo mức lãi suất quy định tại khỏan 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015.
2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Trần Quốc H (tên gọi khác
B) về việc yêu cầu ông Trương Hoàng H1 liên đới cùng bà Trần Hoàng Phi P trả
cho anh H số tiền vốn, lãi là 9.530.370.917 đồng.
3. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện anh Trần Quốc H (tên gọi khác B)
yêu cầu bà Trần Hoàng Phi P trả số tiền là 1.977.551.586 đồng (Một tỷ chín
trăm bảy mươi bảy triệu năm trăm năm mươi mốt ngàn năm trăm tám mươi sáu
đồng). Trong đó tiền vốn là 1.088.600.000 đồng (Một tỷ không trăm tám mươi
tám triệu sáu trăm ngàn đồng) và tiền lãi là 888.951.586 đồng (T2 trăm tám
mươi tám triệu chín trăm năm mươi mốt ngàn năm trăm tám mươi sáu đồng).
4. Án phí:
Anh Trần Quốc H (tên gọi khác B) phải chịu 71.326.500 đồng án phí dân
sự sơ thẩm và không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm. Số tiền tạm ứng án phí
sơ thẩm 58.633.000 đồng theo biên lai thu số 1176 ngày 30/5/2024 và 300.000
đồng tạm ứng án phí phúc thẩm theo biên lai thu số 1419 ngày 01/10/2024 tại
Chi cục Thi hành án dân sự huyện L sẽ được khấu trừ. Buộc anh Trần Quốc H
(tên gọi khác B) nộp tiếp số tiền 12.393.500 đồng (Mười hai triệu ba trăm chín
mươi ba ngàn năm trăm đồng).
20
Bà Trần Hoàng Phi P phải chịu 115.552.800 đồng án phí dân sự sơ thẩm
và không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng
án phí sơ thẩm 1.155.000 đồng theo biên lai thu số 1365 ngày 30/7/2024 và tạm
ứng án phí phúc thẩm 300.000 đồng theo biên lai thu số 1451 ngày 03/10/2024
tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện L. Buộc bà Phi P nộp tiếp số tiền
114.097.800 đồng (Một trăm mười bốn triệu không trăm chín mươi bảy ngàn
tám trăm đồng).
5. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm về chấp nhận một phần yêu
cầu phản tố của bà Trần Hoàng Phi P. Vô hiệu 06 biên nhận cụ thể như sau:
Biên nhận ngày 17/6/2023 vay 120.000.000 đồng; Biên nhận ngày 30/8/2023
vay 195.000.000 đồng; Biên nhận ngày 29/9/2023 vay 213.600.000 đồng; Biên
nhận ngày 28/10/2023 vay 180.000.000 đồng; Biên nhận ngày 30/11/2023 vay
180.000.000 đồng; Biên nhận ngày 29/12/2023 vay 200.000.000 đồng không có
kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo,
kháng nghị.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2
Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành
án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện
thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và
9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại
Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- CA: 01;
- TACC: 01;
- VKSND TVL: 02;
- TAND huyện L: 01;
- VKSND huyện L: 01;
- Chi Cục THADS huyện L: 01;
- Đương sự: 03;
- HCTP: 01;
- KTNV&THA: 01;
- Lưu: 04.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Sơn Nữ Phà Ca
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 07/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 24/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 21/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 20/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 20/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 19/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 18/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 18/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 18/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 17/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 14/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 14/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 14/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 14/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 14/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 14/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 13/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 13/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 13/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm